Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Luận văn: Thực trạng và giải pháp đối với tín dụng trung - dài hạn tại chi nhánh NHNN và PT Nông Thôn Đông Hà Nội pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (670.57 KB, 68 trang )



II


Luận văn

Thực trạng và giải pháp
đối với tín dụng trung - dài
hạn tại chi nhánh NHNN và
PT Nông Thôn Đông Hà Nội






















Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

LỜI NÓI ĐẦU

Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà
Nước đất nước ta ngày càng phát triển. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
vận hành theo cơ chế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa đã giành được
những thành tựu to lớn như kiềm chế lạm phát, nhịp độ tăng trưởng về tổng sản
phẩm trong nước đã vượt kế hoạch đề ra, nước ta đã thoát khỏi khủng
hoảng…Bên cạnh những thành tựu đạt được chúng ta còn những mặt chưa làm
được như: Tình hình xã hội còn nhiều tiêu cực, quản lý nhà nước về kinh tế còn
lỏng lẻo, chỉ số giá tiêu dùng tăng đột biến…Đảng và Nhà Nước ta đã xác định
nhiệm vụ quan trọng trong thời gian tới là tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại
hoá nền kinh tế đất nước. Muốn vậy, chúng ta cần phải có nguồn vốn trung - dài
hạn lớn để xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi mới công nghệ, trang bị kỹ thuật tiên
tiến, đồng thời có sự nâng cấp mở rộng sản xuất kinh doanh đối với các thành
phần kinh tế từ đó tạo đà cho sự phát triển. Có thể nói, chỉ có nguồn vốn trung -
dài hạn mới giúp ta hoàn thành mục tiêu này. Do đó mà nguồn vốn trung - dài
hạn đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế.
Tuy nhiên, có nguồn vốn trung - dài hạn thôi là chưa đủ mà phải biết sử
dụng hiệu quả nguồn vốn đó thì mới phát huy hết được vai trò tích cực cũng như
chống lại sự lãng phí. Hay nói một cách khác, chỉ khi nào mở rộng gắn liền với
nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn thì nguồn vốn trung - dài hạn mới
phát huy được vai trò tích cực của mình.
Mặc dù vậy, trước những biến động không ngừng của nền kinh tế thị
trường thì chúng ta không thể nào dự đoán hết được những rủi ro có thể xẩy ra,
ảnh hưởng của nó tới hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng trung - dài hạn
nói riêng của toàn bộ ngành ngân hàng cũng như của chi nhánh ngân hàng
No&PTNT Đông Hà Nội. Đây chính là nguyên nhân mà tôi đã chọn đề tài:

“Thực trạng và giải pháp đối với tín dụng trung - dài hạn tại chi nhánh
Ngân Hàng No&PTNT Đông Hà Nội ”
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

Đề tài của tôi ngoài phần lời nói đầu, kết luận thì nội dụng được chia làm
3 chương:
ChươngI: Khái quát tín dụng trung - dài hạn của ngân hàng thương mại.
ChươngII: Thực trạng tín dụng trung - dài hạn tại chi nhánh Ngân Hàng
No&PTNT Đông Hà Nội.
ChươngIII: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn tại
chi nhánh Ngân Hàng No&PTNT Đông Hà Nội.
Đề tài nghiên cứu trên đây là một lĩnh vực rộng lớn và phức tạp nhưng
thời gian nghiên cứu và kinh nghiệm thực tiễn còn nhiều hạn chế nên chuyên đề
này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận đuợc sự
góp ý của các thầy cô giáo, ban giám đốc ngân hàng và bất cứ ai quan tâm đến
vấn đề này để đề tài này được hoàn thiện hơn.
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT TÍN DỤNG TRUNG – DÀI HẠN CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1. Tín dụng trung - dài hạn và vai trò của tín dụng - trung dài
hạn
1.1.1. Khái niệm tín dụng trung – dài hạn
Tín dụng (credit), xuất phát từ tiếng Latinh là credo – là sự tin tưởng, sự
tín nhiệm và được định nghĩa dưới nhiều giác độ khác nhau:
- Tín dụng là quan hệ vay mượn trên nguyên tắc hoàn trả.
- Tín dụng là quá trình tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ hay hiện vật
trên nguyên tắc có hoàn trả.

- Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở
hữu sang người sử dụng để sau một thời gian sẽ thu hồi về một lượng giá trị lớn
hơn lượng giá trị ban đầu.
- Tín dụng là sự chuyển dịch vốn dưới hình thái tiền tệ hay hiện vật của
một tổ chức, cá nhân này cho một tổ chức, cá nhân khác sử dụng trong một thời
gian nhất định trên nguyên tắc hoàn trả.
Như vậy, tín dụng có thể được diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau nhưng
bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản giữa một bên là người đi vay và
một bên là người cho vay trên cơ sở hoàn trả cả gốc và lãi.
Đối với một ngân hàng thương mại, tín dụng là chức năng cơ bản của
ngân hàng, là một trong những nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng. Tín dụng ngân
hàng được định nghĩa như sau:
Tín dụng ngân hàng là một hình thức tín dụng phản ánh một giao dịch về
tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay là ngân hàng hoặc các tổ chức tín
dụng và bên đi vay là các cá nhân, doanh nghiệp, chủ thể sản xuất kinh doanh,
trong đó bên cho vay chuyển tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn
gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Về các hình thức của tín dụng ngân hàng thì có nhiều tiêu thức khác nhau
để phân chia tín dụng ngân hàng. Dưới đây là một cách phân chia phổ biến mà
Ngân hàng thường sử dụng khi phân tích và đánh giá:
 Phân theo thời hạn tín dụng ta có:
- Tín dụng ngắn hạn: là khoản tín dụng dưới 1 năm và được sử dụng để bổ
sung sự thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của doanh nghiệp, và nó còn có thể
được vay cho những tiêu dùng cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: là khoản tín dụng có thời hạn từ 1-5 năm. Loại hình
tín dụng này thường được dùng để cung cấp, mua sắm tài sản cố định, cải tiến và
đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn

nhanh.
- Tín dụng dài hạn: là khoản tín dụng có thời gian trên 5 năm. Loại tín
dụng này được dùng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản như đầu tư xây dựng các
xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản
xuất,…
Nói chung, tín dụng - trung và dài hạn được đầu tư để hình thành vốn cố
định của khách hàng, mua sắm máy móc thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ
thuật của doanh nghiệp để từ đó cải tiến công nghệ sản xuất, nâng cao chất
lượng sản phẩm, mở rộng sản xuất chiếm lĩnh thị trường
1.1.2. Đặc diểm tín dụng trung dài hạn
Tín dụng trung dài hạn có những đặc điểm quan trọng sau:
- Tín dụng trung - dài hạn được cấp cho khách hàng nhằm hỗ trợ cho họ
trong việc mua sắm, tạo lập tài sản cố định. Do đó, đối tuợng cho vay chủ yếu
của ngân hàng thương mại trong hình thức tín dụng này là vốn thiếu hụt tạm thời
của các doanh nghiệp.
- Do gắn liền với tài sản cố định và vốn vố định của khách hàng, tín dụng
trung - dài hạn của ngân hàng thương mại thường gắn liền với các dự án đầu tư.
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

