Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Luận văn: Thực trạng và một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác quản lý tài chính BHXH tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (671.66 KB, 68 trang )








Luận văn
Thực trạng và một số
giải pháp nâng cao
chất lượng công tác
quản lý tài chính
BHXH tại Việt Nam
trong giai đoạn hiện
nay




§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
LỜI MỞ ĐẦU

Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một chính sách lớn của Đảng và Nhà
nước đối với người lao động, nhằm đảm bảo cuốc sống vật chất, ổn định đời
sống cho người lao động và gia đình họ trong các trường hợp bị ốm đau, thai
sản, suy giảm khả năng lao động, mất việc làm, hết tuổi lao động hoặc chết.
Chính sách BHXH ở nước ta được thực hiện ngay từ những ngày đầu mới
thành lập nước, 60 năm qua, trong quá trình tổ chức thực hiện, chính sách
BHXH ngày càng được hoàn thiện và không ngừng đổi mới, bổ xung cho
phù hợp với điều kiện hiện tại của đất nước. Cùng với quá trình đổi mới của
nền kinh tế từ sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986),


chính sách BHXH và tổ chức quản lí hoạt động cũng có nhiều đổi mới tích
cực.
Từ việc nghiên cứu quá trình đổi mới của BHXH tôi nhận thấy BHXH
thực sự là một chính sách quan trọng trong quá trình xây dựng và phát triển
của đất nước. BHXH không những góp phần ổn định đời sống của người lao
động mà còn khuyến khích họ tích cực lao động sản xuất tạo ra của cải cho
xã hội, xây dựng đất nước. Trong quá trình thực hiện BHXH đã không
ngừng phát triển cả về chất lượng lẫn số lượng. Số người tham gia ngày càng
tăng lên, mở rộng cho các đối tượng tham gia, hoàn thiện dần hệ thống chính
sách BHXH tiến tới thực hiện đủ các chế độ của Tổ chức lao động quốc tế
(ILO). Đặc biệt là sự đổi mới về cơ chế quản lí từ cơ chế quản lí kế hoạch
hoá, tập chung, bao cấp, hoàn toàn do NSNN đảm bảo đã chuyển sang cơ
chế thực hiện có thu và quỹ hoạt động trên nguyên tắc cân bằng thu chi.
Cách thực hiện như vậy không những giảm được gánh nặng cho NSNN mà
còn thể hiện trách nhiệm của cả người sử dụng lao động đối với người lao
động. Nhà nước nước đóng vai trò tổ chức thực hiện và quản lí thông qua
BHXH Việt Nam, là hệ thống ngành dọc được tổ chức từ Trung ương đến
địa phương.
Bên cạnh những mặt đạt được, BHXH Việt Nam cũng còn rất nhiều
tồn tại cần sớm được khắc phục cả về nội dung chính sách, tổ chức quản lí
hoạt động. Đây là những đòi hỏi cấp thiết cần được nghiên cứu để góp phần
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
hoàn thiện chính sách và tổ chức quản lí hoạt động của BHXH Việt Nam.
Trong đó quản lí tài chính BHXH Việt Nam là một mảng lớn, cần được chú
trọng và quan tâm vì tài chính BHXH có vững thì các chế độ trợ cấp mới
được đảm bảo thực hiện tốt mà không dẫn đến tình trạng thâm hụt NSNN.
Chính vì vậy với ngành học được đào tạo, sau khi về thực tập tại BHXH
Việt Nam, tôi đã chọn đề tài: “Công tác quản lí tài chính BHXH Việt
Nam- Thực trạng và giải pháp” để nghiên cứu công tác quản lí tài chính
BHXH Việt Nam, với mục đích là rút ra những kết quả đạt được để phát

huy, những tồn tại cần khắc phục. Hơn nữa thông qua đó có thể đưa ra
những đóng góp, góp phần hoàn thiện hệ thống BHXH Việt Nam, phát huy
tối đa chức năng của BHXH trong thời đại mới.
Kết cấu của đề tài gồm ba chương:
Chương I: Lí luận chung về BHXH và quản lí tài chính BHXH.
Chương II: Thực trạng công tác quản lí tài chính BHXH tại Việt Nam hiện nay.
Chương III: Một số giải pháp đối với công tác quản lí tài chính BHXH Việt Nam trong thời kì tới.













§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
CHƯƠNG I: LÍ LUẬN CHUNG VỀ BHXH VÀ
QUẢN LÍ TÀI CHÍNH BHXH

I. Những vấn đề cơ bản về BHXH.
Tính tất yếu khách quan của BHXH.
Sự ra đời của BHXH cũng giống như các chính sách xã hội khác luôn
bắt nguồn từ yêu cầu thực tiễn của cuộc sống đặt ra.Từ thời xa xưa, con
người để chống lại những rủi ro, thiên tai của cuộc sống đã biết đoàn kết
tương trợ lẫn nhau, giúp đỡ lẫn nhau. Nhưng sự giúp đỡ này chỉ mang tính

tự phát và với quy mô nhỏ, thường là trong một nhóm người chung quan hệ
huyết thống.
Khi xã hội càng ngày càng tiến bộ, đặc biệt là khi chuyển sang giai đoạn có sự phân công lao động
xã hội, nền sản xuất xã hội lúc này đã phát triển. Cùng với nó là quan hệ xã hội giữa các cá nhân, giữa các
cộng đồng cũng phát triển hơn. Khi đó tôn giáo bắt đầu xuất hiện, nó không chỉ với ý nghĩa giáo dục con
người hướng thiện mà còn có các trại bảo dưỡng, hội cứu tế với mục đích từ thiện, trợ giúp nhau trong cuộc
sống. Như vậy xét về bản chất thì hình thức tương trợ trong thời kì này đã mang tính có tổ chức và quy mô
rộng rãi hơn.
Từ thế kỉ thứ XVI ở Châu Âu đã xuất hiện ngành công nghiệp, những người nông dân không có
đất phải di cư ra thành phố làm thuê cho các nhà máy ngày càng nhiều và dần trở thành công nhân. Đặc biệt
đến thời kì cách mạng công nghiệp thì lực lượng ngày càng đông đảo và trở thành giai cấp công nhân. Nhìn
chung họ sống không ổn định, cuộc sống chỉ dựa vào công việc với đồng lương ít ỏi, mất việc làm, ốm đau,
tai nạn lao động đều có thể đe doạ cuộc sống của họ. Tình đoàn kết tương thân tương ái giữa họ đã nảy
nở, cùng với đó là sự ra đời của các nghiệp đoàn, các hiệp hội giúp đỡ các thành viên khi bị ốm đau bệnh
tật trong quá trình sản xuất. Bên cạnh Hội tương tế còn có Quỹ tiết kiệm được Nhà nước khuyến khích
thành lập. Tiếp đó những quy định bắt buộc người sử dụng lao động phải chu cấp cho người lao động thuộc
quyền quản lí khi họ gặp phải ốm đau, tai nạn lao động, mất việc Giai cấp công nhân càng đông đảo thì
sức ép đối với những đòi hỏi đảm bảo cuộc sống cho họ ngày càng ảnh hưởng đến đời sống chính trị của
mỗi nước. Trước tình cảnh đó Chính Phủ mỗi nước không thể không quan tâm đến tình cảnh của người lao
động. Những yêu cầu giảm giờ làm, cải thiện điều kiện lao động, đảm bảo cuộc sống của người lao động
dần được quy định thành các chính sách bắt buộc đối với mỗi nước.
Điển hình là vào năm 1850, dưới thời Thủ tướng Bismark của Đức đã giúp các địa phương thành
lập quỹ do người công nhân đóng góp để được trợ cấp lúc rủi ro. Nguyên tắc bảo hiểm bắt buộc bắt nguồn
từ đây, người được bảo hiểm phải tham gia đóng phí. Sau đó sáng kiến này được áp dụng rộng rãi trên khắp
thế giới. BHXH ngày càng được hoàn thiện, thực hiện rộng khắp các nước và được Tổ chức Lao động
Quốc tế ( ILO) thông qua trong Công ước số 102 vào tháng 4 năm 1952. BHXH ở nước ta đã manh nha
hình thành từ thời thực dân Pháp thống trị. Sau cách mạng tháng Tám, Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ
Cộng Hoà đã ban hành sắc lệnh 29/ SL ngày 12/3/1947 về việc thực hiện bảo hiểm ốm đau, tai nạn lao
động, hưu trí. Đây là những viên gạch đầu tiên xây dựng nên hệ thống BHXH Việt Nam như hiện nay.
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp

