Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

Thực trạng và giải pháp đối với tín dụng trung,dài hạn chi nhánh NH NN & PTNT Đông Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (336.9 KB, 63 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Trong những năm qua, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà Nước
đất nước ta ngày càng phát triển. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành
theo cơ chế thị trường đinh hướng xã hội chủ nghĩa đã giành được những thành tựu
to lớn như kiềm chế lạm phát, nhịp độ tăng trưởng về tổng sản phẩm trong nước đã
vượt kế hoạch đề ra, nước ta đã thoát khỏi khủng hoảng…Bên cạnh những thành
tựu đạt được chúng ta còn những mặt chưa làm được như: Tình hình xã hội còn
nhiều tiêu cực, quản lý nhà nước về kinh tế còn lỏng lẻo, chỉ số giá tiêu dùng tăng
đột biến…Đảng và Nhà Nước ta đã xác định nhiệm vụ quan trọng trong thời gian
tới là tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế đất nước. Muốn vậy,
chúng ta cần phải có nguồn vốn trung - dài hạn lớn để xây dựng cơ sở hạ tầng, đổi
mới công nghệ, trang bị kỹ thuật tiên tiến, đồng thời có sự nâng cấp mở rộng sản
xuất kinh doanh đối với các thành phần kinh tế từ đó tạo đà cho sự phát triển. Có thể
nói, chỉ có nguồn vốn trung - dài hạn mới giúp ta hoàn thành mục tiêu này. Do đó
mà nguồn vốn trung - dài hạn đóng một vai trò quan trọng đối với sự phát triển của
nền kinh tế.
Tuy nhiên, có nguồn vốn trung - dài hạn thôi là chưa đủ mà phải biết sử dụng
hiệu quả nguồn vốn đó thì mới phát huy hết được vai trò tích cực cũng như chống
lại sự lãng phí. Hay nói một cách khác, chỉ khi nào mở rộng gắn liền với nâng cao
chất lượng tín dụng trung - dài hạn thì nguồn vốn trung - dài hạn mới phát huy được
vai trò tích cực của mình.
Mặc dù vậy, trước những biến động không ngừng của nền kinh tế thị trường
thì chúng ta không thể nào dự đoán hết được những rủi ro có thể xẩy ra, ảnh hưởng
của nó tới hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng trung - dài hạn nói riêng của
toàn bộ ngành ngân hàng cũng như của chi nhánh ngân hàng No&PTNT Đông Hà
Nội. Đây chính là nguyên nhân mà tôi đã chọn đề tài:
“Thực trạng và giải pháp đối với tín dụng trung - dài hạn tại chi nhánh
Ngân Hàng No&PTNT Đông Hà Nội ”
Đề tài của tôi ngoài phần lời nói đầu, kết luận thì nội dụng được chia làm 3
Trang 1
chương:


ChươngI: Khái quát tín dụng trung - dài hạn của ngân hàng thương mại.
ChươngII: Thực trạng tín dụng trung - dài hạn tại chi nhánh Ngân Hàng
No&PTNT Đông Hà Nội.
ChươngIII: Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn tại chi
nhánh Ngân Hàng No&PTNT Đông Hà Nội.
Đề tài nghiên cứu trên đây là một lĩnh vực rộng lớn và phức tạp nhưng thời
gian nghiên cứu và kinh nghiệm thực tiễn còn nhiều hạn chế nên chuyên đề
này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận đuợc sự góp ý
của các thầy cô giáo, ban giám đốc ngân hàng và bất cứ ai quan tâm đến vấn đề này
để đề tài này được hoàn thiện hơn.
Trang 2
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT TÍN DỤNG TRUNG – DÀI HẠN CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. Tín dụng trung - dài hạn và vai trò của tín dụng - trung dài hạn
1.1.1. Khái niệm tín dụng trung – dài hạn
Tín dụng (credit), xuất phát từ tiếng Latinh là credo – là sự tin tưởng, sự tín
nhiệm và được định nghĩa dưới nhiều giác độ khác nhau:
- Tín dụng là quan hệ vay mượn trên nguyên tắc hoàn trả.
- Tín dụng là quá trình tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ hay hiện vật trên
nguyên tắc có hoàn trả.
- Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu
sang người sử dụng để sau một thời gian sẽ thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn
lượng giá trị ban đầu.
- Tín dụng là sự chuyển dịch vốn dưới hình thái tiền tệ hay hiện vật của một
tổ chức, cá nhân này cho một tổ chức, cá nhân khác sử dụng trong một thời gian
nhất định trên nguyên tắc hoàn trả.
Như vậy, tín dụng có thể được diễn đạt bằng nhiều cách khác nhau nhưng
bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản giữa một bên là người đi vay và
một bên là người cho vay trên cơ sở hoàn trả cả gốc và lãi.

Đối với một ngân hàng thương mại, tín dụng là chức năng cơ bản của ngân
hàng, là một trong những nghiệp vụ cơ bản của ngân hàng. Tín dụng ngân hàng
được định nghĩa như sau:
Tín dụng ngân hàng là một hình thức tín dụng phản ánh một giao dịch về tài
sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay là ngân hàng hoặc các tổ chức tín dụng
và bên đi vay là các cá nhân, doanh nghiệp, chủ thể sản xuất kinh doanh, trong đó
bên cho vay chuyển tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định
theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho
Trang 3
bên cho vay khi đến hạn thanh toán.
Về các hình thức của tín dụng ngân hàng thì có nhiều tiêu thức khác nhau để
phân chia tín dụng ngân hàng. Dưới đây là một cách phân chia phổ biến mà Ngân
hàng thường sử dụng khi phân tích và đánh giá:
• Phân theo thời hạn tín dụng ta có:
- Tín dụng ngắn hạn: là khoản tín dụng dưới 1 năm và được sử dụng để bổ
sung sự thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của doanh nghiệp, và nó còn có thể được
vay cho những tiêu dùng cá nhân.
- Tín dụng trung hạn: là khoản tín dụng có thời hạn từ 1-5 năm. Loại hình tín
dụng này thường được dùng để cung cấp, mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi
mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh.
- Tín dụng dài hạn: là khoản tín dụng có thời gian trên 5 năm. Loại tín dụng
này được dùng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản như đầu tư xây dựng các xí nghiệp
mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất,…
Nói chung, tín dụng - trung và dài hạn được đầu tư để hình thành vốn cố định
của khách hàng, mua sắm máy móc thiết bị, xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của
doanh nghiệp để từ đó cải tiến công nghệ sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm,
mở rộng sản xuất chiếm lĩnh thị trường..
1.1.2. Đặc diểm tín dụng trung dài hạn
Tín dụng trung dài hạn có những đặc điểm quan trọng sau:
- Tín dụng trung - dài hạn được cấp cho khách hàng nhằm hỗ trợ cho họ