Tuy nhiên, với tín dụng trung hạn thường đầu tư theo chiều sâu, trong khi đó tín
dụng dài hạn tập trung cho các dự án đầu tư mở rộng.
- Tín dụng trung - dài hạn của ngân hàng thương mại có thời gian hoàn
vốn chậm. Nguồn trả tiền vay cho ngân hàng chủ yếu được lấy từ quỹ khấu hao
và một phần từ lợi nhuận của chính dự án mang lại. Vì thế, khách chỉ có thể
hoàn trả khoản vay có quy mô lớn thành nhiều lần khác nhau – thời hạn cho vay
kéo dài trong nhiều năm.
- Tín dụng trung - dài hạn thường có thời gian kéo dài, quy mô tín dụng
thường lớn, nguy cơ rủi ro cao vì nền kinh tế quốc gia luôn biến động. Sự biến
động này có thể tích cực hoặc tiêu cực mà chúng ta không thể biết được. Do đó
mà môt khoản vay dài hạn thường đem lại nhiều rủi ro hơn là một khoản vay

ngắn hạn vì thời gian càng dài thì xác suất xảy ra những biến động này lớn hơn .
Mặt khác, lãi suất của cho vay trung - dài hạn thường lớn hơn lãi suất cho vay
ngắn hạn. Vì độ rủi ro cao hơn, thời gian thu hồi vốn lâu hơn.
1.1.3. Các hình thức tín dụng trung - dài hạn
1.1.3.1. Tín dụng theo dự án đầu tư
a. Cho vay đồng tài trợ ( Synđicate loan):
- Là quá trình cho vay của một nhóm tổ chức tín dụng (từ 2 tổ chức tín
dụng trở lên) cho một dự án, do một tổ chức tín dụng làm đầu mối, phói hợp với
các bên bên đồng tài trợ để thực hiện, nhằn phân tán rủi ro của các tổ chức tín
dụng.
- Hình thức này được được áp dụng trong các trường hợp : Các dự án đầu tư
đòi hỏi một khoản vốn lớn mà các ngân hàng riêng lẻ thìo không đáp ứng hết được
ngân hàng thường chỉ được phép đầu tư vốn tới một mức độ nhất định so với tổng
nguồn vốn của mình và không được đầu tư qúa nhiều vốn vào một công ty để đảm
bảo an toàn vốn tài sản. Thậm chí đối với một vài dự án ngân hàng có thể đáp ứng
toàn bộ nhưng rủi ro quá lớn ngân hàng không muốn đảm nhận hết. Do vậy, cho
vay đồng tài trợ là một họat động tín dụng giúp ngân hàng phân tán rủi ro và có thể
sử dụng tối đa nguồn vốn của họ cho đầu tư vào các dự án dài hạn.
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

b. Cho vay trực tiếp theo dự án:
- Đây là hình thức tín dụng trung – dài hạn phổ biến trong nền kinh tế thị
trường. ngân hàng thương mại tiến hành mọi hoạt động và tự chịu trách nhiệm
với từng dự án đầu tư của khách hàng mà họ đẫ lựa chọn để tài trợ.
Chính vì vậy, công việc của ngân hàng không chỉ đơn thuần là cho vay
mà còn phải quán xuyến hàng loạt các công việc khác có liên quan đến trực thi
có hiệu quả của dự án như : quy hoạch sản xuất, thiết kế, quy trình công nghệ,
tiêu chuẩn thiết bị máy móc, giá cả thị trường, hiệu quả đầu tư Bởi vì việc quy
định cấp một khoản tín dụng sẽ dàng buộc ngân hàng với người vay trong một
số thời gian, cho nên cần phải nghiên cứu một cách nghiêm túc và xem xét kỹ

lưỡng các rủi ro có thể xẩy ra.
1.1.3.2. Tín dụng thuê mua (leasing credit)
- Thuê mua là hình thức cho vay tài sản thông qua một hợp đồng tín dụng
thuê mua qua đó người cho thuê chuyển giao tài sản thuộc quyền sở hữu của
mình cho người đi thuê sử dụng và ngưòi thuê có trách nhiệm thanh toán tiền
thuê trong suốt thời hạn thuê và có thể đựoc quyền sở hữu tài sản thuê, được
quyền mua tài sản thuê hoặc được quyền thuê tiếp theo các điều kiện đã được
hai bên thoả thuận.
* Tài sản thuê bao gồm cả động sản và bất động sản :
- Động sản chủ yếu gồm máy móc thiết bị, ô tô dây chuyền công nghệ…
- Bất động sản chủ yếu là cửa hàng, văn phòng làm việc, cơ sở sản xuất…
Về mặt pháp lý, tài sản thuê thuộc quyền sở hữu của người cho thuê, còn
đi thuê chỉ được quyền sử dụng. Vì vậy, người đi thuê không đựơc bán chuyển
nhượng cho người khác. Song họ được hưởng những lợi ích do việc sử dụng tài
sản đó đem lại, đồng thời chịu phần vốn rủi ro có liên quan đến tài sản. Tín dụng
thuê mua có một số hình thức như : thuê mua có tham gia của ba bên, thuê mua
có sự tham gia của hai bên, tái thuê mua (sale – base back), thuê mua hợp tác
(levereged lease, thuê mua giáp lưng (under lease)…
* Xét về lợi ích thì cả ngân hàng và khách hàng đều có lợi
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

- Đối với ngân hàng (bên cho thuê): đây là hình thức tài trợ bổ sung cho
các hình thức tài trợ khác đang tồn tại ở ngân hàng, nó giúp ngân hàng mở rộng
dịch vụ, nâng cao năng lực cạnh tranh, giảm mức độ rủi ro, đảm bảo nguyên tắc
vốn vay được sử dụng đúng mục đích.
- Đối với các doanh nghiệp : hình thức này có thể giúp các doanh nghiệp
có thể sử dụng vốn vay dưới dạng các máy móc, thiết bị mà không phải bỏ vốn
lớn, không ảnh hưởng tới bảng tổng kết tài sản và hạn mức tín dụng của doanh
nghiệp việc cấp tín dụng thuê mua thường nhanh chóng, từ đó cho phép đầu tư
khẩn cấp, đáp ứng được thời cơ sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị

trường, mặt khác phương thức thanh toán tiền thuê linh hoạt thích ứng với hoàn
cảnh và điều kiện sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp và mỗi
cá nhân.
- Đối với các công ty nhỏ hoặc công ty không có uy tín : ngân hàng có thể
không chấp nhận cho vay dài hạn nhưng có thể cho hưởng tín dụng thuê mua.
Có thể nói, mô hình tín dụng thuê mua rất có ý nghĩa đối với nền kinh tế thị
trường, nhất là đối với nền kinh tế nhiều thành phần như ở Việt Nam hiện nay.
1.1.4. Vai trò của tín dụng trung - dài hạn trong nền kinh tế thị trường
1.1.4.1. Đối với nền kinh tế
Tín dụng có vai trò quan trọng trọng nền kinh tế, hoạt động tín dụng trung -
dài hạn nếu có hiệu quả sẽ có tác động tới mọi lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội.
Phát triển cho vay tín dụng trung - dài hạn sẽ giảm bớt đáng kể các khoản bao
cấp từ ngân sách cho đầu tư xây dựng cơ bản và giảm bớt thâm hụt ngân sách.
Xuất phát từ chức năng tập trung và phân phối lại vốn trong nền kinh tế tín dụng
trung - dài hạn đã thu hút được nguồn vốn dư thừa, tạm thời nhàn rỗi để đưa vào
sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp, từ đó phục vụ cho
sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Mặt khác, trong qúa trình huy động vốn và cho vay cũng như tổ chức
thanh toán cho khách hàng, ngân hàng có thể đánh giá được tình hình tiêu thụ
sản phẩm, tinh hình sản xuất kinh doanh cũng như khả năng thanh toán chi trả
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

của khách hàng. Trong quá trình cho vay, để tránh rủi ro ngân hàng luôn đánh
giá, phân tích khả năng tài chính và thường xuyên giám sát hoạt động sản xuất
kinh doanh để có thể điều chỉnh, tác động kịp thời khi cần thiết, hướng cho hoạt
động của doanh nghiệp đi đúng hướng, từng bước tạo tiền đề vật chất cho xã
hội.
Mặc dù là một đơn vị kinh doanh, nhưng các ngân hàng quốc doanh vẫn
là một bộ phận của nhà nước, hoạt động tín dụng trung - dài hạn cũng nhằm thực
hiện các mục tiêu phát triển kinh tế quốc gia thông qua các chính sách ưu đãi

trong tín dụng. Về nguyên tắc, ngân hàng ưu đãi đối với các công trình sản xuất
trực tiếp tạo ra sản phẩm hàng hoá và thắt chặt điều kiện vay vốn với doanh
nghiệp trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ.
Đầu tư tín dụng trung - dài hạn của ngân hàng theo trọng điểm của ngành
và trong nội bộ từng ngành góp phần hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Hoạt
động tín dụng theo chiều sâu, xây dựng mới… đã tạo ra cơ sở vật chất kĩ thuật
vững chắc cho nền kinh tế phát triển lâu dài, góp phần tăng cường kim ngạch
xuất khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong cạnh tranh trên thị
trường quốc tế. Với năng lực sản xuất tăng, hàng hoá sản phẩm nhiều hơn đủ
tiêu dùng và dư thừa cho xuất khẩu. Nhiều xí nghiệp với máy móc hiện đại sản
xuất ra sản phẩm thay thế hàng nhập. Tất cả các kết quả đó góp phần tiết kiệm
chi ngoại tệ, tăng thu ngoại tệ, tạo cán cân thanh toán quốc tế lành mạnh.
Ngoài ra, tín dụng trung - dài hạn của ngân hàng còn góp phần ổn định
đời sống, tạo ra công ăn việc làm và ổn định trật tự xã hội bởi lẽ tín dụng trung -
dài hạn đầu tư vào những lĩnh vực mới,cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất
nên sẽ tạo nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Bên cạnh đó, do năng lực
sản xuất được nâng lên số lượng sản phẩm tiêu thụ nhiều, đó là nguồn thu nhập
của cán bộ trong xí nghiệp và góp phần ổn định đời sống cho chính họ.
Tín dụng trung - dài hạn cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển
dịch cơ cấu đầu tư, làm cho cơ cấu của nền kinh tế trở lên hợp lý từ đó làm tiền
đề cho sự ổn định và trật tự an toàn xã hội.
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

1.1.4.2. Đối với doanh nghiệp
Trong môi trường kinh tế cạnh tranh, để có thể tồn tại và phát triển được
thì các doanh nghiệp phải không ngừng đầu tư vào tài sản cố định. Bởi lẽ tài sản
cố định là tư liệu chủ yếu, chiếm bộ phận lớn trong tổng giá thành, là yếu tố
quan trọng quyết định lợi thế cạnh tranh… Tuy nhiên, trong thực tế giá trị tài
sản cố định thường rất cao, nếu chỉ trông chờ vào nguồn vốn tự tích luỹ thì cần
phải mất rất nhiều thời gian doanh nghiệp mới đổi mới được tài sản cố định và

sẽ bị tụt lại xa so với các doanh nghiệp có vốn đã trang bị hiện đại. Vì thế lối
thoát duy nhất cho doanh nghiệp là đi vay để đổi mới. Khi tìm kiếm các nguồn
vốn từ bên ngoài, doanh nghiệp mong muốn có đựơc những khoản tín dụng
trung - dài hạn từ ngân hàng. Có người cho rằng cách tốt nhất để huy động vốn
là doanh nghiệp phát hàng cổ phiếu, trái phiếu huy động vốn dài hạn. Chúng ta
không phủ nhận những mặt tích cực của thị truờng chứng khoán trong việc phục
vụ nhu cầu bổ sung vốn cho doanh nghiệp, nhưng hình thức này chỉ phát huy
hiệu quả ở những nước có thị trường vốn và thị trường chứng khoán hoàn hảo.
thậm trí ở những nước này trong nhiều trường hợp doanh nghiệp có thể giảm bớt
những khoản chi phí mà lẽ ra họ phải trả khi tổ chức phát hành chứng khoán.
Đối với những khoản đi vay doanh nghiệp được chủ động điều hành các hoạt
động kinh doanh, tiến hành các dự án lớn mà không phải phân chia quyền lực
nếu lựa chọn việc tài trợ thông qua phát hành cổ phiếu, không phải đối phó với
các trái phiếu hay cổ phiếu ưu đãi khi doanh nghiệp không còn cần vốn nữa và
có ý muốn thu lại số cổ phiếu này. Mặt khác, việc trả nợ trung - dài hạn cũng
được ấn định theo định kỳ theo từng kỳ hạn hợp lý và ổn định.Vì vậy, doanh
nghiệp có cơ sở để thực hiện trách nhiệm trả nợ của họ.
Như vậy, tín dụng trung - dài hạn đã giúp các doanh nghiệp đầu tư xây
dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc thiết bị… để cải tiến công nghệ sản xuất,
nâng cao chất lượng sản phẩm tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất kinh
doanh và mở rộng chiếm lĩnh thị trường mới. Có thể nói, tín dụng trung - dài
hạn là trợ thủ đắc lực cho các doanh nghiệp đạt được mục tiêu kinh doanh : lợi
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

nhuận, an toàn, phát triển không ngừng trong khi nguồn vốn trung - dài hạn
doanh nghiệp có trong tay không đủ đáp ứng nhu cầu.
1.1.4.3. Đối với ngân hàng
Nếu ngân hàng có một nguồn vốn ổn định trong thời gian dài để đầu tư
dài hạn sẽ tạo ra lợi nhuận cao hơn rất nhiều so với việc dùng nó để cho vay
ngắn hạn, vì mỗi món vay trung - dài hạn cấp cho doanh nghiệp thường là rất