2. Khái niệm BHXH.
Qua quá trình hình thành chúng ta có thể nhận thấy, lúc khởi đầu, BHXH chỉ mang tính chất tự
phát, phạm vi hoạt động nhỏ hẹp, trước nhu cầu của thực tiễn thì chính sách BHXH đã nhanh chóng ra đời
và từng bước phát triển rộng khắp. BHXH đã được từ điển bách khoa Việt Nam định nghĩa như sau:
“ BHXH là sự đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ bị mất
hoặc giảm thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, tàn tật, thất nghiệp,
tuổi già, tử tuất dựa trên cơ sở một quỹ tài chính do sự đóng góp của các bên tham gia BHXH, có sự bảo hộ
của Nhà nước theo pháp luật, nhằm bảo đảm an toàn đời sống cho người lao động và gia đình họ, đồng thời
góp phần bảo đảm an toàn xã hội.”
Qua khái niệm trên, có thể rút ra một số điểm cơ bản sau:
- Đối tượng của BHXH chính là phần thu nhập của người lao động bị biến động, giảm hoặc mất đi do bị
giảm hoặc mất khả năng lao động do các biến cố như đã nêu trên từ đó để giúp ổ định cuộc sống của
bản thân người lao động và gia đình họ. Chính vì yếu tố này mà BHXH được coi là một chính sách lớn
của mỗi quốc gia và được Nhà nước quan tâm quản lí chặt chẽ. Cũng tùy vào điều kiện kinh tế của mỗi
nước mà các quy định về đối tượng này là có sự khác nhau nhưng cùng bảo đảm ổn đình đời sống của
người lao động.
- Đối tượng tham gia BHXH là gồm người lao động và cả người sử dụng lao động. Sở dĩ người lao động
phải đóng phí vì chính họ là đối tượng được hưởng BHXH khi gặp rủi ro. Người sử dụng lao động
đóng phí là thể hiện sự quan tâm, trách nhiệm của họ đối với người lao động. Và sự đóng góp trên là
bắt buộc, ngoài ra còn có sự hỗ trợ của Nhà nước.
- Để điều hoà mâu thuẫn giữa người lao động và người sử dụng lao động, để gắn bó lợi ích giữa họ, Nhà
nước đã đứng ra yêu cầu cả hai bên cùng đóng góp và đây cũng là chính sách xã hội được thực hiện
góp phần ổn định cuộc sống một cách hiệu quả nhất.
Dựa vào bản chất và chức năng của BHXH mà Tổ chức Lao động Quốc tế ( ILO) cũng đã đưa ra
một định nghĩa khác như sau:
“ BHXH là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình
thông qua một loạt các biện pháp công cộng (bằng pháp luật, trách nhiệm
của Chính phủ) để chống lại tình trạng khó khăn về kinh tế và xã hội do bị
mất hoặc giảm mất thu nhập gây ra bởi ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi
già, tàn tật và chết. Hơn nữa, BHXH còn phải bảo vệ cho việc chăm sóc y tế,

sức khoẻ và trợ cấp cho các gia đình khi cần thiết.”
Từ định nghĩa trên chúng ta thấy mục tiêu của BHXH là hướng tới sự phát triển của mỗi cá nhân
và toàn xã hội. BHXH thể hiện sự đảm bảo lợi ích của xã hội đối với mỗi thành viên từ đó gắn kết mỗi cá
nhân với xã hội đó.
3. Bản chất và chức năng của BHXH.
3.1. Bản chất của BHXH.
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
Có thể hiểu BHXH là sự bù đắp một phần thu nhập bị mất của người
lao động khi gặp phải những biến cố như ốm đau, tai nan lao động, bệnh
nghề nghiệp hoặc tuổi già làm mất, giảm khả năng lao động, từ đó giúp ổn
định cuộc sống của bản thân người lao động và gia đình họ. BHXH hiện nay
được coi là một chính sách xã hội lớn của mỗi quốc gia, được nhà nước quan
tâm và quản lí chặt chẽ. BHXH xét về bản chất bao gồm những nội dung sau
đây:
BHXH là sự cần thiết tất yếu khách quan gắn liền với sự phát triển của
nền kinh tế. Đặc biệt đối với nền kinh tế hàng hoá hoạt động theo cơ chế thị
trường, mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng lao động ngày
càng phát triển. Do vậy trình độ phát triển của nền kinh tế quyết định đến sự
đa dạng và tính hoàn thiện của BHXH. Vì vậy có thể nói kinh tế là yếu tố
quan trọng quyết định tới hệ thống BHXH của mỗi nước.
BHXH, bên tham gia BHXH, bên được BHXH là ba chủ thể trong mối
quan hệ của BHXH. Bên tham gia BHXH gồm người lao động và người sử
dụng lao động (bên đóng góp), bên BHXH là bên nhận nhiệm vụ BHXH,
thông thường thì do cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ,
bên được BHXH chính là người lao động và gia đình họ khi có đủ điều kiện
cần thiết. Từ đó họ được đảm bảo những nhu cầu thiết yếu, giúp họ ổn định
cuộc sống, góp phần ổn đình xã hội.
Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động của người lao
động có thể là những rủi ro ngẫu nhiên( tai nạn, ốm đau, bệnh nghề
nghiệp ), cũng có thể là các rủi ro không hoàn toàn ngẫu nhiên( tuổi già,

thai sản, ). Đồng thời các biến cố này có thể xảy ra trong quá trình lao
động hoặc ngoài lao động. Phần thu nhập của người lao động bị giảm hay
mất đi từ các rủi ro trên sẽ được thay thế hoặc bù đắp từ nguồn quỹ tập trung
được tồn tích lại do bên tham gia BHXH đóng góp và có thêm sự hỗ trợ của
NSNN.
3.2. Chức năng của BHXH.
Chức năng cơ bản nhất của BHXH là thay thế, bù đắp phần thu nhập
của người lao động khi họ gặp những rủi ro làm mất thu nhập do mất khả
năng lao động hay mất việc làm. Rủi ro này có thể làm mất khả năng lao
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
động tam thời hay dài hạn thì mức trợ cấp sẽ được quy định cho từng trường
hợp. Chức năng này quyết định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức
hoạt động của BHXH.
Đối tượng tham gia BHXH có cả người lao động và người sử dụng lao
động và cùng phải đóng góp vào quỹ BHXH. Quỹ này dùng để trợ cấp cho
người lao động khi gặp phải rủi ro, số người này thường chiếm số ít. BHXH
thực hiện cả phân phối lại thu nhập theo chiều dọc và chiều ngang, giữa
người lao động khoẻ mạnh với người lao động ốm đau, già yếu , giữa
những người có thu nhập cao phải đóng nhiều với người có thu nhập thấp
phải đóng ít. Như vậy thực hiện chức năng này BHXH còn có ý nghĩa góp
phần thực hiện công bằng xã hội, một mục tiêu quan trọng trong chính sách
kinh tế -xã hội của mỗi quốc gia.
Nhờ có BHXH mà người lao động luôn yên tâm lao động, gắn bó với
công việc, nâng cao năng suất lao động. Từ đó góp phần nâng cao năng suất
lao động xã hội, tạo ra của cải vật chất ngày càng nhiều hơn, nâng cao đời
sống toàn xã hội. Nếu trước đây, sự trợ giúp là mang tính tự phát, thì hiện
nay khi xã hội đã phát triển, việc trợ giúp đã được cụ thể hoá bằng các chính
sách, quy định của Nhà nước. Sự bảo đảm này giúp gắn bó mối quan hệ giữa
người lao động và xã hội và càng thúc đẩy hơn nghĩa vụ của họ đối với xã
hội.