trong việc mua sắm, tạo lập tài sản cố định. Do đó, đối tuợng cho vay chủ yếu của
ngân hàng thương mại trong hình thức tín dụng này là vốn thiếu hụt tạm thời của
các doanh nghiệp.
- Do gắn liền với tài sản cố định và vốn vố định của khách hàng, tín dụng
trung - dài hạn của ngân hàng thương mại thường gắn liền với các dự án đầu tư. Tuy
nhiên, với tín dụng trung hạn thường đầu tư theo chiều sâu, trong khi đó tín dụng dài
hạn tập trung cho các dự án đầu tư mở rộng.
- Tín dụng trung - dài hạn của ngân hàng thương mại có thời gian hoàn vốn
Trang 4
chậm. Nguồn trả tiền vay cho ngân hàng chủ yếu được lấy từ quỹ khấu hao và một
phần từ lợi nhuận của chính dự án mang lại. Vì thế, khách chỉ có thể hoàn trả khoản
vay có quy mô lớn thành nhiều lần khác nhau – thời hạn cho vay kéo dài trong nhiều
năm.
- Tín dụng trung - dài hạn thường có thời gian kéo dài, quy mô tín dụng
thường lớn, nguy cơ rủi ro cao vì nền kinh tế quốc gia luôn biến động. Sự biến động
này có thể tích cực hoặc tiêu cực mà chúng ta không thể biết được. Do đó mà môt
khoản vay dài hạn thường đem lại nhiều rủi ro hơn là một khoản vay ngắn hạn vì
thời gian càng dài thì xác suất xảy ra những biến động này lớn hơn . Mặt khác, lãi
suất của cho vay trung - dài hạn thường lớn hơn lãi suất cho vay ngắn hạn. Vì độ rủi
ro cao hơn, thời gian thu hồi vốn lâu hơn.
1.1.3. Các hình thức tín dụng trung - dài hạn
1.1.3.1. Tín dụng theo dự án đầu tư
a. Cho vay đồng tài trợ ( Synđicate loan):
- Là quá trình cho vay của một nhóm tổ chức tín dụng (từ 2 tổ chức tín dụng
trở lên) cho một dự án, do một tổ chức tín dụng làm đầu mối, phói hợp với các bên
bên đồng tài trợ để thực hiện, nhằn phân tán rủi ro của các tổ chức tín dụng.
- Hình thức này được được áp dụng trong các trường hợp : Các dự án đầu tư đòi
hỏi một khoản vốn lớn mà các ngân hàng riêng lẻ thìo không đáp ứng hết được ngân
hàng thường chỉ được phép đầu tư vốn tới một mức độ nhất định so với tổng nguồn
vốn của mình và không được đầu tư qúa nhiều vốn vào một công ty để đảm bảo an toàn

vốn tài sản. Thậm chí đối với một vài dự án ngân hàng có thể đáp ứng toàn bộ nhưng
rủi ro quá lớn ngân hàng không muốn đảm nhận hết. Do vậy, cho vay đồng tài trợ là
một họat động tín dụng giúp ngân hàng phân tán rủi ro và có thể sử dụng tối đa nguồn
vốn của họ cho đầu tư vào các dự án dài hạn.
b. Cho vay trực tiếp theo dự án:
- Đây là hình thức tín dụng trung – dài hạn phổ biến trong nền kinh tế thị
trường. ngân hàng thương mại tiến hành mọi hoạt động và tự chịu trách nhiệm với
từng dự án đầu tư của khách hàng mà họ đẫ lựa chọn để tài trợ.
Trang 5
Chính vì vậy, công việc của ngân hàng không chỉ đơn thuần là cho vay mà
còn phải quán xuyến hàng loạt các công việc khác có liên quan đến trực thi có hiệu
quả của dự án như : quy hoạch sản xuất, thiết kế, quy trình công nghệ, tiêu chuẩn
thiết bị máy móc, giá cả thị trường, hiệu quả đầu tư.. Bởi vì việc quy định cấp một
khoản tín dụng sẽ dàng buộc ngân hàng với người vay trong một số thời gian, cho
nên cần phải nghiên cứu một cách nghiêm túc và xem xét kỹ lưỡng các rủi ro có thể
xẩy ra.
1.1.3.2. Tín dụng thuê mua (leasing credit)
- Thuê mua là hình thức cho vay tài sản thông qua một hợp đồng tín dụng
thuê mua qua đó người cho thuê chuyển giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình
cho người đi thuê sử dụng và ngưòi thuê có trách nhiệm thanh toán tiền thuê trong
suốt thời hạn thuê và có thể đựoc quyền sở hữu tài sản thuê, được quyền mua tài sản
thuê hoặc được quyền thuê tiếp theo các điều kiện đã được hai bên thoả thuận.
* Tài sản thuê bao gồm cả động sản và bất động sản :
- Động sản chủ yếu gồm máy móc thiết bị, ô tô dây chuyền công nghệ…
- Bất động sản chủ yếu là cửa hàng, văn phòng làm việc, cơ sở sản xuất…
Về mặt pháp lý, tài sản thuê thuộc quyền sở hữu của người cho thuê, còn đi
thuê chỉ được quyền sử dụng. Vì vậy, người đi thuê không đựơc bán chuyển nhượng
cho người khác. Song họ được hưởng những lợi ích do việc sử dụng tài sản đó đem
lại, đồng thời chịu phần vốn rủi ro có liên quan đến tài sản. Tín dụng thuê mua có
một số hình thức như : thuê mua có tham gia của ba bên, thuê mua có sự tham gia

của hai bên, tái thuê mua (sale – base back), thuê mua hợp tác (levereged lease, thuê
mua giáp lưng (under lease)…
* Xét về lợi ích thì cả ngân hàng và khách hàng đều có lợi
- Đối với ngân hàng (bên cho thuê): đây là hình thức tài trợ bổ sung cho các
hình thức tài trợ khác đang tồn tại ở ngân hàng, nó giúp ngân hàng mở rộng dịch vụ,
nâng cao năng lực cạnh tranh, giảm mức độ rủi ro, đảm bảo nguyên tắc vốn vay
được sử dụng đúng mục đích.
- Đối với các doanh nghiệp : hình thức này có thể giúp các doanh nghiệp có
Trang 6
thể sử dụng vốn vay dưới dạng các máy móc, thiết bị... mà không phải bỏ vốn lớn,
không ảnh hưởng tới bảng tổng kết tài sản và hạn mức tín dụng của doanh nghiệp
việc cấp tín dụng thuê mua thường nhanh chóng, từ đó cho phép đầu tư khẩn cấp,
đáp ứng được thời cơ sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, mặt khác
phương thức thanh toán tiền thuê linh hoạt thích ứng với hoàn cảnh và điều kiện sản
xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp và mỗi cá nhân.
- Đối với các công ty nhỏ hoặc công ty không có uy tín : ngân hàng có thể
không chấp nhận cho vay dài hạn nhưng có thể cho hưởng tín dụng thuê mua. Có
thể nói, mô hình tín dụng thuê mua rất có ý nghĩa đối với nền kinh tế thị trường,
nhất là đối với nền kinh tế nhiều thành phần như ở Việt Nam hiện nay.
1.1.4. Vai trò của tín dụng trung - dài hạn trong nền kinh tế thị trường
1.1.4.1. Đối với nền kinh tế
Tín dụng có vai trò quan trọng trọng nền kinh tế, hoạt động tín dụng trung - dài
hạn nếu có hiệu quả sẽ có tác động tới mọi lĩnh vực kinh tế - chính trị - xã hội. Phát
triển cho vay tín dụng trung - dài hạn sẽ giảm bớt đáng kể các khoản bao cấp từ
ngân sách cho đầu tư xây dựng cơ bản và giảm bớt thâm hụt ngân sách. Xuất phát từ
chức năng tập trung và phân phối lại vốn trong nền kinh tế tín dụng trung - dài hạn
đã thu hút được nguồn vốn dư thừa, tạm thời nhàn rỗi để đưa vào sản xuất kinh
doanh, đáp ứng nhu cầu vốn cho doanh nghiệp, từ đó phục vụ cho sự tăng trưởng
của nền kinh tế.
Mặt khác, trong qúa trình huy động vốn và cho vay cũng như tổ chức thanh

