Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

LUẬN VĂN: Giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại của các ngân hàng thương mại Việt Nam potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 85 trang )






LUẬN VĂN:


Giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng hiện
đại của các ngân hàng thương mại Việt Nam








Lời mở đầu
Trước tác động của toàn cầu hoá và xu thế nhất thể hoá thị trường tài chính tiền tệ
đang diễn ra nhanh chóng, Việt Nam đang từng bước mở cửa tiến tới hội nhập khu vực
và Quốc tế. Trong xu thế đó Việt Nam đã kí kết không ít các hiệp định song phương và
đa phương liên quan tới hoạt động tài chính ngân hàng. Đặc biệt Hiệp định thương mại
Việt - Mỹ cũng như cam kết chuẩn bị gia nhập tổ chức Thương mại thế giới( WTO) đã
buộc chúng ta phải đổi mới và phát triển hệ thống Ngân hàng. Để giành thế chủ động
trong tiến trình hội nhập Việt Nam cần xây dựng một hệ thống Ngân hàng đa dạng về
hình thức, có uy tín với khách hàng, hoạt động có hiệu quả, an toàn, nâng cao năng lực
cạnh tranh và mở rộng đầu tư đáp ứng nhu cầu CNH- HĐH đất nước
Cùng với xu thế đó là sự phát triển không ngừng và ngày càng mạnh mẽ của khoa
học kĩ thuật và thông tin. Cũng cùng với thế giới Việt Nam đang dần hình thành một
nền thương mại điện tử trong đó các nghiệp vụ về thanh toán và chuyển tiền đều được


điện tử hoá. Ngân hàng là trung gian thanh toán đóng vai trò quan trọng trong nền kinh
tế nên cũng là cũng là người bạn không thể thiếu của khách hàng tham gia thương mại
điện tử. Với sự phát triển của thương mại điện tử cũng đã tạo ra cho ngân hàng một loạt
các dịch vụ mới, trong đó phải kể đến các dịch vụ ngân hàng hiện đại. Đây là những
dịch vụ ngân hàng được ra đời và phát triển dựa trên một trình độ công nghệ kĩ thuật
hiện đại. ở Việt Nam kể từ khi các NHTM thực hiện đổi mới tái cơ cấu lại tổ chức và
hiện đại hoá công nghệ ngân hàng cũng đã bắt đầu đưa ra những sản phẩm dịch vụ hiện
đại phù hợp với sự phát triển của quốc tế cũng như đáp ứng được nhu cầu của khách
hàng
Phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát
triển và tồn tại của các NHTM Việt Nam hiện nay.Tuy nhiên trong khi các NHTM trên
thế giới đã phát triển mạnh mẽ các dịch vụ hiện đại của mình thì ở Việt Nam do nhiều
điều kiện khách quan và chủ quan mà việc phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại
mới đang ở giai đoạn nghiên cứu, triển khai thử nghiệm, chưa phát triển rộng rãi. Bước

đầu đã thu được một số kết quả nhất định nhưng vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn vướng
mắc cần tháo gỡ.
Sở giao dịch I - NHĐT&PTVN là một chi nhánh lớn của hệ thống NHĐT&PTVN, là
một trong những đơn vị hàng đầu của hệ thống và luôn đi đầu trong việc ứng dụng công
nghệ hiện đại vào phát triển dịch vụ của mình. Tuy nhiên cùng với tình trạng chung của
các NHTM Việt Nam mà trong quá trình phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại của
mình vẫn còn nảy sinh nhiều vấn đề cần giải quyết. Do đó để tìm ra giải pháp phát triển
dịch vụ ngân hàng hiện đại của Sở giao dịch I - NHĐT&PTVN nói riêng và hệ thống
NHTM Việt Nam nói chung nhằm thu hút khách hàng, tạo uy tín và vị thế cạnh tranh
trên thị trường là vấn đề hết sức cần thiết hiện nay.
Nhận thức được vấn đề này em đã chọn đề tài:
Giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại của các ngân hàng thương mại
Việt Nam ( Nghiên cứu tại Sở giao dịch I- NHĐT&PTVN)
Nội dung gồm ba phần:
Chương I: Tổng quan về dịch vụ ngân hàng hiện đại của các NHTM trong nền kinh

tế
Chương II: Thực trạng dịch vụ ngân hàng hiện đại tại các NHTM Việt Nam và Sở
giao dịch I- NHĐT&PTVN
Chương III: Giải pháp phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại của các NHTM Việt
Nam ( Nghiên cứu tại Sở giao dịch I- NHĐT&PTVN)


Chương I
Tổng quan về dịch vụ ngân hàng hiện đại của các ngân hàng thương mại trong nền
kinh tế.
I. Tổng quan về ngân hàng thương mại
1. Khái niệm về ngân hàng
Ngân hàng là một loại hình tổ chức quan trọng đối với kinh tế. Các NHTM được
định nghĩa qua chức năng, các dịch vụ và vai trò mà chúng thực hiện trong nền kinh tế.
Với mỗi cách tiếp cận khác nhau ta sẽ có khái niệm ngân hàng khác nhau.

Luật ngân hàng Pháp 1941 định nghĩa NHTM căn cứ vào mục đích và tính chất hoạt
động. Ngân hàng được coi là “những xí nghiệp hay cơ sở hành nghề thường xuyên nhận
của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho
chính họ vào các nghiệp vụ chứng khoán, tín dụng hay dịch vụ tài chính”.
Nếu xét trên phương diện những loại hình dịch vụ cung cấp có thể hiểu: “Ngân hàng
là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc
biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính
nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”.
Xem xét trên các hoạt động chủ yếu Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ghi: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và
dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để
cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán”.
Với nội dung của đề tài nghiên cứu, chuyên đề sẽ đi theo khái niệm về NHTM dựa
trên những loại hình dịch vụ cung cấp và trên các hoạt động chủ yếu của nó.