Trong thực tế giữa người lao động và người sử dụng lao động có những mâu thuẫn nội tại, khách
quan về tiền lương, tiền công, thời gian lao động BHXH đã gắn bó lợi ích giữa họ, đã điều hoà được
những mâu thuẫn giữa họ, làm cho họ hiểu nhau hơn. Đây cũng là mối quan hệ biện chứng hai bên đều có
lợi, người lao động thì được đảm bảo cuộc sống, người sử dụng thì sẽ có một đội ngũ công nhân hăng hái,
tích cực trong sản xuất. Đối với Nhà nước thì BHXH là cách chi ít nhất song hiệu quả nhất vì đã giải quyết
những khó khăn về đời sống của người lao động và góp phần ổn định sản suất, ổn định kinh tế - xã hội.
4. Nguyên tắc hoạt động của BHXH.
Nhìn chung hệ thống BHXH được thực hiện dựa trên các nguyên tắc sau:
Thứ nhất là nguyên tắc đóng hưởng chia sẻ rủi ro; lấy số đông bù số ít, lấy của người đang làm
việc bù đắp cho người nghỉ hưởng chế độ BHXH. Đây là nguyên tắc hoạt động chung của ngành bảo hiểm
là quỹ góp chung của số đông bù cho số ít là những người thiếu may mắn gặp phải những rủi ro trong cuộc
sống, trong lao động sản xuất. Phần thể hiện tính chính sách của Nhà nước là việc rủi ro trong BHXH
không chỉ là những rủi ro thuần tuý như trong bảo hiểm thương mại mà còn có cả những rủi ro không mang
tính ngẫu nhiên như: tuổi già, thai sản,
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
Thứ hai là mức hưởng phải thấp hơn tiền lương làm căn cứ đóng BHXH, nhưng phải đảm bảo
được mức sống tối thiểu cho người hưởng khoản trợ cấp đó. Việc quy định trên là hoàn toàn hợp lí và cũng
là quy định chung cho tất cả các nước, song thấp bao nhiêu còn tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị,
xã hội của mỗi nước trong mỗi thời kì khác nhau.
Thứ ba là phải tự chủ về tài chính, đây là nguyên tắc quan trọng trong chính sách BHXH của các
nước. Nếu chỉ hoàn toàn phụ thuộc vào Ngân sách Nhà nước (NSNN) giống như giai đoạn trước cải cách
năm 1995 của nước ta thì đây thực sự là một gánh nặng lớn của đất nước. Việc thành lập quỹ BHXH do các
bên tham gia BHXH đóng góp và có sự hỗ trợ của Nhà nước là hoàn toàn phù hợp. Quỹ này có thể quản lí
theo các cách thức khác nhau song độc lập với NSNN , NSNN chỉ bù thiếu hoặc tài trợ một phần tuỳ thuộc
vào quy định của mỗi nước khác nhau.
5. Các chế độ của BHXH.
Đối với mỗi nước có những hoàn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội khác
nhau nên BHXH được tổ chức thực hiện theo những quy định riêng khác
nhau. BHXH được xây dựng dựa vào các nguyên tắc trên một cách thống
nhất trên toàn thế giới và phải tuân thủ các quy định sau của tổ chức Lao

động Quốc tế (ILO) về hệ thống chính sách BHXH. Trong Công ước 102
được ILO thông qua ngày 4/6/1952 có quy định những quy phạm tối thiểu
về an toàn xã hội đã đưa ra 9 chế độ sau:
- Chăm sóc y tế.
- Trợ cấp ốm đau.
- Trợ cấp thất nghiệp.
- Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
- Trợ cấp tuổi già.
- Trợ cấp thai sản.
- Trợ cấp tàn tật.
- Trợ cấp vì mất người trụ cột gia đình.
Các thành viên tham gia Công ước phải thực hiện ít nhất là 3 trong 9
chế độ nói trên, trong đó phải có nhất thiết 1 trong năm chế độ sau đây:
- Trợ cấp tuổi già.
- Trợ cấp thất nghiệp.
- Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
- Trợ cấp tàn tật.
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
- Trợ cấp vì mất người trụ cột gia đình.
Mỗi chế độ trong hệ thống BHXH khi xây dựng phải dựa trên các cơ
sở điều kiện kinh tế, thu nhập, tiền lương, Đồng thời, tuỳ từng chế độ mà
còn phải tính đến các yếu tố sinh học, tuổi thọ bình quân, nhu cầu dinh
dưỡng, để quy định các mức đóng, mức hưởng, thời gian hưởng và đối
tượng hưởng cho hợp lí. Các chế độ BHXH có những đặc điểm chủ yếu sau
đây:
+ Các chế độ được xây dựng theo luật pháp của mỗi nước.
+ Hệ thống các chế độ mang tính chất chia sẻ rủi ro, chia sẻ tài chính.
+ Mỗi chế độ được chi trả đều căn cứ chủ yếu vào mức đóng góp của các
bên tham gia BHXH.
+ Phần lớn các chế độ là chi trả định kì.

+ Đồng tiền được sử dụng làm phương tiện chi trả và thanh quyết toán.
+ Chi trả BHXH như là quyền lợi của mỗi chế độ BHXH.
+ Mức chi trả còn phụ thuộc vào quỹ dự trữ. Nếu quỹ dự trữ được đầu tư
có hiệu quả và an toàn thì mức chi trả sẽ cao và ổn định.
+ Các chế độ BHXH cần phải được điều chỉnh định kì để phản ánh hết
sự thay đổi của điều kiện kinh tế -xã hội.
6. Quỹ BHXH và phân loại quỹ BHXH.
6.1. Quỹ BHXH.
Như chúng ta đã tìm hiểu trong phần 1 ở trên thì sự ra đời của quỹ
BHXH là một bước ngoặt lớn đối với ngành BHXH trên toàn thế giới. Quỹ
BHXH là một quỹ tài chính độc lập, tập chung nằm ngoài NSNN và được
hình thành từ các nguồn sau đây:
- Người sử dụng lao động đóng góp,
- Người lao động đóng góp,
- Nhà nước đóng và hỗ trợ thêm,
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
- Các nguồn khác (như cá nhân và tổ chức từ thiện ủng hộ, lãi từ các
hoạt động đầu tư quỹ nhàn rỗi).
Trách nhiệm tham gia đóng góp BHXH cho người lao động được
phân chia cho cả người lao động và người sử dụng lao động trên cơ sở quan
hệ lao động. Điều này không phải sự chia sẻ rủi ro, mà là lợi ích giữa hai
bên. Sự đóng góp một phần quỹ của người sử dụng lao động cho người lao
động sẽ tránh được những thiệt hại kinh tế do phải chi ra một khoản tiền lớn
khi có rủi ro xảy ra đối với người lao động mà mình thuê mướn. Đồng thời,
nó còn góp phần giảm bớt mâu thuẫn, kiến tạo mối quan hệ tốt đẹp giữa chủ-
thợ. Về phía người lao động, sự đóng góp của họ vừa thể hiện sự tự gánh
chịu chính những rủi ro của chính mình, vừa có ý nghĩa ràng buộc nghĩa vụ
và quyền lợi một cách chặt chẽ.
Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ
các nguồn nêu trên. Tuy nhiên, phương thức đóng góp và mức đóng góp của

các bên tham gia BHXH có khác nhau tuỳ thuộc quy định của mỗi nước.
Hiện nay mức đóng góp BHXH của người lao động và người sử dụng lao
động hiện vẫn còn hai quan điểm. Quan điểm thứ nhất cho rằng, phải căn cứ
vào mức lương cá nhân và quỹ lương cơ quan, doanh nghiệp. Quan điểm thứ
hai lại cho rằng, phải căn cứ vào mức thu nhập cơ bản của người lao động
được cân đối chung trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân để xác định mức
đóng góp. Về mức đóng góp BHXH, mỗi nước lại có những quy định khác
nhau. Một số nước quy định người sử dụng lao động phải chịu toàn bộ chi
phí cho chế độ tai nạn lao động, Chính phủ trả chi phí y tế và trợ cấp gia
đình, các chế độ còn lại cả người lao động và người sử dụng lao động cùng
đóng góp mỗi bên một phần bằng nhau. Trong đó, một số nước khác lại quy
định, Chính phủ bù thiếu cho quỹ BHXH hoặc chịu toàn bộ chi quản lí
BHXH
Quỹ BHXH được sử dụng để chi trả chủ yếu cho hai mục đích sau:
thứ nhất là chi trả và trợ cấp cho các chế độ BHXH như đã nêu ở mục 5, còn
lại là chi trả cho chi phí sự nghiệp quản lí BHXH. Trong hai khoản chi đó thì
khoản chi thứ nhất là quan trọng và chiếm phần lớn trong quỹ BHXH. Các
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
khoản trợ cấp này cũng được quy định về mức trợ cấp và thời gian hưởng
một cách cụ thể và có sự khác biệt đối với từng chế độ. Tại những nước khác
nhau thì các khoản trợ cấp này cũng được quy định khác nhau.
6.2. Phân loại quỹ BHXH:
Tuỳ theo mục đích và cách tổ chức của những hệ thống BHXH trên
thế giới mà quỹ BHXH được phân loại khác nhau:
- Phân loại theo các chế độ bao gồm: Quỹ hưu trí, tử tuất; Quỹ tai nạn
lao động và bệnh nghề nghiệp; Quỹ thất nghiệp; Quỹ ốm đau thai sản.
- Phân loại theo tính chất sử dụng bao gồm: Quỹ ngắn hạn để chi trả
cho các chế độ ngắn hạn như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động làm
mất khả năng lao động tạm thời; Quỹ dài hạn để chi trả trợ cấp cho
các chế độ như hưu trí, tử tuất.