lớn, lãi suất cao. Bên cạnh khoản lợi nhuận hấp dẫn, tín dụng trung - dài hạn còn
là vũ khí cạnh tranh rất có hiệu quả giữa các ngân hàng với nhau. Với các sản
phẩm này, ngân hàng sẽ phục vụ tốt hơn cho các chủ doanh nghiệp và thu hút
ngày càng nhiều khách hàng đến với ngân hàng. Khi xác định mở rộng cho vay
trung - dài hạn, các ngân hàng không chỉ nhìn vào lợi ích trước mắt mà còn
nhìn vào lợi ích lâu dài hơn đó là mở rộng tín dụng trung - dài hạn để đẩy mạnh
cho vay ngắn hạn. Các doanh nghiệp sau khi được ngân hàng cho vay vốn, trang
bị máy móc mới hay xây dựng mở rộng, năng lực sản xuất sẽ tăng lên. doanh
nghiệp lại cần có nhiều vốn lưu động hơn để đáp ứng cho sản xuất. Lúc này,
người đầu tiên mà doanh nghiệp tìm đến chính là các ngân hàng đã đầu tư cho
họ. Bởi lẽ, doanh nghiệp dễ dàng tìm được sự thông cảm vì hai bên đã hiểu
nhau, ngân hàng đã nắm được tình hình tài chính và các khoản thu chi của doanh
nghiệp nên các dịch vụ sẽ tiện lợi hơn.
1.2. Chất lượng tín dụng trung - dài hạn trong hoạt động của
các ngân hàng thương mại
1.2.1. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn
1.2.1.1. Nâng cao chất lượng tín dụng trung - đài hạn là đòi hỏi bức
thiết đối với sự phát triển kinh tế
Trước hết, ta hiểu chất lượng tín dụng là sự đáp ứng nhu cầu của khách
hàng phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo sự tồn tại và phát
triển của ngân hàng. Chất lượng tín dụng trung - dài hạn chính là vốn cho vay
trung - dài hạn của ngân hàng được khách hàng đưa vào quá trình sản xuất kinh
doanh dịch vụ … để tạo ra một số tiền lớn hơn thông qua đó ngân hàng sẽ thu
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

được cả gốc và lãi cho ngân hàng đúng thời hạn, bù đắp được chi phí và có lợi
nhuận. Như vậy, qua một quá trình chu chuyển vốn, ngân hàng sẽ thu hồi vốn và
lãi cón khách hàng sử dụng vốn có hiệu quả. Xét về tổng thể ngân hàng vừa tạo
ra được hiệu quả kinh tế vừa tạo ra được hiệu quả xã hội.
Sinh ra từ nền sản xuất hàng hoá, tín dụng đã có những đóng góp đáng kể

trong việc thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn để đẩy mạnh tiến trình phát
triển của nền kinh tế. Sinh ra từ nền sản xuất hàng hoá, tín dụng đã có những
đóng góp đáng kể trong việc thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn để đẩy
mạnh tiến trình phát triển của xã hội. lịch sử đã chứng minh điều đó thông qua
sự ra đời và phát triển của xã hội loài người qua các hình thái kinh tế -xã hội.
Ngày nay cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, tín
dụng cũng ngày càng phát triển nhằm cung cấp thêm các phương tiện giao dịch
để đáp ứng nhu cầu giao dịch ngày càng tăng trong xã hội. Trong điều kiện đó,
chất lượng tín dụng ngày càng được quan tâm bởi vì:
Đảm bảo chất lượng tín dụng là điều kiện để ngân hàng làm tốt vai trò
trung tâm thanh toán: khi chất lượng tín dụng được đảm bảo sẽ tăng vòng quay
vốn tín dụng, với một khối lượng tiền như cũ, có thể thực hiện số lần giao dịch
lớn hơn, tạo điều kiện tiết kiệm tiền trong lưu thông, củng cố sức mua của đồng
tiền.
Chất lượng tín dụng góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng
trưởng kinh tế, tăng uy tín quốc gia. Xuất phát từ chức năng tập trung và phân
phối lại vốn trong nền kinh tế, tín dụng trung - dài hạn đã thu hút những nguồn
vốn dư thừa, tạm thời nhàn rỗi để đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh, đáp
ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp từ đố phục vụ cho sự tăng trưởng nền kinh
tế. Mặt khác tín dụng trung - dài hạn là một trong những cách để đưa tiền vào
lưu thông nhằm làm cho khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế phù hợp với khối
lượng hàng hoá. Xuất phát từ chức năng tạo tiền của các ngân hàng thương mại,
thông qua cho vay chuyển khoản, thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, các
ngân hàng thương mại có thể mở rộng tiền ghi sổ gấp nhiều lần so với sô tiền
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

thực có hoặc vì lý do nào đó, các chủ tài khoản có khả năng phát hành séc và
thanh toán bằng các phương tiện khách cho khách vượt quá số tiền gửi thực tế
của hộ … nhưng khi đi vào lưu thông chúng đều có quyển thanh toán, chi trả
như các phương tiện khác và thường chúng được chuyển thành tiền mặt. Như

vậy nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng thương mại có quan hệ chặt chẽ với khối
lượng tiền mặt trong lưu thông và là nguyên nhân tiềm ẩn của lạm phát. Đảm
bảo chất lượng tín dụng sẽ tạo khả năng giảm bớt lượng tiền thừa trong lưu
thông, góp phần hạn chế lạm phát, ổn định tiền tê, tăng uy tín quốc gia bằng việc
phát huy tác dụng của các sản phẩm, dịch vụ trương tương lai của các công trình
đầu tư.
Tín dụng là công cụ thực hiện chủ trưởng của Đảng và Nhà nước về phát
triển kinh tế - xã hội theo từng ngành, từng lĩnh vực, mặt khác, thông qua sự
phân tích đánh giá khả năng phát triển của đối tượng định đầu tư để có những
quyết định đầu tư đúng đắn nhằm khai thác khả năng tiềm tàng về tài nguyên,
lao động, tiền vốn… để tăng cường năng lực sản xuất, cung cấp ngày càng nhiều
sản phẩm cho xã hội, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao
động… chất lượng tín dụng trung - dài hạn được nâng cao sẽ góp phần tăng hiệu
quả sản xuất xã hội, đảm bảo sự phát triển cân đối giữa các vùng, các ngành
trong cả nước, ổn định và phát triển kinh tế.
Chất lượng tín dụng trung - dài hạn góp phần làm lanh mạnh quan hệ tín
dụng: hoạt động tín dụng được mở rộng với các thủ tục đơn giản hoá, thuận tiện
nhưng vẫn tuân thủ các nguyên tắc tín dụng sẽ góp phần cho vay đúng các đối
tượng cần thiết, giảm thiểu và đi đến xoá bỏ nạn cho vay nặng lãi chủ yếu hiện
nay đang hoành hành ở nông thôn và các vùng xa xôi hẻo lánh.
Tín dụng nói chung và tín dụng trung - dài hạn nói riêng có mối quan hệ
mật thiết với nền kinh tế - xã hội, thiết lập một mối cơ chế chính sách đồng bộ,
có hiệu quả sẽ có tác động tích cực với mọi mặt của nền kinh tế - xã hội, điều đó
cũng có thể hiện chất lượng hoạt động tín dụng trong nền kinh tế thị trường.

Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

1.2.1.2. Nâng cao chất lượng tín dụng quyết định sự tồn tại và phát
triển của các ngân hàng thương mại
Chất lượng tín dụng trung - dài hạn tốt làm tăng khả năng cung cấp dịch

vụ của các ngân hàng thương mại do tạo thêm nguồn vốn từ việc tăng được
vòng quay vốn tín dụng và thu hút được nhiều khách hàng bởi các hình thức của
sản phẩm, dịch vụ tạo ra một hình ảnh về biểu tượng và uy tín của ngân hàng và
sự trung thành của khách hàng.
Chất lượng tín dụng trung - dài hạn tốt làm tăng khả năng sinh lợi của sản
phẩm, dịch vụ ngân hàng do giảm được sự chậm trễ, giảm chi phí nghiệp vụ, chi
phí quản lý, các chi phí thiệt hại do không thu hồi được vốn vay đã cho vay. Mặt
khác nó còn đảm bảo khả năng thanh toán và lợi nhuận của ngân hàng, tạo thế
mạnh cho ngân hàng trong cạnh tranh, tạo thuận lợi cho sự tồn tại lâu dài của
ngân hàng vì chất lượng tín dụng tốt tạo cho ngân hàng có nhiều khách hàng
trung thành và những khoản lợi nhuận để bổ xung vốn đầu tư. Bên cạnh đó,
chất lượng tín dụng tốt giúp ngân hàng củng cố các mối quan hệ xã hội bằng
những điều kiện tốt nhất.
Có thể nói, với những ưu thế trên, việc củng cố và tăng cường chất lượng
tín dụng trung - dài hạn của các ngân hàng thương mại là sự cần thiết khách
quan vì sự tồn tại và phát triển lâu dài của các ngân hàng thương mại. Vì vậy,
chất lượng tín dụng luôn luôn đòi hỏi phải được nâng cao
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung - đài hạn
Chất lượng tín dụng trung - dài hạn được xem xét, đánh giá thông qua hệ
thống chỉ tiêu sau:
1.2.2.1. Về phía khách hàng:
a. Các chỉ tiêu định tính đó là:
- Dự án sử dụng vốn vay trung - dài hạn của ngân hàng có đủ cơ sở pháp
lý, kinh tế, kỹ thuật để thực hiện được.
- Vốn vay được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả, đảm bảo đủ khả
năng trả ngân hàng nợ gốc và lãi, trang trải chi phí khác và để lại cho doanh
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

nghiệp một khoản thu nhập.
b. Các chỉ tiêu định lượng đó là:

- Thời gian thi công, thực hiện dự án đảm bảo đúng tiến độ.
- Chi phí phải không được vượt quá mức chi phí cho phép.
- Doanh thu phải không được thấp hơn mức doanh thu dự kiến.
- Lợi nhuận phải đạt hoặc vượt quá mức lợi nhuận đã định trong dự án.
1.2.2.2. Về phía ngân hàng
a. Các chỉ tiêu định tính đó là:
- Cho vay phải tuân thủ ba nguyên tắc: vốn vay phải được đảm bảo bằng
tài sản đảm bảo nợ vay, phải hoàn trả vốn, lãi đúng thời hạn và theo cam kết tại
hợp đồng tín dụng đã ký.
- Cho vay phải tuân thủ các điều kiện như lập hồ sơ cho vay, có phương
án sản xuất kinh doanh, có báo cáo tài chính, sản xuất kinh doanh phải có hiệu
quả, có tài sản thế chấp hợp pháp… kèm theo đó là việc kiểm tra trước, trong và
sau khi vay.
b. Các chỉ tiêu định lượng đó là:
- Chỉ tiêu nợ quá hạn: là chỉ tiêu cơ bản cho biết chất lượng một khoản
cho vay:
Nợ quá hạn của tín dụng trung – dài hạn


Chỉ tiêu nợ quá hạn =

Tổng dư nợ tín dụng trung – dài hạn
Đến kỳ hạn trả nợ và lãi tiền vay, nếu bên đi vay không đủ tiền để trả và
không được gia hạn nợ thì ngân hàng sẽ chuyển số nợ đó sang nợ quá hạn. Nợ
quá hạn chính là điều mà ngân hàng không hề mong muốn nhưng nó không phải
là thước đo chuẩn để căn cứ vào đó đánh giá chất lượng tín dụng của món vay.
Trên thực tế, các ngân hàng luôn cố gắng tìm cách để hạ tỷ lệ nợ quá hạn tới
mức thấp nhất có thể được.

Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp


Nợ quá hạn của tín dụng trung – dài hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =

Tổng dư nợ tín dụng
Chỉ tiêu này cho biết tỷ lệ nợ quá hạn của trung - dài hạn chiếm bao
nhiêu phần trăm trong tổng dư nợ tín dụng. Tỷ lệ này không có hoặc càng nhỏ
càng tốt.
- Chỉ tiêu nợ quá hạn khó đòi:
Nợ quá hạn khó đòi của tín dụng trung – dài hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi =

Tổng dư nợ tín dụng trung – dài hạn
Nếu tỷ lệ này cao thì nó phản ánh rằng món cho vay của ngân hàng có
chất lượng rất thấp, hoạt động của ngân hàng không có hiệu quả và các chỉ tiêu
khác để đánh giá chất lượng tín dụng trung - dài hạn trở nên không có giá trị. Vì
vậy chỉ tiêu này không có hoặc càng thấp càng tốt.
- Chỉ tiêu lợi nhuận:
Lợi nhuận từ tín dụng trung – dài hạn
Tỷ lệ lợi nhuận =

Tổng dư nợ tín dụng trung - dài hạn
Thông qua chỉ tiêu này, ta sẽ thấy được khả năng sinh lời của tín dụng
trung - dài hạn. Bất kỳ một khoản tín dụng nào cho dù đó là khoản ngắn hạn hay
trung - dài hạn không thể xem là có chất lượng cao nếu nó không đem lại lợi
nhuận thực tế cho ngân hàng. Tuy nhiên đối với các ngân hàng, đặc biệt là các
ngân hàng quốc doanh thì lợi nhuận nhiều khi không phải là cái đích để ngân
hàng hướng tới mà điều quan trọng là thực hiện được chủ trương, chính sách của
Đảng và nhà nước. Đặc biệt đối với NHNo & PTNT, với chức năng cho vay
trung - dài hạn với mức lãi suất kể cả lãi suất ưu đãi tín dụng để thực hiện các

đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước thì trong nhiều trường hợp lợi
nhuận không phải là mục tiêu mà ngân hàng cần phải hướng tới. Nói như vậy
không có nghĩa là ngân hàng không quan tâm tới lợi nhuận. Vì sự tồn tại và
phát triển của bản thân ngan hàng mà ngân hàng không thể cho vay các món vay
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

có lợi nhuận bằng không hoặc nhỏ hơn không. Nhìn chung nếu như c các chỉ
tiêu khác giữa các dự án cho vay là như nhau thì dự án cho vay nào đem lại lợi
nhuận cao hơn vẫn thường được các ngân hàng ưu ái hơn. Thường thì chỉ tiêu
này càng cao càng tốt.
- Chỉ tiêu vòng quay của vốn:
Doanh số thu nợ trung – dài hạn
Vòng quay của vốn =

Tổng dư nợ tín dụng trung - dài hạn bình quân
Chỉ tiêu này cho ta biết ngân hàng thu nợ theo kế hoạch trong hợp đồng
tín dụng được bao nhiêu để có thể lại cho vay dự án mới. Vòng quay của vốn
càng lớn thì càng tốt vì điều đó khẳng định ngân hàng thu được nhiều nợ và
chứng tỏ nguồn vốn trung - dài hạn ngân hàng đã đầu tư hoạt động có hiệu quả.
Ngược lại, nếu vòng quay của vốn càng nhỏ thì việc thu nợ của ngân hàng là
kém và nguồn vốn trung - dài hạn mà ngân hàng đã đầu tư hoạt động kém hiệu
quả.
Như vậy khi xem xét đánh giá chất lượng tín dụng trung - dài hạn, ta
không thể căn cứ vào một chỉ tiêu cụ thể nào mà phải sử dụng tổng hợp một hệ
thống các chỉ tiêu để có thể đưa ra kết luận chính xác. Giữa chất lượng tốt và
chất lượng chưa tốt không phải lúc nào cũng rạch ròi mà có thể rất khó nhận ra.
Ngay cả khi ta sử dụng mọi chỉ tiêu thì ta cũng chưa thể đánh giá chính xác
được chất lượng cho vay vì chất lượng tín dụng vừa mang tính cụ thể vừa mang
tính trìu tượng. Sự trìu tượng, mơ hồ ở các dự án nhiều khi là rất lớn, đặc biệt
thể hiện trong các dự án cho vay vì mục tiêu xã hội hay theo định hướng phát

triển kinh tế của đất nước.
Tóm lại, các chỉ tiêu đánh giá, xem xét chất lượng tín dụng phải luôn
được xem xét phân tích thường xuyên cả hai mặt định tính và định lượng, cả về
lợi nhuận thuần tuý và lợi ích xã hội, cả trên quan điểm ngân hàng và khách
hàng. Thực hiện được điều này sẽ giúp cho bản thân các ngân hàng cũng như
khách hàng đánh giá được chất lượng tín dụng một cách chính xác đầy đủ nhất.
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

Qua đó có thể giải quyết được những hạn chế, vướng mắc cũng như phát huy
được những ưu điểm để nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn, góp phần
thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế đất nước.
1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung - dài
hạn
1.2.3.1. Những nhân tố khách quan
a. Môi trường kinh tế:
Môi trường kinh tế dù thay đổi theo chiều hướng nào cũng đều tác động
tới chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nếu sự thay đổi theo chiều hướng tốt thì
chất lượng của các khoản tín dụng trung - dài hạn sẽ được nâng cao. Ngược lại,
sự thay đổi theo chiều hướng xấu thì sẽ làm cho chất lượng các khoản tín dụng
trung - dài hạn xấu đi ngoài ý muốn. Ví dụ khi nền kinh tế có hiện tượng lạm
phát tăng vọt, giá cả đồng tiền giảm sút, chỉ số giá cả tăng nhanh gây khó khăn
cho sản xuất kinh doanh, tác động xấu đến khả năng thu hồi công nợ của ngân
hàng. Hay khi có sự biến động lớn trong tỷ giá do sự thay đổi chính sách tiền tệ
của Nhà nước, đồng nội tệ bị giảm giá, các doanh vốn bằng ngoại tệ mà không
có nguồn thu bằng ngoại tệ sẽ gặp khó khăn trong việc trả nợ ngân hàng. Sự
biến động về tỷ giá như vậy cũng khiến các doanh nghiệp phải nhập thiết bị
nước ngoài lẽ ra đã vay ngân hàng đủ tiền sẽ trở thành không đủ tiền để nhập
gây ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng khoản vay.
Nói như vậy không có nghĩa là chỉ môi trường kinh tế trong nước này
thay đổi sẽ tác động tới chất lượng tín dụng trung - dài hạn mà sự thay đổi của

môi trường kinh tế thế giới cũng gây ảnh hưởng không nhỏ, đặc biệt là đối với
doanh nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu. Sự thay đổi ấy thể hiện trực tiếp qua sự
biến động về nhu cầu thị trường, sự biến động về tỷ giá khiến cho các doanh
nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu bị thua lỗ ảnh hưởng tới việc trả nợ ngân
hàng của doanh nghiệp.
b. Môi trường chính trị - xã hội
Môi trường chính trị - xã hội ổn định sẽ giúp cho các doanh nghiệp mạnh
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

dạn đầu tư lâu dài cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngược lại, nếu môi
trường chính trị - xã hội mà bất ổn thì các doanh nghiệp sẽ không dám mạnh dạn
đầu tư mà chỉ duy trì ở mức tái sản xuất giản đơn để bảo đảm an toàn vốn. Điều
này sẽ ảnh hưởng tới quy mô các khoản tín dụng trung - dài hạn của ngân hàng,
các món vay chủ yếu sẽ là ngắn hạn còn khoản tín dụng trung - dài hạn sẽ không
có hoặc rất nhỏ vì sự không ổn định về chính trị - xã hội dẫn đến việc kinh
doanh của doanh nghiệp gặp nhiều rủi ro, bất trắc hơn nên nó sẽ ảnh hưởng tới
công tác thu nợ của ngân hàng.
Tuy nhiên, không chỉ có tình hình chính trị xã hội mà cả tình hình chính
trị - xã hội ở nước ngoài cũng có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung - dài
hạn bởi vì hiện nay các quan hệ kinh tế - xã hội ngày càng được mở rộng cho
nên các loại hình doanh nghiệp đa quốc gia cũng ngày càng tăng cả về số lượng
và quy mô hoạt động. Vì vậy, mọi biến động về kinh tế - xã hội ở nước ngoài
đều có ảnh hưởng tới tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và ảnh
hưởng tới chất lượng tín dụng trung - dài hạn.
c. Môi trường pháp lý
Pháp lý là một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế thị trường có sự
điều tiết của nhà nước. Không có pháp luật hoặc pháp luật không phù hợp với
những yêu cầu phát triển của nền kinh tế thì mọi hoạt động của nền kinh tế
không thể trôi chảy được. Pháp luật có nhiệm vụ tạo lập môi trường pháp lý cho
mọi hoạt động sản xuất kinh doanh tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả kinh tế