2. Chức năng của các ngân hàng thương mại
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính có vai trò vô cùng quan trọng trong
nền kinh tế, với vị trí và vai trò của mình ngân hàng thực hiện các chức năng cơ bản
sau:
Chức năng trung gian tín dụng: Với chức năng này ngân hàng đã khắc phục được
những hạn chế trong quan hệ tín dụng trực tiếp giữa các chủ thể kinh tế. Ngân hàng
chuyển những khoản tiết kiệm nhàn rỗi thành những khoản tín dụng cho các tổ chức
kinh tế và các thành phần kinh tế khác để đầu tư. Ngân hàng đồng thời vừa là người đi
vay vừa là người cho vay. Đây là chức năng quan trọng nhất vì nó phản ánh bản chất
của NHTM đó là đi vay để cho vay, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của NHTM,
đồng thời là cơ sở để thực hiện những chức năng tiếp theo
Chức năng là trung gian thanh toán: Ngân hàng làm trung gian thanh toán, thay mặt
khách hàng thực hiện thanh toán việc mua hàng hoá và dịch vụ bằng việc trích từ tài
khoản tiền gửi của khách hàng, hay nhập tiền vào tài khoản của khách hàng , thanh toán
hộ cho khách hàng .Khi nền kinh tế càng phát triển xu hướng thanh toán bằng tiền mặt
giảm, thanh toán qua ngân hàng tăng nên ngân hàng ngày càng bộc lộ rõ tầm quan trọng
của mình trong thanh toán .

Chức năng là người bảo lãnh: Ngân hàng cam kết trả nợ cho khách hàng khi khách
hàng mất khả năng thanh toán ( phát hành thư tín dụng)
Chức năng là đại lý : Thay mặt khách hàng quản lý và bảo vệ tài sản cho họ, phát
hành và chuộc lại chứng khoán.
3. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại
Nhìn chung các hoạt động cơ bản của NHTM đều hướng tới mục tiêu tối cao, chi
phối các hoạt động khác đó là tối thiểu hoá chi phí, tối đa hóa lợi nhuận và đạt được
mục tiêu an toàn. Về cơ bản một NHTM thường xuyên thực hiện các hoạt động chính
sau:
-Huy động vốn: Đây là hoạt động tiền đề có ý nghĩa đối với bản thân ngân hàng cũng
như đối với xã hội. Trong hoạt động này NHTM được phép sử dụng những biện pháp
và công cụ cần thiết mà luật pháp cho phép để huy động các nguồn tiền nhàn rỗi trong

xã hội, làm nguồn vốn tín dụng để cho vay đối với nền kinh tế. Kết quả của hoạt động
huy động vốn là tạo ra nguồn vốn để đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế.
-Hoạt động sử dụng vốn: Là việc ngân hàng sử dụng nguồn vốn của mình và các
nguồn vốn ổn định khác để cho vay đối với các chủ thể kinh tế và thực hiện đầu tư. Đây
là hoạt động quan trọng nhất quyết định đến khả năng tồn tại và phát triển của NHTM.
- Ngân hàng thực hiện các hoạt động kinh doanh dịch vụ ngân hàng : Những dịch vụ
ngân hàng ngày càng phát triển vừa cho phép hỗ trợ đáng kể cho nghiệp vụ khai thác
nguồn vốn, mở rộng các nghiệp vụ đầu tư, vừa tạo ra thu nhập cho ngân hàng bằng các
khoản tiền hoa hồng, lệ phí. Các hoạt động này gồm: Các dịch vụ thanh toán; thu, chi
hộ khách hàng; Nhận bảo quản các tài sản giấy tờ có giá; Kinh doanh mua bán ngoại tệ ,
vàng bạc, đá quý; Tư vấn tài chính …
II. Tổng quan về dịch vụ ngân hàng hiện đại
1. Khái niệm về dịch vụ ngân hàng hiện đại (DVNHHĐ)
Dịch vụ là hoạt động bao gồm các nhân tố không hiện hữu, giải quyết các mối quan
hệ giữa khách hàng và tài sản mà khách hàng sở hữu với người cung cấp mà không có
sự chuyển giao quyền sở hữu. Sản phẩm của dịch vụ có thể trong phạm vi và vượt quá
phạm vi của sản phẩm vật chất.

Ngành ngân hàng là ngành không trực tiếp sản xuất ra của cải vật chất và tinh thần
cho xã hội nên được xếp vào ngành dịch vụ.
Xét trên giác độ Marketing: Dịch vụ ngân hàng là những đặc điểm, tính năng, công
dụng do ngân hàng tạo ra nhằm thoả mãn nhu cầu và mong muốn nhận được của khách
hàng, tổ chức tài chính.
Theo tác giả Võ Kim Thanh trong bài báo “Đa dạng hoá nghiệp vụ dịch vụ ngân
hàng- xu thế phát triển tất yếu của các NHTM Việt Nam”(Tạp chí ngân hàng số 3/2001)
viết: “Dịch vụ ngân hàng là những dịch vụ thuộc lĩnh vực tài chính, do ngân hàng cung
cấp cho khách hàng của mình”.
Còn theo tác giả Đỗ Xuân Hồng trong bài báo “Dịch vụ ngân hàng trong thời đại
công nghệ thông tin và hội nhập kinh tế” (tạp chí ngân hàng số 8/03) viết: “Dịch vụ
ngân hàng là các phương tiện, công cụ vô hình dùng để chuyển tải các loại hình hoạt