- Phân loại theo đối tượng tham gia bao gồm: Quỹ cho công chức Nhà
nước, quỹ cho lực lượng vũ trang, quỹ cho lao động trong các doanh
nghiệp, quỹ cho các đối tượng còn lại.
Việc phân loại quỹ như trên cần được thực hiện và cân nhắc tránh
những tình trạng phân nhỏ quỹ dễ gây ra tình trạng mất tập trung, không có
sự bổ xung và hỗ trợ lẫn nhau. Việc phân chia quỹ không hợp lí sẽ dẫn tới
những ảnh hưởng xấu đến việc chi trả cho các đối tượng, đặc biệt là vấn đề
quản lí quỹ một cách hợp lí. Dựa trên các cách tổ chức thực hiện các chế độ
mà mỗi nước lại có những quy định khác nhau về các quỹ thành phần. Các
quỹ thành phần phải thực sự phù hợp với hệ thống BHXH đó.
II. Quản lí tài chính BHXH.
1. Khái niệm chung về quản lí tài chính BHXH.
Trước tiên chúng ta cần hiểu khái niệm về quản lí. Quản lí là những hoạt động nhằm tác động một
cách có tổ chức, có định hướng của chủ thể quản lí vào một đối tượng quản lí nhất định để điều chỉnh các
quá trình xã hội và hành vi của con người từ đó có thể duy trì được tính ổn định của đối tượng. Đối tượng
của quản lí ở đây là tài chính BHXH, tài chính BHXH là một thuật ngữ thuộc phạm trù tài chính chỉ một
mắt khâu tài chính tồn tại độc lập trong hệ thống tài chính quốc gia. Tài chính BHXH tham gia vào quá
trình phân phối và sử dụng các nguồn tài chính nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động và gia đình họ
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
khi gặp rủi ro từ đó đảm bảo sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội. Như vậy, nhìn rộng ra thì quản lí tài
chính BHXH là việc sử dụng tài chính BHXH như một công cụ quản lí xã hội của Nhà nước. Nhà nước
thông qua hoạt động tài chính BHXH để thực hiện mục tiêu quản lí xã hội đó là đảm bảo ổn định cuộc sống
cho nhân dân trước những rủi ro làm giảm hoặc mất khả năng lao động hay khi về già, giúp người lao động
yên tâm lao động sản xuất, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. BHXH thể hiện tính ưu việt của mỗi quốc
gia, mỗi thể chế xã hội . Còn hiểu theo nghĩa hẹp thì quản lí tài chính BHXH là quản lí thu chi BHXH. Như
vậy quản lí tài chính BHXH chủ yếu liên quan tới việc làm thế nào để hoạt động thu chi quỹ BHXH được
thực hiện một cách bình thường trước những biến động của môi trường. Biến động ở đây là những biến
động về đối tượng tham gia, đối tượng hưởng, biến động của môi trường sống, môi trường kinh tế ,
những biến động tác động trực tiếp đến đời sống của người lao động, đến việc thu chi quỹ BHXH, ảnh
hưởng tới sự đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH. Nội dung của quản lí tài chính BHXH chủ yếu là sự lựa chọn

và xác định các chính sách, chế độ, quy chế về tài chính BHXH một cách hợp lí và lấy đó làm căn cứ để ra
quyết định cụ thể của thu chi BHXH thực hiện mục tiêu của Nhà nước đặt ra.
Khi thực hiện quản lí tài chính BHXH cần chú ý hai nguyên tắc chủ
yếu sau:
- Quá trình quản lí tài chính BHXH phải luôn được tính toán, so sánh và cân đối trong trạng
thái động: Bởi vì lượng tiền mặt của quỹ biến động theo từng chế độ trợ cấp BHXH khác nhau, lượng lao
động biến động một cách thường xuyên nên trong quản lí, đặc biệt là khâu lập kế hoạch phải chú trọng tới
vấn đề này. Đây cũng là một đặc thù trong ngành Bảo hiểm nói chung và BHXH nói riêng vì tính đảo
ngược chu kì kinh doanh tức là thu phí trước chi trả cho các chế độ sau. Tuy có sự hỗ trợ của NSNN, song
quản lí tài chính BHXH phải góp phần giảm gánh nặng cho NSNN và vẫn thực hiện chính sách xã hội này
một cách tốt nhất.
- Quỹ BHXH phải được bảo tồn và phát triển: Như trên đã đề cập thì ngành Bảo hiểm có đặc
thù thu phí trước, chi trả sau, thời gian đóng và thời gian hưởng có thể kéo dài, đồng tiền có giá trị về mặt
thời gian. Do vậy cần đầu tư để bảo tồn và tăng trưởng quỹ một cách hợp lí. Để đảm bảo nguyên tắc này cơ
quan BHXH phải tăng cường kiểm tra, giám sát hoạt động thu chi và quản lí quỹ thực hiện đầu tư phần quỹ
nhàn rỗi một cách có hiệu quả và tuân thủ các nguyên tắc sau:
+An toàn: Mục đích của quỹ là bảo đảm chi trả lương hưu và các trợ cấp BHXH cho người lao động.
Vì vậy, quỹ dù có đầu tư vào lĩnh vực nào cũng phải đảm bảo an toàn cho khoản đầu tư đó. Đảm bảo an
toàn là không chỉ bảo toàn vốn đầu tư về danh nghĩa, mà còn là bảo toàn về cả giá trị thực tế, điều này càng
có ý nghĩa quan trọng trong thời kì lạm phát. Nói cách khác thì đầu tư quỹ phải lựa chọn lĩnh vực để giảm
thiểu rủi ro.
+ Hiệu quả: Đây là mục tiêu của việc đầu tư tăng trưởng quỹ do vậy nguyên tắc này rất quan trọng và
phải được đi liền với nguyên tắc thứ nhất. Lãi đầu tư không chỉ góp phần đảm bảo khả năng thanh toán cho
các khoản chi mà còn góp phần cho phép hạ tỉ lệ đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động.
+ Khả năng thanh toán (tính lưu chuyển của vốn): Đây cũng là yêu cầu đặc thù của nghành do các
khoản chi trả là phát sinh sau và kéo dài nên các khoản đầu tư phải đảm bảo tính thanh khoản để dễ dàng
chi trả cho các đối tượng kịp thời. Đặc biệt tránh những khoản đầu tư dễ vướng vào những vấn đề tồn
khoản. Các hình thức đầu tư dễ thanh khoản và an toàn thường được ưu tiên thực hiện trước.
+ Có lợi ích kinh tế, xã hội: Là một quỹ tài chính để thực hiện chính sách xã hội, do đó trong quá trình
đầu tư phải lưu ý đến việc nâng cao phúc lợi cho người dân, phải ra sức cải thiện chất lượng chung cho đời

sống dân cư của đất nước. Các hình thức, hạng mục đầu tư phải đặt vấn đề hiệu quả kinh tế xã hội lên hàng
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
đầu. Hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH khác với các hoạt động đầu tư khác với mục tiêu lợi nhuận
làm đầu vì BHXH chính là một chính sách quan trọng trong hệ thống An sinh xã hội của mỗi nước.
2. Nội dung quản lí tài chính BHXH.
Nhìn chung, quản lí tài chính BHXH bao gồm bốn nội dung cơ bản
sau:
- Quản lí thu BHXH.
- Quản lí chi BHXH.
- Quản lí hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ.
- Quản lí cân đối quỹ BHXH.
2.1. Quản lí thu BHXH.
Quản lí thu giữ vai trò quan trọng và quyết định đến sự thành công của quá trình thu BHXH, từ đó
quyết định đến sức mạnh quỹ BHXH để đảm bảo cho việc chi trả cho các chế độ trợ cấp. Trước tiên chúng
ta phải nắm được nội dung thu gồm hai khoản thu từ người lao động và người sử dụng lao động. Đây là
khoản thu lớn nhất và đóng vai trò quan trọng, quyết định. Các khoản thu khác như: thu từ các quỹ của các
tổ chức, cá nhân từ thiện hay sự hỗ trợ của NSNN là nhỏ, NSNN chỉ bù đắp cho những trường hợp cần
thiết. Hơn nữa đây là khoản thu mà tổ chức BHXH cũng không thể tự điều chỉnh được vì nó mang tính thụ
động. Do vậy mà công tác quản lí thu chỉ tập chung vào nguồn thu từ hai đối tượng chính người lao động
và người sử dụng lao động. Nội dung của quản lí thu lại tập chung vào ba đối tượng chính sau đây:
Quản lí đối tượng tham gia BHXH: Đây là việc đầu tiên mà mỗi tổ chức BHXH khi thực hiện
quan tâm đến, thường các đối tượng này được quy định rõ trong các văn bản quy phạm pháp luật của Nhà
nước. Hơn thế nữa BHXH cũng hoạt động trên nguyên tắc san sẻ rủi ro và tuân theo quy luật số đông bù số
ít nên việc tham gia đầy đủ của các đối tượng tham gia BHXH là việc rất quan trọng. Quản lí đối tượng
tham gia cần thực hiện các công việc sau:
+ Quản lí số lượng đăng kí tham gia BHXH.
+ Quản lí đối tượng bắt buộc tham gia BHXH theo quy định.
+ Quản lí công tác cấp sổ BHXH: Vì đây là căn cứ xác định quá trình
đóng góp, ngành nghề lao động, thời gian lao động, tên người lao động và
một số thông tin khác.