toán cho khách hàng, ngân hàng có thể đánh giá được tình hình tiêu thụ sản phẩm,
tinh hình sản xuất kinh doanh cũng như khả năng thanh toán chi trả của khách hàng.
Trong quá trình cho vay, để tránh rủi ro ngân hàng luôn đánh giá, phân tích khả
năng tài chính và thường xuyên giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh để có thể
điều chỉnh, tác động kịp thời khi cần thiết, hướng cho hoạt động của doanh nghiệp
đi đúng hướng, từng bước tạo tiền đề vật chất cho xã hội.
Mặc dù là một đơn vị kinh doanh, nhưng các ngân hàng quốc doanh vẫn là
một bộ phận của nhà nước, hoạt động tín dụng trung - dài hạn cũng nhằm thực hiện
các mục tiêu phát triển kinh tế quốc gia thông qua các chính sách ưu đãi trong tín
Trang 7
dụng. Về nguyên tắc, ngân hàng ưu đãi đối với các công trình sản xuất trực tiếp tạo
ra sản phẩm hàng hoá và thắt chặt điều kiện vay vốn với doanh nghiệp trong lĩnh
vực kinh doanh dịch vụ.
Đầu tư tín dụng trung - dài hạn của ngân hàng theo trọng điểm của ngành và
trong nội bộ từng ngành góp phần hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý. Hoạt động tín
dụng theo chiều sâu, xây dựng mới… đã tạo ra cơ sở vật chất kĩ thuật vững chắc cho
nền kinh tế phát triển lâu dài, góp phần tăng cường kim ngạch xuất khẩu, tạo điều
kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Với
năng lực sản xuất tăng, hàng hoá sản phẩm nhiều hơn đủ tiêu dùng và dư thừa cho
xuất khẩu. Nhiều xí nghiệp với máy móc hiện đại sản xuất ra sản phẩm thay thế
hàng nhập. Tất cả các kết quả đó góp phần tiết kiệm chi ngoại tệ, tăng thu ngoại tệ,
tạo cán cân thanh toán quốc tế lành mạnh.
Ngoài ra, tín dụng trung - dài hạn của ngân hàng còn góp phần ổn định đời
sống, tạo ra công ăn việc làm và ổn định trật tự xã hội bởi lẽ tín dụng trung -dài hạn
đầu tư vào những lĩnh vực mới,cải tạo và nâng cao năng lực sản xuất nên sẽ tạo
nhiều công ăn việc làm cho người lao động. Bên cạnh đó, do năng lực sản xuất được
nâng lên số lượng sản phẩm tiêu thụ nhiều, đó là nguồn thu nhập của cán bộ trong
xí nghiệp và góp phần ổn định đời sống cho chính họ.
Tín dụng trung - dài hạn cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuyển dịch
cơ cấu đầu tư, làm cho cơ cấu của nền kinh tế trở lên hợp lý từ đó làm tiền đề cho sự

ổn định và trật tự an toàn xã hội.
1.1.4.2. Đối với doanh nghiệp
Trong môi trường kinh tế cạnh tranh, để có thể tồn tại và phát triển được thì
các doanh nghiệp phải không ngừng đầu tư vào tài sản cố định. Bởi lẽ tài sản cố
định là tư liệu chủ yếu, chiếm bộ phận lớn trong tổng giá thành, là yếu tố quan trọng
quyết định lợi thế cạnh tranh… Tuy nhiên, trong thực tế giá trị tài sản cố định
thường rất cao, nếu chỉ trông chờ vào nguồn vốn tự tích luỹ thì cần phải mất rất
nhiều thời gian doanh nghiệp mới đổi mới được tài sản cố định và sẽ bị tụt lại xa so
với các doanh nghiệp có vốn đã trang bị hiện đại. Vì thế lối thoát duy nhất cho
doanh nghiệp là đi vay để đổi mới. Khi tìm kiếm các nguồn vốn từ bên ngoài, doanh
Trang 8
nghiệp mong muốn có đựơc những khoản tín dụng trung - dài hạn từ ngân hàng. Có
người cho rằng cách tốt nhất để huy động vốn là doanh nghiệp phát hàng cổ phiếu,
trái phiếu huy động vốn dài hạn. Chúng ta không phủ nhận những mặt tích cực của
thị truờng chứng khoán trong việc phục vụ nhu cầu bổ sung vốn cho doanh nghiệp,
nhưng hình thức này chỉ phát huy hiệu quả ở những nước có thị trường vốn và thị
trường chứng khoán hoàn hảo. thậm trí ở những nước này trong nhiều trường hợp
doanh nghiệp có thể giảm bớt những khoản chi phí mà lẽ ra họ phải trả khi tổ chức
phát hành chứng khoán. Đối với những khoản đi vay doanh nghiệp được chủ động
điều hành các hoạt động kinh doanh, tiến hành các dự án lớn mà không phải phân
chia quyền lực nếu lựa chọn việc tài trợ thông qua phát hành cổ phiếu, không phải
đối phó với các trái phiếu hay cổ phiếu ưu đãi khi doanh nghiệp không còn cần vốn
nữa và có ý muốn thu lại số cổ phiếu này. Mặt khác, việc trả nợ trung - dài hạn cũng
được ấn định theo định kỳ theo từng kỳ hạn hợp lý và ổn định.Vì vậy, doanh nghiệp
có cơ sở để thực hiện trách nhiệm trả nợ của họ.
Như vậy, tín dụng trung - dài hạn đã giúp các doanh nghiệp đầu tư xây dựng
nhà xưởng, mua sắm máy móc thiết bị… để cải tiến công nghệ sản xuất, nâng cao
chất lượng sản phẩm tạo điều kiện mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh và mở rộng
chiếm lĩnh thị trường mới. Có thể nói, tín dụng trung - dài hạn là trợ thủ đắc lực cho
các doanh nghiệp đạt được mục tiêu kinh doanh : lợi nhuận, an toàn, phát triển

không ngừng... trong khi nguồn vốn trung - dài hạn doanh nghiệp có trong tay
không đủ đáp ứng nhu cầu.
1.1.4.3. Đối với ngân hàng
Nếu ngân hàng có một nguồn vốn ổn định trong thời gian dài để đầu tư dài
hạn sẽ tạo ra lợi nhuận cao hơn rất nhiều so với việc dùng nó để cho vay ngắn hạn,
vì mỗi món vay trung - dài hạn cấp cho doanh nghiệp thường là rất lớn, lãi suất cao.
Bên cạnh khoản lợi nhuận hấp dẫn, tín dụng trung - dài hạn còn là vũ khí cạnh tranh
rất có hiệu quả giữa các ngân hàng với nhau. Với các sản phẩm này, ngân hàng sẽ
phục vụ tốt hơn cho các chủ doanh nghiệp và thu hút ngày càng nhiều khách hàng
đến với ngân hàng. Khi xác định mở rộng cho vay trung - dài hạn, các ngân hàng
không chỉ nhìn vào lợi ích trước mắt mà còn nhìn vào lợi ích lâu dài hơn đó là mở
Trang 9
rộng tín dụng trung - dài hạn để đẩy mạnh cho vay ngắn hạn. Các doanh nghiệp sau
khi được ngân hàng cho vay vốn, trang bị máy móc mới hay xây dựng mở rộng,
năng lực sản xuất sẽ tăng lên. doanh nghiệp lại cần có nhiều vốn lưu động hơn để
đáp ứng cho sản xuất. Lúc này, người đầu tiên mà doanh nghiệp tìm đến chính là
các ngân hàng đã đầu tư cho họ. Bởi lẽ, doanh nghiệp dễ dàng tìm được sự thông
cảm vì hai bên đã hiểu nhau, ngân hàng đã nắm được tình hình tài chính và các
khoản thu chi của doanh nghiệp nên các dịch vụ sẽ tiện lợi hơn.
1.2. Chất lượng tín dụng trung - dài hạn trong hoạt động của các
ngân hàng thương mại
1.2.1. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn
1.2.1.1. Nâng cao chất lượng tín dụng trung - đài hạn là đòi hỏi bức
thiết đối với sự phát triển kinh tế
Trước hết, ta hiểu chất lượng tín dụng là sự đáp ứng nhu cầu của khách hàng
phù hợp với sự phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo sự tồn tại và phát triển của
ngân hàng. Chất lượng tín dụng trung - dài hạn chính là vốn cho vay trung - dài hạn
của ngân hàng được khách hàng đưa vào quá trình sản xuất kinh doanh dịch vụ …
để tạo ra một số tiền lớn hơn thông qua đó ngân hàng sẽ thu được cả gốc và lãi cho
ngân hàng đúng thời hạn, bù đắp được chi phí và có lợi nhuận. Như vậy, qua một