động kinh doanh ngân hàng bằng các phương tiện công cụ hữu hình (các loại máy móc,
thiết bị, công nghệ).
Do lịch sử phát triển lâu đời cũng như sự tăng giảm không ngừng về tổ chức hoạt
động theo thời gian của NHTM và sự thay đổi như vũ bão của khoa học công nghệ ma
dịch vụ ngân hàng có thể được chia thành hai loại: dịch vụ ngân hàng truyền thống(
DVNHTT) và dịch vụ ngân hàng hiện đại( DVNHHĐ).
Dịch vụ ngân hàng truyền thống là những dịch vụ có lịch sử lâu đời, sự ra đời và hoạt
động của các dịch vụ này gắn liền với sự ra đời và phát triển của ngân hàng. Đây là
những dịch vụ cơ bản , là hoạt động chính đem lại nguồn thu nhập lớn cho ngân hàng ,
quyết định đến sự tồn tại của ngân hàng. Các DVNHTT có thể kể đến là : dịch vụ nhận
tiền gửi tiết kiệm, nhận tiền gửi thanh toán, dịch vụ cho vay…
Trong phạm vi nghiên cứu của chuyên đề chỉ tập trung và những DVNHHĐ mới phát
triển gần đây, những dịch vụ dựa trên khoa học công nghệ tiên tiến và những dịch vụ có
tính chất tập trung hóa, đa dạng hoá cao
Vậy có thể hiểu: Dịch vụ ngân hàng hiện đại là những dịch vụ thuộc lĩnh vực tài
chính do ngân hàng cung cấp cho khách hàng của mình dựa trên sự tiến bộ và phát
triển của khoa học công nghệ thông tin hiện đại, có sự đa dạng hoá cung cấp nhiều tiện

ích cho khách hàng , thoả mãn ngỳa càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Ví dụ: dịch
vụ thanh toán điện tử, dịch vụ ngân hàng điện tử( rút tiền tự động, ngân hàng tại nhà…)
Các tiêu chí để nhận biết một dịch vụ ngân hàng là DVNHHĐ như sau:
- Thời gian ra đời: DVNHHĐ chỉ ra đời khi nền kinh tế đã đạt được một trình độ nhất
định về khoa học công nghệ, do vậy sự ra đời của các DVNHHĐ gắn liền với sự ra đời
và phát triển của khoa học công nghệ thông tin hiện đại, đặc biệt là công nghệ ngân
hàng. Các dịch vụ này chủ yếu ra đời vào những thập kỉ cuối của thế kỷ XX và những
năm đầu của thế kỷ XXI.
- DVNHHĐ chứa đựng hàm lượng công nghệ lớn, để có thể sử dụng được các dịch
vụ này cần phải có cơ sở hạ tầng thông tin , tin học và các thiết bị điện tử hoặc kĩ thuật
số tương ứng
- Khách hàng có thể sử dụng dịch vụ mà không cần phải trực tiếp đến ngân hàng , có

thể giao dịch với ngân hàng tại bất cứ nơi đâu, bất cứ thời điểm nào, chỉ cần khách hàng
đáp ứng đủ các điều kiện do ngân hàng đưa ra
Căn cứ vào các tiêu chí trên và căn cứ vào phạm vi chuyên đề nghiên cứu bài viết sẽ
tập trung đi sâu nghiên cứu dịch vụ thanh toán trong nước( chủ yếu là các công cụ và
phương thức thanh toán hiện đại) và các dịch vụ ngân hàng điện tử
2. Sự phân biệt giữa dịch vụ ngân hàng truyền thống và dịch vụ ngân hàng hiện
đại
DVNHTT và DVNHHĐ đều là những sản phẩm dịch vụ tài chính do ngân hàng cung
ứng cho khách hàng của mình, vì vậy chúng đều có đặc điểm chung sau:
*Thứ nhất: Dịch vụ ngân hàng mang tính vô hình: Do dịch vụ của ngân hàng không
tồn tại dưới dạng vật chất cụ thể vì vậy khi khách hàng muâ dịch vụ không thể sờ nắm
đựơc vật mình mua. Vì vậy khách hàng thường gặp khó khăn trong việc đưa ra các
quyết định lựa chọn, họ chỉ có thể kiểm tra và xác định chất lượng sản phẩm dịch vụ
trong khi sử dụng. Do đặc tính vô hình nên trong kinh doanh ngân hàng phải lựa chọn
trên cơ sở lòng tin. Do đó để tăng lòng tin tưởng của khách hàng ngân hàng phải tạo và
củng cố niềm tin đối với khách hàng: cách nâng cao chất lượng dịch vụ cung ứng, tăng
tính hữu hình của sản phẩm, khuyếch trương hình ảnh uy tín tạo điều kiện để khách
hàng tham gia vào hoạt động tuyên tryền cho ngân hàng

* Thứ 2: Tính không thể tách biệt: Do quá trình cung cấp và quá trình tiêu dùng sản
phẩm, dịch vụ ngân hàng xảy ra đồng thời, đặc biệt có sự tham gia trực tiếp của khách
hàng vào quá trình cung ứng sản phảm. Mặt khác, quá trình cung ứng sản phẩm dịch vụ
ngân hàng thường đựoc tiến hành theo quy trình nhất định không thể chia cắt ra thành
các thành phẩm khác nhau Điều đó làm cho ngân hàng không có sản phẩm dở dang, dự
trữ lưu kho, mà sản phẩm được cung ứng trực tiếp cho người tiêu dùng khi và chỉ khi
khách hàng có nhu cầu. Quá trình cung ứng diễn ra đồng thời với quá trình sử dụng sản
phẩm dịch vụ của ngân hàng.
* Thứ 3: Tính không ổn định và khó xác định: Sản phẩm dịch vụ ngân hàng được cấu
thành bởi nhiều yếu tố khác nhau như trình độ đội ngũ nhân viên, kỹ thuật công nghệ và
khoa học. Đồng thời sản phẩm dịch vụ ngân hàng còn được thực hiện ở không gian và

thời gian khác nhau nên đã tạo ra tính không đồng nhất về thời gian, cách thức và điều
kiện thực hiện.
Bên cạnh những đặc điểm chung đó, DVNHTT và DVNHHĐ còn được phân biệt bởi
các đặc điểm sau:
DVNHTT DVNHHĐ
Ra đời cùng với sự hình thành và
phát triển của ngân hàng. Ví dụ: Nhận
tiền gửi, cho vay, cung cấp các tìa
khoản giao dịch, bảo quản vật có giá