Quản lí quỹ lương của các doanh nghiệp: Theo những quy định hiện hành như ngày nay thì phí
thu BHXH thường được tính theo phần trăm tổng quỹ lương của doanh nghiệp và tiền lương tháng của
người lao động nên quỹ lương còn là cơ sở để quản lí thu một cách thuận lợi. Dựa trên quỹ lương của
doanh nghiệp BHXH có thể đảm bảo thu đúng, thu đủ và hạn chế được tình trạng gian lận trốn đóng
BHXH. Bên cạnh đó chính các doanh nghiệp trở thành những “đại lí” thực hiện thu và chi trả trực tiếp cho
một vài chế độ là thực sự thuận lợi cho công tác thu phí nói riêng và công tác thực hiện các chế độ BHXH
nói chung.
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
Quản lí tiền thu BHXH: Các đơn vị, doanh nghiệp sẽ thực hiện nộp phí thông qua tài khoản của
BHXH. Do vậy, BHXH khó nắm bắt được tình hình thu. Để đảm bảo thu đúng, thu đủ, kịp thời cần có
những quy định rõ ràng về thời gian nộp, hệ thống tài khoản thu nộp phải thuận lợi và an toàn cho việc nộp.
Việc nắm bắt tình hình thu BHXH giúp quản lí quỹ dễ dàng, kịp thời điều chỉnh và đảm bảo cho công tác
chi trả được thực hiện một cách tốt nhất. Trong nội dung quản lí thu BHXH, tất cả các đóng góp BHXH sẽ
được quản lí chung một cách thống nhất, dân chủ, công khai trong toàn hệ thống.
2.2. Quản lí chi BHXH.
Các khoản chi BHXH bao gồm các khoản chi cho các chế độ, chi quản lí và chi khác. Trong đó có
thể nói hai khoản chi đầu là rất lớn đặc biệt là chi cho các chế độ, hơn nữa khoản chi này chính là thể hiện
sự bảo đảm cuộc sống của chính sách BHXH. Vì vậy nhắc đến quản lí chi là nhắc đến hai nội dung chính
sau:
Quản lí hoạt động chi trả cho các chế độ: Mục tiêu của hoạt động quản lí chi không với mục đích
giảm khoản chi này một cách lớn nhất có thể mà quản lí để tránh tình trạng chi sai chế độ hoặc chi không
đúng đối tượng vừa tránh lãng phí lại đảm bảo công bằng cho các đối tượng tham gia BHXH. Do vậy, để
đảm bảo chi trả trợ cấp đúng chế độ, đúng đối tượng, kịp thời cần có phương thức chi hợp lí, tổ chức thực
hiện chi trả cho các chế độ thuận lợi, dễ dàng. Cũng như quản lí hoạt động thu trước tiên chúng ta phải
quản lí những đối tượng được hưởng các chế độ BHXH. Đối tượng có thể hưởng các chế độ chính là bản
thân người lao động hoặc người thân trong gia đình họ. Đối tượng được hưởng các chế độ trợ cấp là những
người lao động tham gia đóng phí BHXH và gặp phải những rủi ro làm mất hoặc giảm khả năng lao động
dẫn đến mất hoặc giảm thu nhập của họ. Các điều kiện hưởng được quy định cụ thể trong các văn bản,
thường thì mức trợ cấp, loại trợ cấp và thời gian trợ cấp thì phụ thuộc vào mức đóng góp, thời gian đóng
góp, mức độ hay tỉ lệ thương tật, và chính biến cố mà người lao động gặp phải. BHXH Việt Nam muốn

quản lí tốt cần có những văn bản quy định rõ ràng và hợp lí về các điều kiện hưởng của các loại chế độ, dựa
trên cơ sở đó để xử lí các trường hợp cho công bằng. Đối tượng hưởng cần được xem xét và kiểm tra nhằm
tránh tình trạng chi sai hoặc chi không hợp lí. Quản lí chi cho các chế độ cũng cần được phân loại và phân
cấp quản lí để dễ quản lí và thực hiện chi trả cho thuận tiện.
Quản lí chi hoạt động bộ máy: Sau chi cho các chế độ thì đây là khoản chi lớn thứ hai cần được
quản lí. Chi quản lí có thể hiểu đơn giản là khoản chi cho bộ máy tức là trả lương cho cán bộ, chi cho đầu
tư xây dựng cơ bản, chi mua sắm thiết bị và những tài sản cố định nhằm duy trì hoạt động của tổ chức
BHXH. Mức chi này có thể được quy định trong điều lệ BHXH hoặc cũng có thể được lập trong NSNN.
Khoản chi này cần được quản lí tránh những lãng phí không cần thiết. Một số nước khoản chi này được
NSNN chi trả, một số nước lại do quỹ BHXH đảm bảo. Song nhìn chung thì chi phí quản lí là phải phù hợp
tránh những lãng phí không cần thiết, song chi phí quản lí cũng phải đủ lớn để đảm bảo cơ sở cho hoạt
động quản lí của BHXH được thực hiện dễ dạng. Hơn nữa lương cho cán bộ nhân viên của ngành BHXH
phải cân bằng với các ngành khác.
2.3. Quản lí hoạt động đầu tư nhằm bảo toàn và tăng trưởng quỹ.
Quỹ BHXH tại một thời điểm thường có số tiền kết dư rất lớn, đây là cơ sở của những yêu cầu cần
bảo toàn và phát triển quỹ. Như chúng ta đã biết thì quỹ thu trước, chi sau, đặc biệt trong điều kiện nền kinh
tế thị trường với những cơ hội cũng như những rủi ro có thể xảy ra bất cứ lúc nào nên việc bảo toàn và phát
triển quỹ lại trở thành nhu cầu bức thiết. Nếu quỹ không chú trọng đến vấn đề đầu tư có thể sẽ đứng trước
tình trạng bội chi hay nói cách khác là chi vượt quá thu. Nếu đầu tư tăng trưởng quỹ có hiệu quả thì đây là
một nguồn thu bổ sung rất lớn cho quỹ để đảm bảo cân đối thu chi từ đó giảm gánh nặng cho NSNN. Để
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
hoạt động đầu tư thực hiện đúng vai trò của nó thì phải đảm bảo những nguyên tắc như an toàn, tránh rủi
ro, có lãi và trên hết là thực hiện được lợi ích xã hội.
2.4. Quản lí hoạt động cân đối quỹ.
BHXH là chính sách xã hội nên khác với các loại hình bảo hiểm
thương mại, BHXH hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận mà mục đích lớn
nhất là ổn định cuộc sống của người lao động. Do vậy cân bằng thu chi là
trạng thái mong muốn của mỗi nước khi triển khai thực hiện BHXH. Để cân
đối thu chi trên thực tế thường phải có sự hỗ trợ của NSNN, đồng thời thì
quỹ phải tìm cho mình những nguồn thu khác để đảm bảo cân bằng quỹ.