quá trình chu chuyển vốn, ngân hàng sẽ thu hồi vốn và lãi cón khách hàng sử dụng
vốn có hiệu quả. Xét về tổng thể ngân hàng vừa tạo ra được hiệu quả kinh tế vừa tạo
ra được hiệu quả xã hội.
Sinh ra từ nền sản xuất hàng hoá, tín dụng đã có những đóng góp đáng kể
trong việc thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn để đẩy mạnh tiến trình phát
triển của nền kinh tế. Sinh ra từ nền sản xuất hàng hoá, tín dụng đã có những đóng
góp đáng kể trong việc thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn để đẩy mạnh tiến
trình phát triển của xã hội. lịch sử đã chứng minh điều đó thông qua sự ra đời và
phát triển của xã hội loài người qua các hình thái kinh tế -xã hội.
Ngày nay cùng với sự phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, tín
dụng cũng ngày càng phát triển nhằm cung cấp thêm các phương tiện giao dịch để
đáp ứng nhu cầu giao dịch ngày càng tăng trong xã hội. Trong điều kiện đó, chất
Trang 10
lượng tín dụng ngày càng được quan tâm bởi vì:
Đảm bảo chất lượng tín dụng là điều kiện để ngân hàng làm tốt vai trò trung
tâm thanh toán: khi chất lượng tín dụng được đảm bảo sẽ tăng vòng quay vốn tín
dụng, với một khối lượng tiền như cũ, có thể thực hiện số lần giao dịch lớn hơn, tạo
điều kiện tiết kiệm tiền trong lưu thông, củng cố sức mua của đồng tiền.
Chất lượng tín dụng góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng trưởng
kinh tế, tăng uy tín quốc gia. Xuất phát từ chức năng tập trung và phân phối lại vốn
trong nền kinh tế, tín dụng trung - dài hạn đã thu hút những nguồn vốn dư thừa, tạm
thời nhàn rỗi để đưa vào hoạt động sản xuất kinh doanh, đáp ứng nhu cầu vốn cho
doanh nghiệp từ đố phục vụ cho sự tăng trưởng nền kinh tế. Mặt khác tín dụng
trung - dài hạn là một trong những cách để đưa tiền vào lưu thông nhằm làm cho
khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế phù hợp với khối lượng hàng hoá. Xuất phát từ
chức năng tạo tiền của các ngân hàng thương mại, thông qua cho vay chuyển khoản,
thực hiện thanh toán không dùng tiền mặt, các ngân hàng thương mại có thể mở
rộng tiền ghi sổ gấp nhiều lần so với sô tiền thực có hoặc vì lý do nào đó, các chủ tài
khoản có khả năng phát hành séc và thanh toán bằng các phương tiện khách cho
khách vượt quá số tiền gửi thực tế của hộ … nhưng khi đi vào lưu thông chúng đều

có quyển thanh toán, chi trả như các phương tiện khác và thường chúng được
chuyển thành tiền mặt. Như vậy nghiệp vụ tín dụng của ngân hàng thương mại có
quan hệ chặt chẽ với khối lượng tiền mặt trong lưu thông và là nguyên nhân tiềm ẩn
của lạm phát. Đảm bảo chất lượng tín dụng sẽ tạo khả năng giảm bớt lượng tiền
thừa trong lưu thông, góp phần hạn chế lạm phát, ổn định tiền tê, tăng uy tín quốc
gia bằng việc phát huy tác dụng của các sản phẩm, dịch vụ trương tương lai của các
công trình đầu tư.
Tín dụng là công cụ thực hiện chủ trưởng của Đảng và Nhà nước về phát
triển kinh tế - xã hội theo từng ngành, từng lĩnh vực, mặt khác, thông qua sự phân
tích đánh giá khả năng phát triển của đối tượng định đầu tư để có những quyết định
đầu tư đúng đắn nhằm khai thác khả năng tiềm tàng về tài nguyên, lao động, tiền
vốn… để tăng cường năng lực sản xuất, cung cấp ngày càng nhiều sản phẩm cho xã
hội, giải quyết công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động… chất lượng tín
Trang 11
dụng trung - dài hạn được nâng cao sẽ góp phần tăng hiệu quả sản xuất xã hội, đảm
bảo sự phát triển cân đối giữa các vùng, các ngành trong cả nước, ổn định và phát
triển kinh tế.
Chất lượng tín dụng trung - dài hạn góp phần làm lanh mạnh quan hệ tín
dụng: hoạt động tín dụng được mở rộng với các thủ tục đơn giản hoá, thuận tiện
nhưng vẫn tuân thủ các nguyên tắc tín dụng sẽ góp phần cho vay đúng các đối tượng
cần thiết, giảm thiểu và đi đến xoá bỏ nạn cho vay nặng lãi chủ yếu hiện nay đang
hoành hành ở nông thôn và các vùng xa xôi hẻo lánh.
Tín dụng nói chung và tín dụng trung - dài hạn nói riêng có mối quan hệ mật
thiết với nền kinh tế - xã hội, thiết lập một mối cơ chế chính sách đồng bộ, có hiệu
quả sẽ có tác động tích cực với mọi mặt của nền kinh tế - xã hội, điều đó cũng có
thể hiện chất lượng hoạt động tín dụng trong nền kinh tế thị trường.
1.2.1.2. Nâng cao chất lượng tín dụng quyết định sự tồn tại và phát triển
của các ngân hàng thương mại
Chất lượng tín dụng trung - dài hạn tốt làm tăng khả năng cung cấp dịch vụ
của các ngân hàng thương mại do tạo thêm nguồn vốn từ việc tăng được vòng quay

vốn tín dụng và thu hút được nhiều khách hàng bởi các hình thức của sản phẩm,
dịch vụ tạo ra một hình ảnh về biểu tượng và uy tín của ngân hàng và sự trung
thành của khách hàng.
Chất lượng tín dụng trung - dài hạn tốt làm tăng khả năng sinh lợi của sản
phẩm, dịch vụ ngân hàng do giảm được sự chậm trễ, giảm chi phí nghiệp vụ, chi phí
quản lý, các chi phí thiệt hại do không thu hồi được vốn vay đã cho vay. Mặt khác
nó còn đảm bảo khả năng thanh toán và lợi nhuận của ngân hàng, tạo thế mạnh cho
ngân hàng trong cạnh tranh, tạo thuận lợi cho sự tồn tại lâu dài của ngân hàng vì
chất lượng tín dụng tốt tạo cho ngân hàng có nhiều khách hàng trung thành và
những khoản lợi nhuận để bổ xung vốn đầu tư. Bên cạnh đó, chất lượng tín dụng tốt
giúp ngân hàng củng cố các mối quan hệ xã hội bằng những điều kiện tốt nhất.
Có thể nói, với những ưu thế trên, việc củng cố và tăng cường chất lượng tín
dụng trung - dài hạn của các ngân hàng thương mại là sự cần thiết khách quan vì sự
Trang 12
tồn tại và phát triển lâu dài của các ngân hàng thương mại. Vì vậy, chất lượng tín
dụng luôn luôn đòi hỏi phải được nâng cao..
1.2.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trung - đài hạn
Chất lượng tín dụng trung - dài hạn được xem xét, đánh giá thông qua hệ
thống chỉ tiêu sau:
1.2.2.1. Về phía khách hàng:
a. Các chỉ tiêu định tính đó là:
- Dự án sử dụng vốn vay trung - dài hạn của ngân hàng có đủ cơ sở pháp lý,
kinh tế, kỹ thuật để thực hiện được.
- Vốn vay được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả, đảm bảo đủ khả năng
trả ngân hàng nợ gốc và lãi, trang trải chi phí khác và để lại cho doanh nghiệp một
khoản thu nhập.
b. Các chỉ tiêu định lượng đó là:
- Thời gian thi công, thực hiện dự án đảm bảo đúng tiến độ.
- Chi phí phải không được vượt quá mức chi phí cho phép.
- Doanh thu phải không được thấp hơn mức doanh thu dự kiến.