Là những dịch vụ mới ra đời khi khoa
học công nghệ thông tin bắt đầu phát
triển. Ví dụ: thanh toán điện tử, rút tiền
tự động qua ATM, Internet banking,
dịch vụ ngân hàng tại nhà
-Những dịch vụ này chiếm tỷ trọng
lớn trong hoạt động ngân hàng nên là
những dịch vụ mang lại thu nhập chính
cho ngân hàng.

-Dịch vụ ngân hàng hiện đại chiếm
tỷ trọng nhỏ, chủ yếu là các dịch vụ hỗ
trợ cho hoạt động tín dụng, bổ sung thu
nhập, thu hút thêm khách hàng cho
ngân hàng.

-Dịch vụ cần nhiều lao động, lao
động thủ công là chính
-Dịch vụ ngân hàng hiện đại chứa
đựng hàm lượng công nghệ cao nên đòi

hỏi phải có sự phát triển của công nghệ



thông tin một cách tương ứng. Cần
phải có máy móc thiết bị hiện đại hỗ
trợ.Lao động thủ công giảm bớt
-Hầu hết khách hàng muốn sử dụng
dịch vụ ngân hàng phải đến giao dịch
trực tiếp với ngân hàng.

-Rút ngắn thời gian giao dịch, thu
hẹp khoảng cách không gian, khách
hàng có thể không phải đến ngân hàng.

-Những dịch vụ này mang tính rủi ro
cao, ngân hàng phụ thuộc nhiều vào
khách hàng, nhất là sau khi cho vay.

-Những dịch vụ này đa dạng, phân
tán rủi ro, tăng cưòng khả năng cạnh
tranh của ngân hàng trên thị trường.

-Dịch vụ ngân hàng hiện đại có tính
tập trung hoá cao thể hiện ở việc tập
trung hoá các tài khoản. Để sử dụng
đựơc nhiều dịch vụ ngân hàng khách
hàng chỉ phải mở một tài khoản tại
ngân hàng. Việc tập trung hoá tài
khoản giúp khách hàng sử dụng dịch

vụ ngân hàng hiện đại một cách tiện
lợi, có thể giao dịch tại nhiều địa điểm
khác nhau, giảm thời gian và chi phí
giao dịch.
3. Sự cần thiết phát triển DVNHHĐ của NHTM ở Việt Nam
3.1 Những lợi ích của việc phát triển DVNHHĐ
Như chúng ta đã biết dịch vụ ngân hàng là một dấu hiệu cho thấy trình độ phát triển
của một quốc gia. Do vậy việc phát triển dịch vụ ngân hàng và đặc biệt trong xu thế
quốc tế hoá hiện nay việc phát triển DVNHHĐ có ý nghĩa cực kỳ to lớn, không những
mang lại lợi ích cho ngân hàng mà còn đem đến lợi ích to lớn cho nền kinh tế và mỗi
khách hàng của ngân hàng.

Một là: đối với nền kinh tế và khách hàng:
Thông qua các dịch vụ tài chính mà ngân hàng cung cấp đã thực hiện quá trình chu
chuyển tiền tệ cho nền kinh tế, khai thác và sử dụng các nghiệp vụ trở nên hiệu quả hơn.
Tiền tệ được vận động luân chuyển trong không gian và thời gian để sinh lời từ đó các
khoản tiền nhàn rỗi trong dân cư trở thành các khoản đầu tư di chuyển từ nơi này đến
nơi khác, từ khách hàng này sang khách hàng khác phục vụ sản xuất kinh doanh đầu tư,
nhu cầu vốn cho nền kinh tế xã hội, kích thích và thúc đẩy sản xuất phát triển góp phần
thực hiện công nghiệp hoá- hiện đại hoá nền kinh tế đất nước.
Dịch vụ tài chính ngân hàng góp phần tích cực trong việc mang lại lợi ích chung cho
nền kinh tế, cho khách hàng và cho ngân hàng. Đặc biệt hiện nay với sự phát triển của
công nghệ thông tin hiện đại và sự phát triển không ngừng của thương mại điện tử thì
việc phát triển các DVNH càng đem lại nhiều lợi ích to lớn cho nền kinh tế và khách
hàng: khách hàng được cung cấp các tiện ích, tiết kiệm được thời gian và chi phí giao
dịch, kiểm đếm,bảo quản vận chuyển tiền, tiết kiệm nhân lực đặc biệt làm tăng khối
lượng hàng hoá và giá trị giao dịch giữa các quốc gia nhờ sự phát triển của các DVNH
như: thanh toán điện tử, ngân hàng điện tử Qua đó khách hàng càng có nhiều cơ hội lựa
chọn sản phẩm dịch vụ có lợi nhất và hiệu quả nhất.
Hai là: Đối với ngân hàng:

Hiện nay phần lớn các NHTM Việt Nam hoạt động chủ yếu dựa trện các nghiệp vụ
tín dụng là chính, điều đó khiến cho hoạt động ngân hàng gặp nhiều rủi ro, bị động phụ
thuộc vào khách hàng Với xu hướng ngày nay việc phát triển dịchvụ ngân hàng hiện
đại khiến cho danh mục dịch vụ của ngân hàng trở nên đa dạng, thu hút được nhiều
khách hàng, đem lại cho ngân hàng một khoản thu lớn từ chi phí dịch vụ và hoa
hồng từ đó giúp cho ngân hàng phân tán đựơc rủi ro, tăng khả năng cạnh tranh trên thị
trường.
3.2 Phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại là một xu thế tất yếu bởi quá trình hội
nhập kinh tế khu vực và toàn cầu hoá cũng như sự tăng giảm môi truờng cạnh tranh
của ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay
Cuối thập kỷ 90 của thế kỷ 20 và những năm đầu của thế kỷ 21, kinh tế Việt Nam có
sự chuyển biến sâu sắc, đặc biệt được đánh dấu bởi sự gia nhập kinh tế khu vực và toàn
cầu: đó là việc gia nhập khối ASEAN, APEC, kí kết hiệp định thương mại Việt Mĩ và

sắp tới là tổ chức thương mại thế giới WTO. Các cam kết trong quá trình hội nhập có
ảnh hưởng và tác động tới mọi ngành, mọi lĩnh vực trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt
là lĩnh vực tài chính ngân hàng, một lĩnh vực nhạy cảm nhất.
Xuất phát từ nhu cầu của nền kinh tế trong giai đoạn hội nhập đòi hỏi đáp ứng nhu
cầu về các dịch vụ ngân hàng tài chính ngày càng phong phú hơn, yêu cầu ngân hàng
ngày càng phải cung cấp dịch vụ ngân hàng hiện đại mới có thể đáp ứng được nhu cầu
vê tài chính của cá nhân, tổ chức kinh tế trong và ngoài nước trong quá trình phát triển
kinh tế. Mặt khác hiện nay hầu như ngân hàng nào cũng cung cấp các DVNHTT với
những tiện ích khá giống nhau và sự chênh lệch giá cả là không đáng kể, hơn nữa mức
độ rủi ro ở lĩnh vực DVNHTT là rất cao. Vì vậy để tạo vị thế cạnh tranh trên thị trường,
phân tán rủi ro, tăng thu nhập trong hoàn cảnh hiện nay là rất khó khăn. Với các
DVNHHĐ của mình các ngân hàng có thể tạo ra được sự khác biệt với đối thủ cạnh
tranh từ đó có thể thu hút nhiều khách hàng, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Hơn nữa cùng với quá trình hội nhập là sự tham gia ngày càng nhiều của các tổ chức
tài chính, ngân hàng nước ngoài. Trước đối thủ cạnh tranh vừa mạnh vừa nhiều các
ngân hàng thương mại Việt Nam buộc phải xác định được chỗ đứng của mình đối với

mỗi khách hàng bằng việc cung cấp ngày càng nhiều các sản phẩm ngân hàng hiện đại
nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng.
Quá trình hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu càng khiến cho môi trường cạnh tranh
của ngân hàng thương mại thay đổi. Đối thủ cạnh tranh của mỗi ngân hàng không chỉ là
ngân hàng trong nước mà còn các tổ chức tài chính ngân hàng nước ngoài. Khi các tổ
chức ngân hàng tài chính nước ngoài thâm nhập vào thị trường Việt Nam Nam sẽ không
sử dụng các DVNHTT để cạnh tranh với các ngân hàng Việt Nam mà sử dụng các
DVNHHĐ.Vì vậy không khí cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại càng trở nên
gay gắt để có được chỗ đứng trên thị trường. Do đó, để có đựơc vị thế cạnh tranh trên
thị trường không có gì tốt hơn là việc phát triển các dịch vụ ngân hàng, nhất là các dịch
vụ ngân hàng hiện đại.
Tóm lại từ những lợi ích của việc phát triển dịch vụ ngân hàng đem lại cho nền kinh
tế, khách hàng và chính bản thân ngân hàng cũng như sự thay đổi môi trường cạnh tranh
do quá trình quốc tế hoá đem lại ta có thể thấy việc phát triển các dịch vụ ngân hàng
hiện đại là cần thiết và tất yếu. Các ngân hàng thương mại Việt Nam cần phải chú trọng

đến điều này để có thể đạt được các mục đích sau khi đưa ra các chính sách phát triển
dịch vụ.
Thứ nhất: xác định được vị thế cạnh tranh trên thị trường để xác định được đâu là
đoạn thị trường mình cần tham gia, xác định hình ảnh uy tín với khách hàng và biết
được đâu là đoạn thị trường cần phải từ bỏ nếu đối thủ cạnh tranh mạnh hơn hẳn mình.
Thứ hai: Cung cấp nhiều tiện ích, thoả mãn tối đa nhu cầu khách hàng.
Thứ ba: Giảm chi phí, tăng doanh thu và thu nhập từ phí dịch vụ và hoa hồng
Thứ tư: Tăng tiềm lực tài chính quốc gia cho nền kinh tế thông qua việc đóng góp
của ngân hàng vào ngân sách quốc gia (nộp thuế, trích lập các quỹ tương trợ cho xã hội)
4. Các dịch vụ ngân hàng hiện đại
Căn cứ vào khái niệm , các tiêu chí để phân biệt đâu là DVNHHĐ và phạm vi
nghiên cứu của chuyên đề nên bài viết sẽ tập trung vào các DVNHHĐ như: Nhóm dịch
vụ thanh toán trong nước với các công cụ và phương thức thanh toán hiện đại; Nhóm
dịch vụ ngân hàng điện tử