Trong đó các khoản chi và nguồn thu đã được trình bày ở trên. Quản lí cân
đối quỹ là việc làm hết sức quan trọng nhằm phát hiện ra những thay đổi dẫn
đến mất cân đối để có những biện pháp khắc phục kịp thời.
3. Các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động quản lí tài chính BHXH.
Đối với ngành quản trị nói chung và công tác quản lí tài chính BHXH
nói riêng thì việc xem xét các yếu tố tác động của môi trường tới hoạt động
của đối tượng quản lí là rất cần thiết. Các tác động của môi trường có thể
mang đến những thách thức cũng như những cơ hội cho chính bản thân các
hoạt động tài chính của BHXH. Muốn quản lí tốt, nhà quản trị cần nắm rõ
những yếu tố này để đưa ra những quyết định hợp lí và có lợi nhất cho đối
tượng quản lí. Các tác động của môi trường thường được chia làm hai loại là
tác động của môi trường ngoài hệ thống và tác động từ môi trường trong hệ
thống.
Tác động từ môi trường ngoài hệ thống bao gồm các ảnh hưởng từ môi trường kinh tế- chính trị-
xã hội của mỗi quốc gia. Nhìn rộng ra thì có thể là cả những ảnh hưởng của môi trường thế giới. Khi chúng
ta xem xét các yếu tố của BHXH dưới giác độ của các công ước quốc tế mà Tổ chức Lao động Quốc tế (
ILO) đã quy định. Nhưng các nhân tố môi trường trong nước là quan trọng hơn. BHXH không chỉ là thể
hiện tính ưu việt của mỗi Nhà nước mà chính Nhà nước cũng là chủ sử dụng lao động lớn nhất trong xã hội.
Các chính sách, quyết định của Nhà nước tác động trực tiếp tới hoạt động quản lí. Môi trường kinh tế như
GDP, thu nhập bình quân đầu người, giá cả, tình trạng nền kinh tế tăng trưởng hay khủng hoảng, mức sống
tối thiểu, các dịch vụ công cộng . Đây là các yếu tố tác động tới thu chi, cân đối quỹ BHXH sao cho phù
hợp đảm bảo ổn định cuộc sống cho người lao động. Bên cạch đó còn có các yếu tố như văn hoá, lối sống,
truyền thống, trình độ nhận thức, nó tác động đến mức độ chấp nhận, sự đồng tình thực hiện của mỗi cá
nhân trong xã hôi. Chẳng hạn như ở nước ta có truyền thống “lá lành đùm là rách, lá rách ít đùm lá rách
nhiều” rất phù hợp với mục đích triển khai BHXH nên được mọi người đồng tình thực hiện. Tất cả những
yếu tố kể trên tác động tới nội dung của những quy định trong các quy chế quản lí tài chính BHXH Việt
Nam.
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
Những tác động của bản thân các yếu tố bên trong hệ thống như ý thức tự giác của các đối tượng
tham gia là người lao động và đặc biệt là chủ sử dụng lao động. Yếu tố trình độ của các cán bộ trong ngành

BHXH, điều kiện làm việc, trang thiết bị phục vụ công tác, cũng ảnh hưởng trực tiếp đến công tác quản lí
tài chính BHXH. Trình độ cán bộ càng cao, cơ sở vật chất kĩ thuật cang đầy đủ và hiện đại thì công tác
quản lí tài chính BHXH càng thuận lợi, thực hiện càng có hiệu quả.

III. Kinh nghiệm của một số nước về quản lí tài chính BHXH.
Tính đến năm 1993, trên thế giới đã có 163 nước thực hiện chính sách BHXH, trong đó số các
nước thực hiện chế độ hưu trí, tai nạn lao động, ốm đau, thai sản là nhiều nhất lên tới 155 nước, chiếm
khoảng 95%, ít nhất là chế độ thất nghiệp là có khoảng 63 nước, chiếm 38,6%. Việc thực hiện các chế độ là
tuỳ thuộc vào điều kiện tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi nước. Tuy nhiên xu hướng chung hiện
nay là đang dần thực hiện ngày càng đầy đủ hơn các chế độ. Đối với lịch sử phát triển của ngành BHXH
trên thế giới thì BHXH Việt Nam còn rất mới, như vậy chúng ta cần học hỏi kinh nghiệm của các nước đi
trước.
1. Quản lí tài chính BHXH ciủa Cộng hoà Liên bang Đức.
So với các nước trên thế giới, Cộng hoà Liên bang Đức là nước có lịch sử phát triển được coi như
sớm nhất. Điều luật BHXH đầu tiên đã ra đời và thực hiện từ những năm 1850. Cho đến nay, chính sách
BHXH ở Đức bao gồm 6 chế độ sau:
+ Bảo hiểm thất nghiệp.
+ Bảo hiểm y tế.
+ Bảo hiểm chăm sóc sức khoẻ cho người già và người tàn tật.
+ Bảo hiểm ốm đau.
+ Bảo hiểm tai nạn lao động.
+ Bảo hiểm hưu trí.
Hoạt động BHXH của Cộng hoà Liên bang Đức thực hiện theo ba trụ
cột chính là:
- Hệ thống BHXH bắt buộc.
- Hệ thống BHXH tư nhân.
- Hệ thống BHXH ở các xí nghiệp.
Trong đó hệ thống BHXH bắt buộc được tổ chức theo mô hình tự
quản, bảo đảm tài chính theo phương pháp lấy thu bù chi. Hệ thống BHXH
tư nhân và hệ thống BHXH ở các xí nghiệp hoạt động theo Bộ luật Lao động

của Liên bang. Tự chịu là hình thức quản lí tương đối độc lập với sự chỉ đạo
của cơ quan quản lí Nhà nước cao nhất. Có thể hiểu rõ thông qua cơ chế
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
quản lí chung của Quỹ hưu trí sau. Cơ quan quản lí cao nhất là một Hội
đồng, hội động này bổ nhiệm Ban điều hành, từ Ban điều hành sẽ điều hành
mọi hoạt động của tổ chức. Hoạt động tài chính trong năm của Quỹ hưu trí
viên chức Liên bang diễn ra như sau:
Vào mùa hè hàng năm, các chuyên gia của Chính phủ Liên bang, tổ
chức BHXH, Tổng cục Thống kê sẽ dự kiến nhu cầu tài chính của năm tới
theo phương pháp ước tính. Từ đó đưa ra dự kiến số thu, dự kiến số chi, trên
cơ sở này xác định tỉ lệ thu cho năm tới và tiến hành đưa ra bằng một văn
bản có hiệu lực pháp luật. Quỹ thu thường là đủ dùng chi trả cho các đối
tượng hưởng chế độ, chi hoạt động của bộ máy quản lí và còn một khoản để
dự trữ gọi là khoản dự trữ trần. Do sự ổn định của nền kinh tế mà khoản dự
trữ này thường chỉ ở mức đủ chi cho các đối tượng do quỹ đảm bảo trong
một tháng, từ năm 2001 đã rút xuống khoản 0,8 tháng. Cách này có những
ưu điểm như: hạn chế được những tác động của môi trường kinh tế, dễ dàng
cân đối quỹ, giảm thiểu tình trạng bội chi, không hề gây gánh nặng cho
NSNN, .
Cộng hoà Liên bang Đức không có các tổ chức BHXH thực hiện cùng
một lúc nhiều chế độ, mà thông thường mỗi tổ chức chỉ chịu trách nhiệm
thu, chi cho một loại chế độ nhất định. Điểm đáng lưu ý ở nước này là những
công chức Nhà nước ( những người được đề cử vào bộ máy quản lí Nhà
nước) không phải đóng BHXH, nhưng họ được nhận lương hưu khi hết tuổi
lao động. Khoản chi này được lấy từ nguồn thu thuế để trả. Có nhiều tổ chức
cùng tham gia thực hiện các chế độ BHXH, đặc biệt là sự có mặt của các tổ
chức BHXH tư nhân, có thể mang lại sự cạnh tranh giúp cho hoạt động
ngày càng hiệu quả.
2. Quản lí tài chính BHXH của Trung Quốc.
Ngay sau khi thành lập nước, Chính phủ Trung Quốc đã tiến hành

xây dựng một hệ thống an toàn xã hội, chủ yếu bao gồm BHXH, cứu trợ xã
hội, phúc lợi xã hội, trợ giúp xã hội. Trong các chế độ đó BHXH giữ vai trò
quan trọng nhất. Đến năm 1994, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua
Luật Lao động, trong đó chương IX có những quy định cải cách hệ thống
BHXH. Các chế độ BHXH chỉ được áp dụng ở các khu vực thành thị và
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
trong các doanh nghiệp. Tại các địa phương ở Trung Quốc đã cụ thể hoá các
chế độ, trong đó hai chế độ là hưu trí và thất nghiệp đã được xây dựng thành
Điều lệ, các chế độ khác về cơ bản còn là quy định tạm thời song có hiệu lực
khá cao.
Về nguyên tắc mỗi chế độ có một quỹ riêng. Nguồn quỹ gồm hai
khoản: Một khoản do chủ sử dụng lao động nộp và một khoản do người lao
động đóng. Riêng quỹ bảo hiểm tai nạn lao động thì chỉ do chủ sử dụng lao
động đóng. NSNN sẽ hỗ trợ khi mất cân đối thu chi do các nguyên nhân bất
khả kháng, còn các trường hợp khác tự người lao động và người sử dụng lao
động bảo đảm. Các quỹ nhìn chung được chia làm hai phần: Phần thứ nhất
được đưa vào tài khoản cá nhân gồm toàn bộ số tiền do người lao động đóng
và một phần do chủ sử dụng lao động đóng; Phần thứ hai được đưa vào quỹ
chi chung trong trường hợp cần thiết là phần đóng góp còn lại của chủ sử
dụng lao động. Qua đây chúng ta nhận thấy hiện nay có khá nhiều nước
quản lí quỹ theo từng chế độ, đây là phương pháp quản lí mang tính mở dễ
thích nghi với nhiều điều kiện của từng khu vực, từng tầng lớp lao động. Đặc
biệt việc hình thành tài khoản cá nhân, bản thân người lao động có thể nắm
bắt được số dư cũng như họ được hưởng hoàn toàn nên có những sự điều
chỉnh tránh tình trạng mất công bằng. Cách quản lí quỹ như vậy đã phân
định được rõ trách nhiệm của mỗi bên do vậy tránh tình trạng lẫn lộn giữa
các quỹ, sử dụng sai mục đích hay thất thoát.