- Lợi nhuận phải đạt hoặc vượt quá mức lợi nhuận đã định trong dự án.
1.2.2.2. Về phía ngân hàng
a. Các chỉ tiêu định tính đó là:
- Cho vay phải tuân thủ ba nguyên tắc: vốn vay phải được đảm bảo bằng tài
sản đảm bảo nợ vay, phải hoàn trả vốn, lãi đúng thời hạn và theo cam kết tại hợp
đồng tín dụng đã ký.
- Cho vay phải tuân thủ các điều kiện như lập hồ sơ cho vay, có phương án
sản xuất kinh doanh, có báo cáo tài chính, sản xuất kinh doanh phải có hiệu quả, có
tài sản thế chấp hợp pháp… kèm theo đó là việc kiểm tra trước, trong và sau khi
vay.
b. Các chỉ tiêu định lượng đó là:
- Chỉ tiêu nợ quá hạn: là chỉ tiêu cơ bản cho biết chất lượng một khoản cho
Trang 13
vay:

Chỉ tiêu nợ quá hạn =
Nợ quá hạn của tín dụng trung – dài hạn
Tổng dư nợ tín dụng trung – dài hạn
Đến kỳ hạn trả nợ và lãi tiền vay, nếu bên đi vay không đủ tiền để trả và
không được gia hạn nợ thì ngân hàng sẽ chuyển số nợ đó sang nợ quá hạn. Nợ quá
hạn chính là điều mà ngân hàng không hề mong muốn nhưng nó không phải là
thước đo chuẩn để căn cứ vào đó đánh giá chất lượng tín dụng của món vay. Trên
thực tế, các ngân hàng luôn cố gắng tìm cách để hạ tỷ lệ nợ quá hạn tới mức thấp
nhất có thể được.
Tỷ lệ nợ quá hạn =
Nợ quá hạn của tín dụng trung – dài hạn
Tổng dư nợ tín dụng
Chỉ tiêu này cho biết tỷ lệ nợ quá hạn của trung - dài hạn chiếm bao nhiêu
phần trăm trong tổng dư nợ tín dụng. Tỷ lệ này không có hoặc càng nhỏ càng tốt.
- Chỉ tiêu nợ quá hạn khó đòi:

Tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi
=
Nợ quá hạn khó đòi của tín dụng trung – dài hạn
Tổng dư nợ tín dụng trung – dài hạn
Nếu tỷ lệ này cao thì nó phản ánh rằng món cho vay của ngân hàng có chất
lượng rất thấp, hoạt động của ngân hàng không có hiệu quả và các chỉ tiêu khác để
đánh giá chất lượng tín dụng trung - dài hạn trở nên không có giá trị. Vì vậy chỉ tiêu
này không có hoặc càng thấp càng tốt.
- Chỉ tiêu lợi nhuận:
Tỷ lệ lợi nhuận =
Lợi nhuận từ tín dụng trung – dài hạn
Tổng dư nợ tín dụng trung - dài hạn
Thông qua chỉ tiêu này, ta sẽ thấy được khả năng sinh lời của tín dụng trung -
dài hạn. Bất kỳ một khoản tín dụng nào cho dù đó là khoản ngắn hạn hay trung - dài
hạn không thể xem là có chất lượng cao nếu nó không đem lại lợi nhuận thực tế cho
Trang 14
ngân hàng. Tuy nhiên đối với các ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng quốc doanh
thì lợi nhuận nhiều khi không phải là cái đích để ngân hàng hướng tới mà điều quan
trọng là thực hiện được chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước. Đặc biệt đối
với NHNo & PTNT, với chức năng cho vay trung - dài hạn với mức lãi suất kể cả
lãi suất ưu đãi tín dụng để thực hiện các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước thì trong nhiều trường hợp lợi nhuận không phải là mục tiêu mà ngân hàng cần
phải hướng tới. Nói như vậy không có nghĩa là ngân hàng không quan tâm tới lợi
nhuận. Vì sự tồn tại và phát triển của bản thân ngan hàng mà ngân hàng không thể
cho vay các món vay có lợi nhuận bằng không hoặc nhỏ hơn không. Nhìn chung nếu
như c các chỉ tiêu khác giữa các dự án cho vay là như nhau thì dự án cho vay nào
đem lại lợi nhuận cao hơn vẫn thường được các ngân hàng ưu ái hơn. Thường thì
chỉ tiêu này càng cao càng tốt.
- Chỉ tiêu vòng quay của vốn:
Vòng quay của vốn =

Doanh số thu nợ trung – dài hạn
Tổng dư nợ tín dụng trung - dài hạn bình quân
Chỉ tiêu này cho ta biết ngân hàng thu nợ theo kế hoạch trong hợp đồng tín
dụng được bao nhiêu để có thể lại cho vay dự án mới. Vòng quay của vốn càng lớn
thì càng tốt vì điều đó khẳng định ngân hàng thu được nhiều nợ và chứng tỏ nguồn
vốn trung - dài hạn ngân hàng đã đầu tư hoạt động có hiệu quả. Ngược lại, nếu vòng
quay của vốn càng nhỏ thì việc thu nợ của ngân hàng là kém và nguồn vốn trung -
dài hạn mà ngân hàng đã đầu tư hoạt động kém hiệu quả.
Như vậy khi xem xét đánh giá chất lượng tín dụng trung - dài hạn, ta không
thể căn cứ vào một chỉ tiêu cụ thể nào mà phải sử dụng tổng hợp một hệ thống các
chỉ tiêu để có thể đưa ra kết luận chính xác. Giữa chất lượng tốt và chất lượng chưa
tốt không phải lúc nào cũng rạch ròi mà có thể rất khó nhận ra. Ngay cả khi ta sử
dụng mọi chỉ tiêu thì ta cũng chưa thể đánh giá chính xác được chất lượng cho vay
vì chất lượng tín dụng vừa mang tính cụ thể vừa mang tính trìu tượng. Sự trìu tượng,
mơ hồ ở các dự án nhiều khi là rất lớn, đặc biệt thể hiện trong các dự án cho vay vì
mục tiêu xã hội hay theo định hướng phát triển kinh tế của đất nước.
Tóm lại, các chỉ tiêu đánh giá, xem xét chất lượng tín dụng phải luôn được
Trang 15
xem xét phân tích thường xuyên cả hai mặt định tính và định lượng, cả về lợi nhuận
thuần tuý và lợi ích xã hội, cả trên quan điểm ngân hàng và khách hàng. Thực hiện
được điều này sẽ giúp cho bản thân các ngân hàng cũng như khách hàng đánh giá
được chất lượng tín dụng một cách chính xác đầy đủ nhất. Qua đó có thể giải quyết
được những hạn chế, vướng mắc cũng như phát huy được những ưu điểm để nâng
cao chất lượng tín dụng trung - dài hạn, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền
kinh tế đất nước.
1.2.3. Những nhân tố ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung - dài
hạn
1.2.3.1. Những nhân tố khách quan
a. Môi trường kinh tế:
Môi trường kinh tế dù thay đổi theo chiều hướng nào cũng đều tác động tới