4.1 Nhóm dịch vụ thanh toán
Thanh toán là một khâu trong quá trình chu chuyển vốn . Thanh toán nhanh chóng,
chính xác, an toàn sẽ tạo điều kiện thúc đẩy quá trình chu chuyển vốn tăng vòng quay
của vốn, giảm lượng tiền cần thiết trong lưu thông, tiết kiệm chi phí cho xã hội …Xét
trên giác độ là khách hàng thì khách hàng chỉ cần quan tâm đến việc ngân hàng cung
cấp những dịch vụ thanh toán gì? Các công cụ thanh toán nào? Chi phí cho một món
thanh toán cao hay thấp hoặc thời gian thanh toán nhanh hay chậm? Còn xét trên giác
độ là ngân hàng thì ngân hàng không chỉ quan tâm đến các vấn đề trên mà còn phải
quan tâm đến việc sẽ thực hiện thanh toán như thế nào để đạt được hiệu quả cao nhất.
Do đó khi xem xét các dịch vụ thanh toán hiện đại chúng ta sẽ xem xét trên cả
phương diện là các công cụ thanh toán và các phương thức thanh toán .Hiện nay một
điều dễ nhận thấy là cùng với sự bùng nổ của cách mạng khoa học kĩ thuật- công nghệ
và việc ứng dụng các thành tựu kĩ thuật hiện đại vào lĩnh vực thanh toán mà giờ đây bên
cạnh các công cụ,phương thức thanh toán truyền thống đã xuất hiện thêm các công cụ
và phương thức mới hiện đại, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tiết kiệm thời gian và chi phí
cho cả khách hàng lẫn ngân hàng

4.1.1 Các công cụ thanh toán
4.1.1.1 Các công cụ thanh toán truyền thống
Đây là các công cụ thanh toán đã ra đời từ rất lâu, việc sử dụng các công cụ này
mang tính chất thủ công là chính, khách hàng khi muốn sử dụng công cụ thanh toán nào
đều phải đảm bảo những điều kiện do ngân hàng đặt ra, đồng thời phải đến ngân hàng
nơi khách hàng mở tài khoản giao dịch để trực tiếp thực hiện giao dịch với ngân hàng .
Các công cụ thanh toán truyền thống có thể kể đến là:
Thanh toán bằng séc: Là lệnh của chủ tài khoản yêu cầu ngân hàng trích một số tiền
nhất định trên tài khoản của mình để trả cho người thị hưởng có tên trên séc hay ngươì
cầm tờ séc đó. Séc là hình thức lâu đời và được sử dụng rất phổ biến
Thanh toán bằng uỷ nhiệm chi: Là lệnh chi của chủ tài khoản được lập theo mẫu in
sẵn của ngân hàng , yêu cầu ngân hàng phục vụ mình trích tài khoản để trả cho người
thụ hưởng có tài khoản ở cùng một ngân hàng hay khác ngân hàng

Thanh toán bằng uỷ nhiệm thu: Là hình thức mà người bán sau khi giao hàng hoá
dịch vụ cho người mua sẽ xuất trình cho ngân hàng phục vụ mình những chứng từ được
quy định trong hợp đồng để nhờ thu hộ. Căn cứ vào nội dung các chứng từ gửi đến ngân
hàng nhờ thu mà phân thành 2 loại: nhờ thu phiếu trơn, nhờ thu kèm chứng từ
4.1.1.2 Công cụ thanh toán hiện đại
Một điểm khác biệt của công thanh toán hiện đại so với các công cụ thanh toán
truyền thống là các công cụ thanh toán này dựa trên trình độ công nghệ hiện đại, để sử
dụng được cần phải có các thiết bị điện tử hỗ trợ, các thông tin đều phải được mã hoá.
Điển hình phải kể đến thẻ thanh toán :
Thẻ thanh toán là một công cụ thanh toán do ngân hàng phát hành và bán cho khách
hàng sử dụng để trả tiền hàng hoá, dịch vụ,các khoản thanh toán khác và rút tiền mặt tại
các ngân hàng đại lý hay các quầy trả tiền tự động
Đây là một phương tiện hiện đại vì nó gắn với kĩ thuật tin học hiện đại ứng dụng
trong lĩnh vực ngân hàng. Nhờ sự phát triển của công nghệ tin học mà các loại thẻ từ và
thẻ điện tử ra đời:
Thẻ từ: là loại thẻ dùng kĩ thuật băng từ để ghi và đọc thông tin trên thẻ

Thẻ điện tử: là thẻ có gắn bộ nhớ vi điện tử trên thẻ, ghi và đọc thông tin qua bộ
nhớ vi điện tử
Thẻ thanh toán được trình bày dưới dạng “thẻ nhựa”. Các dữ liệu về khách hàng đều
được mã hoá, do vậy để có thể sử dụng được thẻ và thực hiện được các giao dịch ngân
hàng phải trang bị các loại máy điện tử như: Máy rút tiền tự động( ATM), máy kiểm tra
thẻ…
Căn cứ theo nguồn vốn để thanh toán có 3 loại thẻ:
*) Thẻ thanh toán không phải kí quỹ thanh toán
Người sử dụng thẻ không phải trích từ tài khoản tiền gửi hay nộp tiền mặt để kí gửi
vào tài khoản tiền gửi đảm bảo thanh toán thẻ. Giữa ngân hàng và người sử dụng thẻ
thoả thuận với nhau để xây dựng hạn mức của thẻ. Loại thẻ này được áp dụng cho
những khách hàng có quan hệ tín dụng, thanh toán tốt và thường xuyên có tín nhiệm với
ngân hàng