§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp







CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÍ
TÀI CHÍNH BHXH TẠI VIỆT NAM

I. Giới thiệu chung về BHXH Việt Nam.
1. Khái quát về sự hình thành và quá trình phát triển của
BHXH Việt Nam
1.1. BHXH Việt Nam giai đoạn trước 1995.
Ngay từ đầu của cuộc kháng chiến, mặc dù còn rất nhiều khó khăn và
phải giải quyết nhiều công việc hệ trọng của đất nước nhưng Nhà nước ta
vẫn luôn dành sự quan tâm tới việc tổ chức thực hiện BHXH. Trước tiên
Chính phủ cách mạng đã áp dụng chế độ hưu trí cũ của Pháp để giải quyết
quyền lợi cho một số công chức đã làm việc dưới thời Pháp, sau đó đi theo
kháng chiến nay đã già yếu. Sau cách mạng tháng Tám thành công do còn
khó khăn về nhiều mặt nên chế độ chỉ được thực hiện đến năm 1949.
Năm 1950, Hồ Chủ Tịch kí Sắc lệnh số 76/SL ngày 20/5/1950 ban
hành quy chế công chức và Sắc lệnh số 77/SL ngày 22/5/1950 ban hành quy
chế công nhân. Theo các Sắc lệnh trên, công chức và công nhân đã có những
quyền lợi về chế độ hưu trí. Nhìn lai chính sách BHXH giai đoạn này chúng

ta có thể nhận thấy các chính sách được xây dựng và thực hiện ngay sau khi
dành được độc lập tuy hoàn cảnh đất nước còn rất nhiều khó khăn. Mặt
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
khác các chính sách triển khai thực hiện không đầy đủ, chỉ mới thực hiện
được một số chế độ cơ bản với mức trợ cấp thấp nhằm đảm bảo cuộc sống
tối thiểu cho bộ phận công nhân, viên chức Nhà nước. Nguồc chi 100% lấy
từ NSNN, chưa hề có sự đóng góp của các bên.
Đến ngày 27/12/1961, Chính phủ ban hành Điều lệ BHXH tạm thời về
các chế độ BHXH cho cán bộ, công nhân viên kèm theo Nghị định 218/ CP.
Tiếp theo đó là Nghị định 161/CP ngày 30/10/1964 ban hành Điêu lệ BHXH
tạm thời đối với quân nhân. Như vậy đối tượng được tham gia BHXH đã mở
rộng, và áp dụng cho 6 loại chế độ gồm: hưu trí, mất sức lao động, tử tuất,
ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp. Như vậy là các chế
độ của BHXH Việt Nam được triển khai khá đầy đủ từ rất sớm. Hơn nữa tài
chính thời kì này bắt đầu quy định có sự đóng góp một phần của các xí
nghiệp, phần còn lai vẫn do NSNN cấp. Đến năm 1985 cùng với cải cách
tiền lương, Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Nghị định 236/HĐBT có những
sửa đổi bổ xung quan trọng như tăng tỉ lệ đóng góp của các đơn vị sản suất
kinh doanh. Tuy vậy, thời kì này do nhiều nguyên nhân khác nhau, chủ yếu
là sản xuất gặp khó khăn, làm ăn thua lỗ cộng với cơ chế quản lí bao cấp
không hiệu quả nên BHXH hầu như không có thu và NSNN vẫn phải bù cấp
là chính. Đây cũng là giai đoạn tổ chức quản lí BHXH không ổn định, ro
nhiều Bộ ngành khác nhau đảm nhiệm ( Bộ nội vụ, Bộ Lao động Thương
binh và Xã hôi, Bộ tài chính, Bộ Y tế và Tổng Liên đoàn lao động Việt
Nam). Song chịu trách nhiệm quản lí chính là Bộ Lao động Thương binh và
Xã hôi và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thư VI ( tháng 12/1986) đề ra đường lối
đổi mới toàn diện, xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, xây dựng cơ
chế mới phù hợp với quy luật khách quan và trình độ phát triển của nền kinh
tế. Cùng với sự đổi mới chung của đất nước, chính sách BHXH cũng có

những chuyển biến. Nội dung cải cách lần này tập trung vào cải cách cơ chế
bao cấp trong quản lí, mở ra loại hình BHXH bắt buộc và BHXH tự nguyện.
Đến ngày 22/6/1993 Chính phủ ban hành Nghị định 43/CP về những quy
định tạm thời chế độ BHXH. Trong đó có quy định tăng mức đóng BHXH
và đặc biệt người lao động phải đóng BHXH. Cơ chế hoạt động của BHXH
được quy định trong chương XII của Bộ Luật lao động do Quốc hội khoá IX
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
thông qua ngày 23/6/1994, sau đó được cụ thể hoá trong Điều lệ BHXH và
hai Nghị định 12/CP và 45/CP ban hành năm 1995. Từ đây ngành BHXH
Việt Nam chuyển sang trang mới trong lịch sử phát triển của mình.
1.2. BHXH Việt Nam giai đoạn sau 1995.
Đây là giai đoạn chính sách và quản lí hoạt động BHXH có những đổi
mới thực sự từ cơ chế tập chung, bao cấp không đóng BHXH vẫn được
hưởng BHXH sang hoạt động theo nguyên tắc có đóng có hưởng, có chia sẻ
rủi ro. Về quản lí hoạt động BHXH từ chỗ phân tán do nhiều cơ quan khác
nhau đảm nhận, nay tập chung thống nhất về một đầu mối là BHXH Việt
Nam. Trên cơ sở quy định đóng BHXH, chính sách thời kì này xác lập rõ cơ
chế hình thành và sử dụng quỹ BHXH. Theo đó quỹ BHXH Việt Nam do
BHXH Việt Nam quản lí chỉ chịu trách nhiệm đối với người lao động từ
năm 1995 trở đi, còn NSNN đảm bảo chi trả cho những đối tượng nghỉ làm
việc trước năm 1995.
BHXH Việt Nam mở rộng đối tượng tham gia, bao gồm thêm các
doanh nghiệp kinh tế có sử dụng 10 lao động trở lên ( hiện nay là bắt buộc
đối với mọi doanh nghiệp có sử dụng lao động); cán bộ xã phường, thị trấn;
các lao động làm việc trong các cơ sở Y tế, Giáo dục, Văn hoá và Thể thao
ngoài công lập. BHXH cũng quy định lại hiện nay chỉ còn 5 chế độ trợ cấp :
ốm đau; tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp; thai sản; hưu trí và tử tuất
(bỏ chế độ nghỉ mất sức lao động). Điều lệ BHXH và hai Nghị định 12/CP
và 45/CP là những quy định pháp lí được thực hiện đến nay và chỉ có những
sửa đổi nhỏ.

Với mục đích:
+Thực hiện cải cách tổ chức bộ máy của Chính phủ trong tình hình
mới trong chương trình tổng thể cải cách hành chính Nhà nước giai đoạn
2001- 2010.
+Phục vụ và đáp ứng yêu cầu tốt hơn cho người tham gia BHXH,
BHYT và tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan, đơn vị, tổ chức sủ dụng
người lao động đóng bảo hiểm theo quy định của pháp luật.
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
+Phát triển và nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực của cả hệ thống
BHXH và BHYT.
Ngày 24/1/2002 Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
20/2002/ QĐ- TTg về việc chuyển BHYT sang BHXH Việt Nam.
Ngày 16/12/2002 Chính phủ ban hành Nghị định số 100/CP quy định
chức năng, nhiệm cụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt Nam.
Trong đó khẳng định BHXH Việt Nam là cơ quan sự nghiệp thuộc Chính
phủ, có chức năng thực hiện chính sách, chế độ BHXH, BHYT (gọi chung là
BHXH) và quản lí Quỹ BHXH theo quy định của pháp luật. Đến tháng
1/2003 Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ra Quyết định số 02/2003/QĐ- TTg
ban hành về quy chế quản lí tài chính đối với BHXH Việt Nam. Kèm theo
đó là Quy chế quản lí tài chính đối với BHXH Việt Nam bao gồm những
quy định chung áp dụng trong quản lí tài chính.
2. Chính sách BHXH Việt Nam từ năm 1995 đến nay.
Nghị định số 12/CP ban hành ngày 26/1/1995 của chính phủ ban hành
Điều lệ BHXH áp dụng đối với cán bộ, công nhân, viên chức Nhà nước và
mọi người lao động theo loại hình BHXH bắt buộc để thực hiện thống nhất
trong cả nước. Các chế độ BHXH trong Điều lệ này gồm có: chế độ trợ cấp
ốm đau, chế độ trợ cấp thai sản, chế độ trợ cấp tai nạn lao động- bệnh nghề
nghiệp, chế độ trợ cấp hưu trí, chế độ trợ cấp tử tuất. Những người làm việc
ở những đơn vị, tổ chức sau đây là những đối tượng phải tham gia BHXH
bắt buộc: các doanh nghiệp Nhà nước, các doanh nghiệp thuộc thành phần