chất lượng tín dụng của ngân hàng. Nếu sự thay đổi theo chiều hướng tốt thì chất
lượng của các khoản tín dụng trung - dài hạn sẽ được nâng cao. Ngược lại, sự thay
đổi theo chiều hướng xấu thì sẽ làm cho chất lượng các khoản tín dụng trung - dài
hạn xấu đi ngoài ý muốn. Ví dụ khi nền kinh tế có hiện tượng lạm phát tăng vọt, giá
cả đồng tiền giảm sút, chỉ số giá cả tăng nhanh gây khó khăn cho sản xuất kinh
doanh, tác động xấu đến khả năng thu hồi công nợ của ngân hàng. Hay khi có sự
biến động lớn trong tỷ giá do sự thay đổi chính sách tiền tệ của Nhà nước, đồng nội
tệ bị giảm giá, các doanh vốn bằng ngoại tệ mà không có nguồn thu bằng ngoại tệ
sẽ gặp khó khăn trong việc trả nợ ngân hàng. Sự biến động về tỷ giá như vậy cũng
khiến các doanh nghiệp phải nhập thiết bị nước ngoài lẽ ra đã vay ngân hàng đủ tiền
sẽ trở thành không đủ tiền để nhập gây ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng khoản
vay.
Nói như vậy không có nghĩa là chỉ môi trường kinh tế trong nước này thay
đổi sẽ tác động tới chất lượng tín dụng trung - dài hạn mà sự thay đổi của môi
trường kinh tế thế giới cũng gây ảnh hưởng không nhỏ, đặc biệt là đối với doanh
nghiệp hoạt động xuất nhập khẩu. Sự thay đổi ấy thể hiện trực tiếp qua sự biến động
về nhu cầu thị trường, sự biến động về tỷ giá khiến cho các doanh nghiệp kinh
doanh xuất nhập khẩu bị thua lỗ ảnh hưởng tới việc trả nợ ngân hàng của doanh
Trang 16
nghiệp.
b. Môi trường chính trị - xã hội
Môi trường chính trị - xã hội ổn định sẽ giúp cho các doanh nghiệp mạnh dạn
đầu tư lâu dài cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngược lại, nếu môi trường chính
trị - xã hội mà bất ổn thì các doanh nghiệp sẽ không dám mạnh dạn đầu tư mà chỉ
duy trì ở mức tái sản xuất giản đơn để bảo đảm an toàn vốn. Điều này sẽ ảnh hưởng
tới quy mô các khoản tín dụng trung - dài hạn của ngân hàng, các món vay chủ yếu
sẽ là ngắn hạn còn khoản tín dụng trung - dài hạn sẽ không có hoặc rất nhỏ vì sự
không ổn định về chính trị - xã hội dẫn đến việc kinh doanh của doanh nghiệp gặp
nhiều rủi ro, bất trắc hơn nên nó sẽ ảnh hưởng tới công tác thu nợ của ngân hàng.
Tuy nhiên, không chỉ có tình hình chính trị xã hội mà cả tình hình chính trị -

xã hội ở nước ngoài cũng có ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng trung - dài hạn bởi
vì hiện nay các quan hệ kinh tế - xã hội ngày càng được mở rộng cho nên các loại
hình doanh nghiệp đa quốc gia cũng ngày càng tăng cả về số lượng và quy mô hoạt
động. Vì vậy, mọi biến động về kinh tế - xã hội ở nước ngoài đều có ảnh hưởng tới
tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước và ảnh hưởng tới chất lượng tín dụng
trung - dài hạn.
c. Môi trường pháp lý
Pháp lý là một bộ phận không thể thiếu của nền kinh tế thị trường có sự điều
tiết của nhà nước. Không có pháp luật hoặc pháp luật không phù hợp với những yêu
cầu phát triển của nền kinh tế thì mọi hoạt động của nền kinh tế không thể trôi chảy
được. Pháp luật có nhiệm vụ tạo lập môi trường pháp lý cho mọi hoạt động sản xuất
kinh doanh tiến hành thuận lợi và đạt hiệu quả kinh tế cao, là cơ sở để giải quyết
khiếu nại khi có tranh chấp xảy ra. Môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng của
ngân hàng nói riêng và cho hoạt động của các doanh nghiệp trong nền kinh tế nói
chung là một nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng tới khả năng phát sinh nợ quá hạn.
Hệ thống pháp luật quốc gia với các bộ luật và văn bản dưới luật chưa được đầy đủ,
đồng bộ, hợp lý sẽ không đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các hoạt
động kinh tế, là nguyên nhân trực tiếp dẫn đến rủi ro trong sản xuất kinh doanh của
các doanh nghiệp, gây nên các khoản nợ quá hạn cho ngân hàng. Như vậy, pháp luật
Trang 17
có vị trí hết sức quan trọng đối với hoạt động ngân hàng nói chung và chất lượng tín
dụng trung - dài hạn nói riêng.
d. Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng là kim chỉ nan đảm bảo cho hoạt động tín dụng đi đúng
quỹ đạo, nó có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của mọi ngân hàng. Một chính
sách tín dụng đúng đắn sẽ thu hút được nhiều ngân hàng, đảm bảo khả năng sinh lời
của hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật, đường lối
chính sách của nhà nước và đảm bảo công bằng xã hội. Ngược lại, nếu chính sách
tín dụng không hợp lý, chồng chéo sẽ gây khó khăn cho ngân hàng khi thực hiện
nghiệp vụ tín dụng. điều đó có nghĩa là chất lượng tín dụng trung - dài hạn phụ

thuộc vào việc xây dựng chính sách tín dụng của ngân hàng có đúng đắn hay không.
e. Môi trường tự nhiên
Môi trường tự nhiên có một ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tín dụng
của ngân hàng nói chung đặc biệt là tín dụng trung - dài hạn nói riêng bởi vì thiên tai
là một yếu tố bất khả kháng, chúng ta không thể dự đoán một cách chắc chắn là khi
nào những thiên tai như bão lũ lụt, hạn hán, hoả hoạn, dịch bệnh…sẽ xảy ra và mức
độ ảnh hưởng, thiệt hại của chúng là như thế nào. Thông thường khi thiên tai xảy ra,
nó thường gây thiệt hại rất lớn cho các ngành sản xuất, dịch vụ, gây ra các biến
động xấu ngoài dự kiến trong mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và các khách
hàng của mình làm cho vốn của ngân hàng đầu tư vào các doanh nghiệp sẽ ít nhiều
bị ảnh hưởng và dẫn tới rủi ro làm giảm chất lượng tín dụng.
1.2.3.2. Các nhân tố chủ quan
a. Về phía khách hàng
- Năng lực của khách hàng
Không một khách hàng nào khi đi vay lại không muốn món vay đem lại hiệu
quả nhưng nhiều khi do năng lực có hạn nên họ không thể thực hiện được ý đồ của
mình. Do hạn chế về khả năng, họ không dự đoán đúng những biến động lên xuống
của nhu cầu thị trường hoặc do yếu kém trong quản lý, trong việc giới thiệu, quảng
cáo sản phẩm mà hoạt động của doanh nghiệp không thể phát triển hoặc do thiếu
kinh nghiệm trên thương trường mà doanh nghiệp dễ dàng bị gục ngã trong cạnh
Trang 18
tranh… Tất cả những điều đó khiến cho chất lượng tín dụng bị ảnh hưởng ngoài ý
muốn của cả ngân hàng lẫn khách hàng.
- Sự trung thực của khách hàng
Nếu khách hàng trung thực, sử dụng vốn vay đúng mục đích thì xác suất xảy
ra rủi ro sẽ giảm đi đáng kể vì tính khả thi của dự án cũng đã được ngân hàng thẩm
định một cách kỹ càng trước khi ra quyết định cho vay. Nhưng việc sử dụng vốn
vay sai mục đích của khách hàng đã góp phần không nhỏ vào việc đổ bể của các tổ
chức tín dụng.
Chẳng hạn như sử dụng vốn vay đầu tư vào tài sản cố định, vào bất động sản,