cao, là cơ sở để giải quyết khiếu nại khi có tranh chấp xảy ra. Môi trường pháp
lý cho hoạt động tín dụng của ngân hàng nói riêng và cho hoạt động của các
doanh nghiệp trong nền kinh tế nói chung là một nhân tố rất quan trọng ảnh
hưởng tới khả năng phát sinh nợ quá hạn. Hệ thống pháp luật quốc gia với các
bộ luật và văn bản dưới luật chưa được đầy đủ, đồng bộ, hợp lý sẽ không đảm
bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các hoạt động kinh tế, là nguyên nhân
trực tiếp dẫn đến rủi ro trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, gây nên
các khoản nợ quá hạn cho ngân hàng. Như vậy, pháp luật có vị trí hết sức quan
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

trọng đối với hoạt động ngân hàng nói chung và chất lượng tín dụng trung - dài
hạn nói riêng.
d. Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng là kim chỉ nan đảm bảo cho hoạt động tín dụng đi
đúng quỹ đạo, nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của mọi ngân hàng.
Một chính sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút được nhiều ngân hàng, đảm bảo
khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ
pháp luật, đường lối chính sách của nhà nước và đảm bảo công bằng xã hội.
Ngược lại, nếu chính sách tín dụng không hợp lý, chồng chéo sẽ gây khó khăn
cho ngân hàng khi thực hiện nghiệp vụ tín dụng. điều đó có nghĩa là chất lượng
tín dụng trung - dài hạn phụ thuộc vào việc xây dựng chính sách tín dụng của
ngân hàng có đúng đắn hay không.
e. Môi trường tự nhiên
Môi trường tự nhiên có một ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tín dụng
của ngân hàng nói chung đặc biệt là tín dụng trung - dài hạn nói riêng bởi vì
thiên tai là một yếu tố bất khả kháng, chúng ta không thể dự đoán một cách chắc
chắn là khi nào những thiên tai như bão lũ lụt, hạn hán, hoả hoạn, dịch bệnh…sẽ
xảy ra và mức độ ảnh hưởng, thiệt hại của chúng là như thế nào. Thông thường
khi thiên tai xảy ra, nó thường gây thiệt hại rất lớn cho các ngành sản xuất, dịch
vụ, gây ra các biến động xấu ngoài dự kiến trong mối quan hệ tín dụng giữa

ngân hàng và các khách hàng của mình làm cho vốn của ngân hàng đầu tư vào
các doanh nghiệp sẽ ít nhiều bị ảnh hưởng và dẫn tới rủi ro làm giảm chất lượng
tín dụng.
1.2.3.2. Các nhân tố chủ quan
a. Về phía khách hàng
- Năng lực của khách hàng
Không một khách hàng nào khi đi vay lại không muốn món vay đem lại
hiệu quả nhưng nhiều khi do năng lực có hạn nên họ không thể thực hiện được ý
đồ của mình. Do hạn chế về khả năng, họ không dự đoán đúng những biến động
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

lên xuống của nhu cầu thị trường hoặc do yếu kém trong quản lý, trong việc giới
thiệu, quảng cáo sản phẩm mà hoạt động của doanh nghiệp không thể phát triển
hoặc do thiếu kinh nghiệm trên thương trường mà doanh nghiệp dễ dàng bị gục
ngã trong cạnh tranh… Tất cả những điều đó khiến cho chất lượng tín dụng bị
ảnh hưởng ngoài ý muốn của cả ngân hàng lẫn khách hàng.
- Sự trung thực của khách hàng
Nếu khách hàng trung thực, sử dụng vốn vay đúng mục đích thì xác suất
xảy ra rủi ro sẽ giảm đi đáng kể vì tính khả thi của dự án cũng đã được ngân
hàng thẩm định một cách kỹ càng trước khi ra quyết định cho vay. Nhưng việc
sử dụng vốn vay sai mục đích của khách hàng đã góp phần không nhỏ vào việc
đổ bể của các tổ chức tín dụng.
Chẳng hạn như sử dụng vốn vay đầu tư vào tài sản cố định, vào bất động
sản, sau đó các tài sản này bị sụt giá dẫn đến việc doanh nghiệp không trả được
nợ cho ngân hàng. Các doanh nghiệp còn chiếm dụng vốn lẫn nhau dẫn đến các
doanh nghiệp làm ăn nghiêm chỉnh gặp khó khăn trong việc trả nợ ngân hàng.
- Rủi ro trong công việc kinh doanh của khách hàng
Rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp sẽ xảy ra nếu việc tính toán
triển khai dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong khoa học,
không thực hiện kỹ càng… Tuy nhiên trong một số trường hợp cho dù phương

án sản xuất kinh doanh của người đi vay đã được tính toán một cách chi tiết,
khoa học, chính xác đến mức tối đa thì công việc đầu tư vẫn luôn chứa đựng khả
năng xảy ra rủi ro do những thay đổi bất ngờ, ngoài ý muốn và bất khả kháng
của các điều kiện sản xuất kinh doanh, gây tác động xấu đến công việc làm ăn,
mang lại rủi ro cho doanh nghiệp. Ví dụ các thiệt hại doanh nghiệp phải gánh
chịu do sự biến động của thị trường cung cấp như: khi giá cả nguyên vật liệu
biến động tăng vọt làm tăng giá thành công xưởng của sản phẩm, nếu giá bán
của sản phẩm không thay đổi nó sẽ làm cho thu nhập tạo ra trên một sản phẩm
giảm, làm giảm tổng lợi nhuận được của cả dự án, ảnh hưởng xấu tới việc trả nợ
ngân hàng. Nếu đảm bảo thu nhập của mình, doanh nghiệp nâng giá bán của sản
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

phẩm lên thì điều này sẽ làm cho việc tiêu thụ sản phẩm gặp khó khăn, khả năng
thu hồi vốn sản xuất bị chậm trễ, dễ dàng vi phạm việc trả nợ ngân hàng về mặt
thời hạn.
b. Về phía ngân hàng

Công tác thẩm định
Tín dụng trung - dài hạn được tiến hành chủ yếu dựa trên các dự án đầu
tư.
Muốn xem xét dự án có đủ độ tin cậy để có thể cho vay được hay không,
ngân hàng cần tiến hành thẩm định dự án đầu tư.
 Thẩm định dự án đầu tư
Thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức, xem xét một cách khách quan,
khoa học và toàn diện các nội dung cơ bản có ảnh hưởng đến công cuộc đầu tư
để ra quyết định đầu tư và cho phép đầu tư.
Mục đích của việc thẩm định dự án đầu tư là nhằm giúp ngân hàng rút ra
kết luận chính xác về tính khả thi, hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ và những rủi
ro có thể xảy ra của dự án để đưa ra quyết định cho vay hoặc từ chối cho vay.
Thông qua công tác thẩm định, ngân hàng sẽ phát hiện, bổ sung thêm