*) Thẻ kí quỹ thanh toán: Là loại thẻ áp dụng rộng rãi cho khách hàng . Khách hàng
phải kí gửi tiền vào một tài khoản riêng tại ngân hàng và được sử dụng thẻ có giá trị
thanh toán bằng số tiền kí quỹ ghi trong thẻ đã lưu ký.
*) Thẻ tín dụng: Là loại thẻ vừa được dùng để thanh toán vừa cho vay trong phạm vi
giới hạn thoả thuận giữa bên phát hành thẻ và bên sử dụng thẻ. Đây là hình thức thanh
toán hiện đại, thể hiện sự phát triển của 1 nền khoa học tiên tiến. Vì vậy các loại thẻ
phải được kí hiệu mật mã cẩn thận và khi thanh toán cũng đòi hỏi kiểm tra mật mã và
quy định về an toàn kĩ thuật của ngân hàng
Hiện nay ở Việt Nam đáng chú ý là thẻ ATM, một loại thẻ được sử dụng để rút tiền
tự động và thực hiện một số giao dịch khác tại các máy ATM. Trên thẻ có ghi tên khách
hàng, số hiệu thẻ và một bộ nhớ vi điện tử. Khách hàng được cung cấp một số PIN
riêng. Đây là một công cụ thanh toán hiện đại đem lại rất nhiều lợi ích cho khách hàng
và ngân hàng
Sử dụng các loại thẻ trong thanh toán vừa tiết giảm chi phí, công sức thời gian cho
người bán, người mua, giảm được tỉ lệ thanh toán bằng tiền mặt trong dân cư, đồng thời
nó cũng đòi hỏi công nghệ ngân hàng phải luôn hoàn thiện, trình độ quản lý cao hơn và

phức tạp hơn cũng như quản lý phải chặt chẽ linh hoạt vừa đảm bảo cho ngân hàng vừa
đảm bảo cho khách hàng.
4.1.2. Các phương thức thanh toán
Cùng với sự ra đời của các công cụ thanh toán và trình độ phát triển công nghệ tin
học hiện đại mà các phương thức thanh toán cũng ngày càng trở nên hiện đại và hoàn
thiện hơn, làm tăng quy mô thanh toán và phạm vi thanh toán giữa các ngân hàng
Tuỳ theo trình độ phát triển và đặc điểm tổ chức của các ngân hàng trong từng thời
kỳ mà người tăng quy định và thực hiện các phương thức thanh toán khác nhau. Hiện
nay có các phương thức sau:
1) Thanh toán liên hàng tại các ngân hàng thương mại
2) Thanh toán bù trừ
3) Thanh toán qua tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nuớc
4) Hai chi nhánh mở tài khoản tiền gửi cho nhau để thanh toán

5) Phương thức thanh toán uỷ nhiệm thu hộ, chi hộ giữa 2 ngân hàng
6) Thanh toán điện tử liên ngân hàng
Trong phạm vi nghiên cứu của bài viết sẽ tập trung vào phương thức 1), 6) bởi lẽ đây
là những phương thức rõ nét nhất thể hiện sự tiến bộ trong lĩnh vực thanh toán của ngân
hàng . Nhờ đó ngân hàng ngày càng cung cấp cho khách hàng nhiều dịch vụ thanh toán
và các DVNHHĐ khác trên cơ sở ứng dụng những tiến bộ của công nghệ tin học trong
lĩnh vực thanh toán; qua đó tăng tốc độ , quy mô thanh toán;giảm thiểu chi phí, thời
gian ; tăng tỉ lệ thanh toán không dùng tiền mặt trong dân cư…
a) Thanh toán liên hàng tại các ngân hàng thương mại( TTLH)
Là phương thức thanh toán vốn giữa các chi nhánh ngân hàng trong cùng hệ thống.
Thực chất của TTLH là việc chuyển tiền từ ngân hàng này đến ngân hàng kia để phục
vụ thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ khi cả hai khách hàng này không cùng mở tài khoản
ở một ngân hàng, hoặc chuyển cấp vốn, điều hoà vốn trong nội bộ một hệ thống ngân
hàng

Tham gia vào quá trình TTLH gồm toàn bộ các đơn vị ngân hàng được NHTMTW
hoặc ngân hàng tỉnh chỉ định. Mỗi đơn vị này được coi là một đơn vị liên hàng có tên
riêng và được kí hiệu bằng một số hiệu riêng
TTLH gồm hai nghiệp vụ cơ bản: liên hàng đi và liên hàng đến. liên hàng đi là khâu
mở đầu phát sinh nghiệp vụ thanh toán do ngân hàng khởi tạo thực hiện( ngân hàng A) ;
liên hàng đến là khâu kết thúc nghiệp vụ thanh toán do ngân hàng thực hiện nghiệp vụ
thực hiện( ngân hàng B)
Việc kiểm soát đối chiếu liên hàng của NHTMTW theo phương pháp: tổ chức kiểm
soát tập trung đối chiếu phân tán . Tức là ngân hàng A chuyển 1 liên giấy báo liên hàng
cho ngân hàng B đồng thời ngân hàng A chuyển 1 liên giấy báo liên hàng cho trung
tâm kiểm soát, lập sổ đối chiếu và trung tâm kiểm soát đối chiếu gửi sổ đối chiếu cho
ngân hàng B
Do sự phát triển của kĩ thuật công nghệ tin học ngày càng hiện đại nên phương thức
thanh toán liên hàng truyền thống đã được phát triển thành thanh toán liên hàng điện tử.
Đây là phương thức mới ở Việt Nam đang được một số ngân hàng thực hiện như: Ngân