sau đó các tài sản này bị sụt giá dẫn đến việc doanh nghiệp không trả được nợ cho
ngân hàng. Các doanh nghiệp còn chiếm dụng vốn lẫn nhau dẫn đến các doanh
nghiệp làm ăn nghiêm chỉnh gặp khó khăn trong việc trả nợ ngân hàng.
- Rủi ro trong công việc kinh doanh của khách hàng
Rủi ro trong kinh doanh của doanh nghiệp sẽ xảy ra nếu việc tính toán triển
khai dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp trong khoa học, không
thực hiện kỹ càng… Tuy nhiên trong một số trường hợp cho dù phương án sản xuất
kinh doanh của người đi vay đã được tính toán một cách chi tiết, khoa học, chính
xác đến mức tối đa thì công việc đầu tư vẫn luôn chứa đựng khả năng xảy ra rủi ro
do những thay đổi bất ngờ, ngoài ý muốn và bất khả kháng của các điều kiện sản
xuất kinh doanh, gây tác động xấu đến công việc làm ăn, mang lại rủi ro cho doanh
nghiệp. Ví dụ các thiệt hại doanh nghiệp phải gánh chịu do sự biến động của thị
trường cung cấp như: khi giá cả nguyên vật liệu biến động tăng vọt làm tăng giá
thành công xưởng của sản phẩm, nếu giá bán của sản phẩm không thay đổi nó sẽ
làm cho thu nhập tạo ra trên một sản phẩm giảm, làm giảm tổng lợi nhuận được của
cả dự án, ảnh hưởng xấu tới việc trả nợ ngân hàng. Nếu đảm bảo thu nhập của mình,
doanh nghiệp nâng giá bán của sản phẩm lên thì điều này sẽ làm cho việc tiêu thụ
sản phẩm gặp khó khăn, khả năng thu hồi vốn sản xuất bị chậm trễ, dễ dàng vi phạm
việc trả nợ ngân hàng về mặt thời hạn.
b. Về phía ngân hàng

Công tác thẩm định
Trang 19
Tín dụng trung - dài hạn được tiến hành chủ yếu dựa trên các dự án đầu tư.
Muốn xem xét dự án có đủ độ tin cậy để có thể cho vay được hay không,
ngân hàng cần tiến hành thẩm định dự án đầu tư.
 Thẩm định dự án đầu tư
Thẩm định dự án đầu tư là việc tổ chức, xem xét một cách khách quan, khoa
học và toàn diện các nội dung cơ bản có ảnh hưởng đến công cuộc đầu tư để ra
quyết định đầu tư và cho phép đầu tư.

Mục đích của việc thẩm định dự án đầu tư là nhằm giúp ngân hàng rút ra kết
luận chính xác về tính khả thi, hiệu quả kinh tế, khả năng trả nợ và những rủi ro có
thể xảy ra của dự án để đưa ra quyết định cho vay hoặc từ chối cho vay.
Thông qua công tác thẩm định, ngân hàng sẽ phát hiện, bổ sung thêm những
giải pháp nhằm nâng cao tính khả thi của dự án đồng thời làm cơ sở để xác định số
tiền cho vay, thời gian cho vay, mức thu nợ hợp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho
doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả.
Thẩm định tín dụng một cách kỹ càng, đúng quy trình thẩm định sẽ góp phần
giảm được những rủi ro của tín dụng trung - dài hạn, giúp ngân hàng thu được lợi
nhuận và đảm bảo tính ổn định của các khoản vay. Công tác thẩm định tập trung ở
hai nội dung:
+ Thẩm định toàn diện các nội dung của luận chứng kinh tế, kỹ thuật, báo
cáo kinh tế của các dự án tiền khả thi.
+ Thẩm định toàn diện tình hình sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của
doanh nghiệp.
Bước đầu tiên của thẩm định dự án là phải thu thập thông tin sau đó sẽ tiếp
đến tiến hàng phân tích những thông tin đó. Những thông tin thu thập phải đồng bộ,
từ nhiều nguồn khác nhau như:
- Thẩm định về phương diện thị trường:
+ Kiểm tra cân đối cung cầu về sản phẩm của dự án, tuỳ theo phạm vi tiêu
thụ sản phẩm ở trong nước hay xuất khẩu:
. Nhu cầu của thị trường, dự báo mức độ gia tăng
Trang 20
. Sản phẩm có khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường về cả khối lượng và chất
lượng.
. Đánh giá những sản phẩm có khả năng thay thế sản phẩm của dự án trong
tương lai, độ bền của nhu cầu sử dụng của sản phẩm thay thế.
. Khả năng đáp ứng các nguồn cung cấp đầu vào: tính ổn định và tính thường
xuyên của nguồn cung ứng.
+ Căn cứ vào khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp về sản phẩm:

. Ưu thế tương đối của sản phẩm do dự án sản xuất về: giá thành, chất lượng,
mẫu mã, điều kiện lưu thông và tiêu thụ.
. Khả năng và uy tín của doanh nghiệp trong quan hệ thị trường về sản phẩm,
kênh phân phối, khả năng nắm bắt thông tin.
. Những con số cụ thể về khả năng tiêu thụ sản phẩm trong quá khứ và tương
lai.
- Thẩm định về phương diện kỹ thuật:
+ Xem xét việc lựa chọn địa điểm và mặt bằng xây dựng dự án, việc lựa chọn
hình thức đầu tư và công suất của dự án.
+ Khai thác tiềm năng sẵn có và lâu dài, có khả năng đáp ứng được nhu cầu
cần thiết, tối ưu hoá hiệu quả của dự án.
+ Nhu cầu về dây chuyền công nghệ và lựa cho thiết bị máy móc, khả năng
tìm kiếm, lựa chọn công nghệ thích hợp, kiểm tra tính pháp lý của hợp đồng
chuyển giao công nghệ.
+ Thẩm định tiến độ thực hiện của dự án.
- Thẩm định về phương diện tổ chức:
+ Xem xét cơ cấu tài chính: vấn đề về quyền lợi và trách nhiệm được kết nối
như thế nào.
+ Năng lực tài chính, quản lý của nhóm điều hành, của nhân viên: có những
hoạt động đào tạo trước mắt và lâu dài.
- Thẩm định về mặt tài chính của dự án
Trang 21
Đây chính là vấn đề cốt lõi nhất khi thẩm định dự án đầu tư đối với bất kỳ
một ngân hàng nào khi đưa ra quyết định cho vay mà đặc biệt là cho vay trung - dài
hạn. Thẩm định về mặt tài chính được coi là sự đảm bảo tối thiểu cho khoản vay sắp
cung cấp. Thẩm định tài chính bao gồm các nội dung chính là:
+ Vốn xây lắp: thường được tính toán trên cơ sở khối lượng công tác xây lắp
và đơn giá xây lắp tổng hợp hay suất vốn đầu tư.
+ Vốn thiết bị: căn cứ vào danh mục thiết bị để kiểm tra giá cả mua và chi
phí vận chuyển, bảo quản theo quy định của nhà nước. Đối với những thiết bị

được chuyển giao công nghệ thì tính gồm cả chi phí chuyển giao công nghệ.
+ Vốn kiến thiết cơ bản khác: cần tính tới nhu cầu vốn lưu động ban đầu và nhu
cầu bổ sung vốn lưu động và những khoản mục chi phí cần thiết khác.
Dựa trên những tính toán cơ bản thì chủ dự án có trách nhiệm bỏ một phần
vốn tự có của mình vào tổng khoản vay và đó được coi là điều kiện cần đảm bảo về
uy tín và độ an toàn, phòng tránh rủi ro của khoản tín dụng trung - dài hạn.
- Tiến độ bỏ vốn đầu tư: có ý nghĩa rất quan trọng, đặc biệt là đối với những
công trình có thời gian xây dựng dài, cần thiết phải phân bổ tiến độ bỏ vốn theo giai
đoạn thích hợp để tạo điều kiện cho việc điều hành vốn của ngân hàng.
- Yếu tố quyết định trực tiếp cho việc lựa chọn cho vay hay không chính là
khả năng sinh lợi của dự án vì ngân hàng cũng là một đơn vị sản xuất kinh doanh
nên họ cũng phải quan tâm tới lợi nhuận của dự án. Vì vậy, trước khi bỏ vốn đầu tư,
khách hàng và ngân hàng thường tiến hành thẩm định tính khả thi của dự án qua một
số chỉ tiêu sau:
+ Khả năng thu nhập của dự án trên doanh thu và chi phí vận hành hàng năm
của dự án
Doanh thu thuần = Doanh thu toàn bộ - Thuế VAT
Tỷ suất lợi nhuận =
Lãi thuần
Tổng vốn đầu tư
* 100
Nếu tỷ suất lợi nhuận của dự án > lãi suất tiền gửi thì nên đầu tư
Trang 22
+ Thời gian hoàn vốn: là số năm mà dự án cần thiết phải hoạt động để tổng
số lợi nhuận và khấu hao thu được bù đắp số vốn đầu tư bỏ ra ban đầu.
Thời gian hoàn vốn =
Vốn đầu tư
(Lợi nhuận + khấu hao) Bình quân một năm
Thời gian hoàn vốn phản ánh hiệu quả của đầu tư, thời gian hoàn vốn càng
nhanh thì hiệu quả đầu tư càng có hiệu quả.