những giải pháp nhằm nâng cao tính khả thi của dự án đồng thời làm cơ sở để
xác định số tiền cho vay, thời gian cho vay, mức thu nợ hợp lý, tạo điều kiện
thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả.
Thẩm định tín dụng một cách kỹ càng, đúng quy trình thẩm định sẽ góp
phần giảm được những rủi ro của tín dụng trung - dài hạn, giúp ngân hàng thu
được lợi nhuận và đảm bảo tính ổn định của các khoản vay. Công tác thẩm định
tập trung ở hai nội dung:
+ Thẩm định toàn diện các nội dung của luận chứng kinh tế, kỹ thuật, báo
cáo kinh tế của các dự án tiền khả thi.
+ Thẩm định toàn diện tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính
của doanh nghiệp.
Bước đầu tiên của thẩm định dự án là phải thu thập thông tin sau đó sẽ
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

tiếp đến tiến hàng phân tích những thông tin đó. Những thông tin thu thập phải
đồng bộ, từ nhiều nguồn khác nhau như:
- Thẩm định về phương diện thị trường:
+ Kiểm tra cân đối cung cầu về sản phẩm của dự án, tuỳ theo phạm vi tiêu
thụ sản phẩm ở trong nước hay xuất khẩu:
. Nhu cầu của thị trường, dự báo mức độ gia tăng
. Sản phẩm có khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường về cả khối lượng và
chất lượng.
. Đánh giá những sản phẩm có khả năng thay thế sản phẩm của dự án
trong tương lai, độ bền của nhu cầu sử dụng của sản phẩm thay thế.
. Khả năng đáp ứng các nguồn cung cấp đầu vào: tính ổn định và tính
thường xuyên của nguồn cung ứng.
+ Căn cứ vào khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp về sản phẩm:
. Ưu thế tương đối của sản phẩm do dự án sản xuất về: giá thành, chất
lượng, mẫu mã, điều kiện lưu thông và tiêu thụ.
. Khả năng và uy tín của doanh nghiệp trong quan hệ thị trường về sản

phẩm, kênh phân phối, khả năng nắm bắt thông tin.
. Những con số cụ thể về khả năng tiêu thụ sản phẩm trong quá khứ và
tương lai.
- Thẩm định về phương diện kỹ thuật:
+ Xem xét việc lựa chọn địa điểm và mặt bằng xây dựng dự án, việc lựa
chọn hình thức đầu tư và công suất của dự án.
+ Khai thác tiềm năng sẵn có và lâu dài, có khả năng đáp ứng được nhu
cầu cần thiết, tối ưu hoá hiệu quả của dự án.
+ Nhu cầu về dây chuyền công nghệ và lựa cho thiết bị máy móc, khả
năng tìm kiếm, lựa chọn công nghệ thích hợp, kiểm tra tính pháp lý của
hợp đồng chuyển giao công nghệ.
+ Thẩm định tiến độ thực hiện của dự án.
- Thẩm định về phương diện tổ chức:
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

+ Xem xét cơ cấu tài chính: vấn đề về quyền lợi và trách nhiệm được kết
nối như thế nào.
+ Năng lực tài chính, quản lý của nhóm điều hành, của nhân viên: có
những hoạt động đào tạo trước mắt và lâu dài.
- Thẩm định về mặt tài chính của dự án
Đây chính là vấn đề cốt lõi nhất khi thẩm định dự án đầu tư đối với bất kỳ
một ngân hàng nào khi đưa ra quyết định cho vay mà đặc biệt là cho vay trung -
dài hạn. Thẩm định về mặt tài chính được coi là sự đảm bảo tối thiểu cho khoản
vay sắp cung cấp. Thẩm định tài chính bao gồm các nội dung chính là:
+ Vốn xây lắp: thường được tính toán trên cơ sở khối lượng công tác xây
lắp và đơn giá xây lắp tổng hợp hay suất vốn đầu tư.
+ Vốn thiết bị: căn cứ vào danh mục thiết bị để kiểm tra giá cả mua và chi
phí vận chuyển, bảo quản theo quy định của nhà nước. Đối với những
thiết bị được chuyển giao công nghệ thì tính gồm cả chi phí chuyển giao
công nghệ.

+ Vốn kiến thiết cơ bản khác: cần tính tới nhu cầu vốn lưu động ban đầu và
nhu cầu bổ sung vốn lưu động và những khoản mục chi phí cần thiết khác.
Dựa trên những tính toán cơ bản thì chủ dự án có trách nhiệm bỏ một
phần vốn tự có của mình vào tổng khoản vay và đó được coi là điều kiện cần
đảm bảo về uy tín và độ an toàn, phòng tránh rủi ro của khoản tín dụng trung -
dài hạn.
- Tiến độ bỏ vốn đầu tư: có ý nghĩa rất quan trọng, đặc biệt là đối với
những công trình có thời gian xây dựng dài, cần thiết phải phân bổ tiến độ bỏ
vốn theo giai đoạn thích hợp để tạo điều kiện cho việc điều hành vốn của ngân
hàng.
- Yếu tố quyết định trực tiếp cho việc lựa chọn cho vay hay không chính
là khả năng sinh lợi của dự án vì ngân hàng cũng là một đơn vị sản xuất kinh
doanh nên họ cũng phải quan tâm tới lợi nhuận của dự án. Vì vậy, trước khi bỏ
vốn đầu tư, khách hàng và ngân hàng thường tiến hành thẩm định tính khả thi
Trêng §¹i häc Kinh tÕ quèc d©n Chuyªn ®Ò thùc tËp tèt nghiÖp

của dự án qua một số chỉ tiêu sau:
+ Khả năng thu nhập của dự án trên doanh thu và chi phí vận hành hàng
năm của dự án
Doanh thu thuần = Doanh thu toàn bộ - Thuế VAT
Lãi thuần
Tỷ suất lợi nhuận =

Tổng vốn đầu tư
* 100

Nếu tỷ suất lợi nhuận của dự án > lãi suất tiền gửi thì nên đầu tư
+ Thời gian hoàn vốn: là số năm mà dự án cần thiết phải hoạt động để
tổng số lợi nhuận và khấu hao thu được bù đắp số vốn đầu tư bỏ ra ban đầu.


Vốn đầu tư
Thời gian hoàn vốn =

(Lợi nhuận + khấu hao) Bình quân một năm

Thời gian hoàn vốn phản ánh hiệu quả của đầu tư, thời gian hoàn vốn
càng nhanh thì hiệu quả đầu tư càng có hiệu quả.
+ Giá trị hiện tại ròng (NPV): cho ta biết quy mô của thu nhập từ dự án
trong suốt quá trình hoạt động từ khi khởi đầu cho đến khi kết thúc.
NPV =
i
n
i
i
n
i
r
Ci
r
Ti
)1()1(
00






Trong đó:
n: số năm

r: tỷ lệ chiết khấu
T
i
: khoản thu của dự án ở năm thứ i
C
i
: khoản chi cho đầu tư ở năm thứ i
Ngân hàng cho vay khi NPV > 0 vì khi đó dự án có tính khả thi, doanh
nghiệp sẽ có lãi và có thể trả nợ ngân hàng.
+ Chỉ tiêu suất thu hồi nội bộ (IRR)

×