kinh tế ngoài quốc doanh có sử dụng từ 10 lao động trở lên, người Việt Nam
làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các tổ chức nước
ngoài, tổ chức quốc tế tại Việt Nam, các tổ chức kinh doanh dịch vụ, doanh
nghiệp thuộc các cơ quan hành chính sự nghiệp, đảng đoàn thể, lực lượng vũ
trang, các đơn vị hành chính sự nghiệp, đảng, đoàn thể, tổ chức chính trị,
chính trị- xã hội.
Ngày 15/7/1995 Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định 45/CP về
Điều lệ BHXH đối với sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, binh sĩ
quân đội nhân dân, công an nhân dân. Các chế độ BHXH này gồm có: chế
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
độ trợ cấp ốm đau, chế độ trợ cấp thai sản, chế độ trợ cấp tai nạn lao động-
bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu trí, chế độ tử tuất.
Nghị định số 09/ 1998/NĐ- CP ngày 23/1/1998 của Chính phủ sửa
đổi, bổ xung một số điều củ Nghị định 50/CP ngày 26/7/2995 của Chính phủ
về chế độ sinh hoạt phí đối cới cán bộ xã, phường, thị trấn. Cán bộ cấp xã
tham gia đóng BHXH và hưởng chế độ hưu trí và mai táng là những cán bộ
làm công tác Đảng, chính quyền và trưởng các đoàn thể: Chủ tịch Mặt trận,
Hội trưởng hội phụ nữ, Hội trưởng hội nông dân, Hội trưởng Hội Cựu chiến
binh, Bí thư đoàn THCS Hồ Chí Minh và các cán bộ chưc danh chuyên môn
là Văn phòng Uỷ ban nhân dân xã, địa chính, tư pháp, tài chính- kế toán.
Chính sách khuyến khích xã hội hoá đối với các hoạt động trong lĩnh
vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao được quy định trong Nghị định số 73/
1999/ NĐ- CP ngày 19/8/1999. Nghị định này cho phép thành lập các cơ sở
ngoài công lập dưới các hình thức như bán công, dân lập, tư nhân hoạt động
trong các lĩnh vực giáo dục, y tế, văn hoá, thể thao nhưng phải phù hợp với
quy hoạch của Nhà nước, không theo mục đích thương mại và đúng theo
quy định của của pháp luật. Người lao động làm việc trong các cơ sở ngoài
công lập được tham gia và hưởng mọi quyền lợi về BHXH như người lao
động trong các đơi vị công lập.
Đối với người lao động và chuyên gia Việt Nam đi làm việc có thời

hạn ở nước ngoài phải tham gia BHXH bắt buộc và được hưởng các chế độ
BHXH hưu trí và tử tuất. Điều này được quy định trong Nghị định số
52/1999/ NĐ- CP ban hành ngày 20/9/1999.
Ngày 15/12/2000 Chính phủ ban hành Nghị định số 77/2000/NĐ- CP
về việc điều chỉnh mức tiền lương tối thiểu, mức trợ cấp, và sinh hoạt phí
đối với các các đối tượng hưởng lương, phụ cấp, trợ cấp và sinh hoạt phí.
Trong đó có quy định tăng mức tiền lương tối thiểu từ 180 000 đồng lên 210
000 đồng/ tháng. Cùng năm đó Chính phủ cũng ban hành Nghị định số
71/2000/ NĐ-CP quy định việc kéo dài thời gian công tác của cán bộ công
chức đến độ tuổi nghỉ hưu. Tức là cán bộ công chức đến tuổi nghỉ hưu được
xem xét kéo dài thêm thời gian công tác đối với các đối tượng làm công tác
nghiên cứu, những người có học vị tiến sĩ, chức danh Giáo sư, Phó giáo sư,
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
những người có tài năng. Thời gian kéo dài có thể từ 1 đến 5 năm với điều
kiện cơ quan, tổ chức, đơn vị sử dụng có nhu cầu và cán bộ, công chức đó tự
nguyện và có đủ sức khoẻ để làm việc.
Năm 2001 Chính phủ tiếp tục ra hai Nghị định 04/2001/NĐ-CP và
61/2001/NĐ-CP. Nghị định 04 quy định chi tiết về một số điều của Luật Sĩ
quan Quân đội nhân dân Việt Nam năm 1999 về chế độ chính sách đối với sĩ
quan thôi phục vụ tại ngũ, sĩ quan chuyển sang quân nhân chuyên nghiệp
hoặc công chức quốc phòng. Nghị định 61 quy định về tuổi nghỉ hưu của
người lao động khai thác hầm lò. Tuổi nghỉ hưu là 50, đủ 20 năm đóng
BHXH và có ít nhất 15 năm làm công việc nêu trên. Tuổi nghỉ hưu có thể
tăng lên nhưng không quá 55 khi người lao động không đủ số năm đóng
BHXH.
Nghị định 100/ 2002/ NĐ- CP ngày 06/12/2002 của Chính phủ quy
định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BHXH Việt
Nam. Trong đó nêu rõ các vị trí, chức năng, có 19 điểm quy định quyền hạn
và nhiệm vụ của BHXH Việt Nam.
Ngày 9/9/2003 Chính phủ ban hành Nghị định số 01/2003/NĐ- CP đã

sửa đổi, bổ xung một số điều của Điều lệ BHXH Việt Nam.
3. Cơ cấu tổ chức, quản lí của BHXH Việt Nam.
Bộ Lao động- Thương binh và Xã hội là cơ quan của Chính phủ thực
hiện việc quản lí Nhà nước về BHXH: xây dựng và trình ban hành pháp luật
về BHXH; ban hành các văn bản pháp quy về BHXH thuộc thẩm quyền;
hướng dẫn, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện BHXH. Chính phủ thành lập
hệ thống tổ chức BHXH thống nhất để quản lí quỹ và thực hiện các chế độ,
chính sách về BHXH theo quy định của pháp luật.
Theo điều 3, Nghị định số 100/2002/ NĐ- CP có quy định: BHXH
Việt Nam được tổ chức, quản lí theo hệ thống dọc, tập trung, thống nhất từ
Trung ương tới địa phương, gồm có ba cấp:
1. Cấp Trung ương là BHXH Việt Nam.
§¹i häc Kinh tÕ quèc d©n LuËn v¨n tèt nghiÖp
2. Cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương là BHXH tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương ( gọi chung là BHXH tỉnh) trực thuộc
BHXH Việt Nam.
3. Cấp huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh là BHXH
huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh ( gọi chung là
BHXH huyện) trực thuộc BHXH tỉnh.
BHXH Việt Nam được tổ chức thành hệ thống ngành dọc từ Trung
ương xuống địa phương. Cơ quan quản lí là Hội đồng quản lí BHXH Việt
Nam, chịu trách nhiệm trực tiếp trước Thủ tướng Chính phủ về các hoạt
động chỉ đạo, điều hành và quản lí của mình. Tổng giám đốc là đại diện
pháp nhân của BHXH Việt Nam, do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm theo đề
nghị của Hội đồng quản lí. Tổng giám đốc chịu trách nhiệm trước Thủ tướng
Chính phủ và Hội đồng quản lí về thực hiện chính sách, chế độ BHXH và
quản lí quỹ BHXH theo quy định của pháp luật.
Giúp việc cho tổng giám đốc là các Phó tổng giám đốc và các phòng
ban nghiệp vụ chuyên môn. Bộ máy quản lí giúp việc cho Tổng giám đốc tại
BHXH Việt Nam hiện nay gồm có:

1. Ban Chế độ chính sách BHXH.
2. Ban Kế hoạch- Tài chính.
3. Ban thu BHXH.
4. Ban chi BHXH.
5. Ban BHXH tự nguyện.
6. Ban giám định Y tế.
7. Ban tuyên truyền BHXH.
8. Ban Hợp tác quốc tế.
9. Ban Tổ chức cán bộ.
10. Ban kiểm tra.
11. Văn phòng.
12. Trung tâm Nghiên cứu khoa học BHXH.

×