+ Giá trị hiện tại ròng (NPV): cho ta biết quy mô của thu nhập từ dự án trong
suốt quá trình hoạt động từ khi khởi đầu cho đến khi kết thúc.
NPV =
i
n
i
i
n
i
r
Ci
r
Ti
)1()1(
00
+
Σ−
+
Σ
==
Trong đó:
n: số năm
r: tỷ lệ chiết khấu
T
i
: khoản thu của dự án ở năm thứ i
C
i
: khoản chi cho đầu tư ở năm thứ i
Ngân hàng cho vay khi NPV > 0 vì khi đó dự án có tính khả thi, doanh

nghiệp sẽ có lãi và có thể trả nợ ngân hàng.
+ Chỉ tiêu suất thu hồi nội bộ (IRR)
Suất thu hồi nội bộ là lãi suất chiết khấu mà tương ứng với nó giá trị của
NPV = 0
21
121
1
)(
NPVNPV
rrNPV
rIRR
+

+=
Suất thu hồi nội bộ là lãi suất lớn nhất mà dự án có thể chịu đựng được. Dự
án có tính khả thi khi IRR > lãi suất vay dự án vì khi đó doanh nghiệp vừa trả được
nợ ngân hàng và vừa có lãi.
Trang 23
Ngoài các công tác thẩm định nêu trên, ngân hàng còn phải thẩm định độ
nhạy của dự án đối với sự thay đổi của các yếu tố, lãi suất tỷ giá, xu thế biến động
của nền kinh tế…
Hơn nữa ngân hàng còn phải tiến hành thẩm định khách hàng vay vốn bao
gồm: thu nhập và phân tích tài liện trong hồ sơ cho vay, phân tích tài chính khách
hàng: phân tích tình hình tài chính qua các năm, phân tích các chỉ số tác nhân chung
để đánh giá doanh nghiệp… và đưa ra đánh giá, kết luận tổng quát về tình hình tài
chính, sản xuất kinh doanh của khách hàng.
Tóm lại, do đặc điểm của tín dụng trung - dài hạn là thời gian dài, độ rủi ro
cao nên công tác thẩm định theo đúng và đầy đủ các trình tự nêu trên thì sẽ góp
phần nâng cao chất lượng món vay và đảm bảo cho sự an toàn của bản thân ngân
hàng.


Chính sách tín dụng
Chính sách tín dụng của một ngân hàng là kim chỉ nan cho hoạt động tín
dụng của ngân hàng đó. Bên cạnh việc phải phù hợp với đường lối phát triển của
nhà nước thì chính sách tín dụng còn phải đảm bảo kết hợp hài hoà quyền lợi của
người gửi tiền, người đi vay và quyền lợi của chính bản thân ngân hàng. Chính sách
tín dụng phải tạo ra sự công bằng, không những phải đảm bảo an toàn cho hoạt động
của ngân hàng mà còn phải đảm bảo đủ sức hấp dẫn đối với khách hàng. Một chính
sách tín dụng đồng bộ, thống nhất và đầy đủ, đúng đắn sẽ xác định phương hướng
đúng đắn cho cán bộ tín dụng. Ngược lại, một chính sách tín dụng không đầy đủ,
đúng đắn và thống nhất sẽ tạo ra định hướng lệch lạc cho hoạt động tín dụng, dẫn
đến việc cấp tín dụng không đúng đối tượng tạo kẽ hở cho người sử dụng vốn
không đem lại hiệu quả kinh tế, dẫn đến rủi ro tín dụng.
Ví dụ về chính sách lãi suất, khi lãi suất cho vay quá cao thì khách hàng sẽ
không đến vay ngân hàng, ngân hàng sẽ bị ứ đọng vốn gây một hiệu quả tồi tệ đến
hoạt động của ngân hàng. Ngược lại, nếu lãi suất cho vay quá thấp thì sẽ có rất
nhiều khách hàng đến vay và lúc này ngân hàng khó có khả năng đáp ứng hết khả
năng về vốn trung - dài hạn cho khách hàng vì hiện nay tỷ trọng khoản tiền gửi
trung - dài hạn so với tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng là không lớn. Mặt
Trang 24
khác, lãi suất cho vay thấp dẫn tới việc ngân hàng không bù đắp được việc phải trả
lãi tiền gửi và trả lãi suất tiền gửi…

Chất lượng nhân sự
Con người là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng
nói riêng cũng như trong hoạt động của ngân hàng nói chung. Việc tuyển chọn sự có
đạo đức nghề nghiệp tốt, có tinh thần trách nhiệm, tâm huyết với nghề, giởi chuyên
môn, am hiểu và có kiến thức phong phú về thị trường đặc biệt trong lĩnh vực tham
gia đầu tư vốn, năm vững những văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động tín
dụng, có năng lực phân tích và xử lý dự án xin vay, đánh giá tài sản thế chấp, giám

sát số tiền cho vay ngay từ khi cho vay đến khi thu hồi được nợ hoặc xử lý xong
món nợ theo quy định của ngân hàng… sẽ giúp cho ngân hàng có thể ngăn ngừa
được những sai phạm có thể xảy ra khi thực hiện chi kỳ khép kín của một khoản tín
dụng. Tuy nhên đối với những cán bộ không được đào tạo đầy đủ, không am hiểu
về ngành kinh doanh mà mình đang tài trợ, trong khi ngân hàng không có đủ các số
liệu thống kê, các chỉ tiêu để phân tích, so sánh, đánh giá vài trò vị trí của doanh
nghiệp trong ngành, khả năng thị trường hiện tại và tương lai, chu kỳ, vòng đời sản
phẩm … dẫn đến việc xác định sai hiệu quả của dự án xi vay làm rủi ro tín dụng của
ngân hàng.

Công tác tổ chức của ngân hàng
Công tác tổ chức không chỉ tác động tới chất lượng tín dụng mà còn tác động
tới mọi hoạt động của ngân hàng. Nếu công tác tổ chức không khoa học sẽ làm ảnh
hưởng tới thời gian ra quyết định đối với món vay, không đáp ứng kịp thời các yêu
cầu của khách hàng, không theo dõi sát sao được công việc.
Sự phân công công việc nếu không hợp lý, khoa học sẽ dẫn đến sự không rõ
ràng, chồng chéo khiến cho các cán bộ tín dụng ỷ lại, thiếu trách nhiệm đối với công
việc của mình. Công tác tổ chức ở đây cũng đề cập tới vấn đề giao việc đúng người,
đúng việc. Mỗi một cán bộ cần được giao cho công việc phù hợp để có thể phát huy
hết khả năng và giữa các bộ phận cần có sự phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ để công
việc tiến hành nhanh chóng, chính xác. Nếu được tổ chức tốt, các công việc đối với
một món vay sẽ được thực hiện tuần tự, chặt chẽ, vừa đảm bảo về mặt thời gian vừa
Trang 25

×