hàng Ngoại thương, Ngân hàng Công thương, Ngân hàng Đầu tư và phát triển( ở
NHĐT&PT gọi là thanh toán tập trung)…Thanh toán liên hàng điện tử đáp ứng yêu cầu
thanh toán nhanh giữa các Ngân hàng trong cùng hệ thống ở các địa phương khác nhau
Thanh toán liên hàng điện tử khác so với thanh toán liên hàng truyền thống ở chỗ:
+ Về tài khoản sử dụng: ở thanh toán liên hàng truyền thống mở nhiều tài khoản
dùng trong thanh toán , nhưng ở thanh toán liên hàng điện tử chỉ mở một tài khoản hạch
toán cả bảng kê đi và bảng kê đến
+ Về phương thức kiểm soát đối chiếu: Liên hàng truyền thống thực hiện kiểm soát
tập trung đối chiếu phân tán, phản ánh và thực hiện quyết toán liên hàng hàng năm. Còn
ở thanh toán liên hàng điện tử như thanh toán tập trung ở ngân hàng ĐT&PT thì tổ
chức kiểm soát tập trung, đối chiếu tập trung và đối chiếu đúng tất cả các bảng kê đi và
đến trong ngày
Thanh toán tập trung qua ngân hàng trung ương thực chất là chuyển tiền điện tử qua
tài khoản tiền gửi của chi nhánh tại trung tâm thanh toán. Trình tự thủ tục hạch toán kế
toán trong thanh toán điện tử giao dịch qua mạng vi tính. Các chi nhánh tham gia thanh

toán phải mở tài khoản tiền gửi tại trung ương để phản ánh các khỏn chuyển tiền đi và
nhận đến qua thanh toán
Chứng từ gốc làm căn cứ để chuyển đổi sang chứng từ điện tử như uỷ nhiệm chi, uỷ
nhiệm thu được lưu lại ngân hàng gửi lệnh. Chứng từ hạch toán trong thanh toán tập
trung được lập bằng máy theo mẫu thống nhất phải có đủ 2 điều kiện là có tính kí hiệu
mật hoặc kiểm tra ký hiệu mật và được mã hoá hoặc giải mã qua đường truyền.
Muốn thực hiện được thanh toán điện tử đòi hỏi chi nhánh tham gia phải có đầy đủ
các điều kiện về kỹ thuật nghiệp vụ như mạng máy vi tính cục bộ, điện dự phòng, khả
năng truyền thông, cán bộ kĩ thuật, cán bộ nghiệp vụ thì qua trình thanh toán mới được
thực hiện
Phương thức này có nhiều ưu điểm là nhanh chóng chính xác, tài khoản hạch toán
giản đơn, quy trình thanh toán chặt chẽ . Mọi khoản chuyển tiền được thực hiện và đối
chiếu ngay trong ngày nên hạn chế tối đa những sai sót xảy ra
b) Thanh toán điện tử liên ngân hàng( TTĐTLNH)

Ngày 1/4/1997 Thủ tướng Chính phủ có Quyết định 196/TTg về việc cho phép ngân
hàng và các tổ chức tín dụng được sử dụng dữ liệu thông tin trên vật mang tin để làm
chứng từ kế toán
Ngày 22/10/1997 Thống đốc Ngân hàng Nhà nuớc đã ban hành Quyết định số
353/1997/QĐ NHNN về quy chế chuyển tiền điện tử
Ngày 21/3/2002 Thủ tướng chính phủ đã ban hành quyết định số 44/2002/qđ- TTg
cho phép các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán được sử dụng chứng từ làm chứng từ
kế toán để hạch toán và thanh toán vốn
Chứng từ điện tử là những chứng từ kế toán mà các yếu tố của nó được thực hiện
dưới dạng dữ liệu điện tử đã được mã hoá mà không có sự thay đổi trong quá trình
truyền qua mạng máy tính hoặc trên vật mang tin như băng từ, đĩa từ, các loại thẻ thanh
toán. chứng từ điện tử phải có đủ các yếu tố quy định cho chứng từ kế toán, đảm bảo
tính pháp lý của chứng từ kế toán, phải được mã hoá bảo đảm an toàn trong qua trình xử
lý truyền tin và lưu trữ. Trên chứng từ phải có đủ các chữ ký điện tử của những người
có liên quan theo quy định

Từ cơ sở pháp lý trên hệ thống chuyển tiền điện tử ra đời và đến 2/05/2002 hệ thống
“Thanh toán điện tử liên ngân hàng” chính thức đi vào hoạt động đưa lĩnh vực dịch vụ
của ngân hàng sang một bước phát triển mới
Đây là hệ thống hiện đại được thiết kế theo chuẩn mực quốc tế, là hệ thống tổng thể
bao gồm 2 phân hệ:
+ Hệ thống TTĐTLNH : Hệ thống này xử lý thanh toán những khoản thuộc luồng có
giá trị cao ( là những khoản có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên và những lệnh chuyển
tiền khẩn). Lệnh thanh toán thuộc luồng giá trị cao được thực hiện quyết toán tổng tức
thời tại Trung tâm thanh toán quốc gia. Sau khi người phê duyệt thực hiển duyệt lệnh ,
nếu tài khoản tại Trung tâm thanh toán quốc gia đủ số dư, hệ thống sẽ tự động xử lý và
hạch toán ghi Nợ TK đơn vị trả đồng thời ghi Có TK đơn vị nhận. Việc thực hiện hạch
toán rất nhanh chóng chính xác trong khoảng 10 giây. Nếu lệnh thanh toán quá số dư sẽ
được thực hiện thấu chi theo quy định của Thống đốc
+ Hệ thống TTBT điện tử liên ngân hàng : Đây là hệ thống xử lý các luồng thanh

toán giá trị thấp( dưới 500 triệu đồng và lệnh thanh toán thường) và được thực hiện theo
phương thức quyết toán bù trừ theo phiên.Mỗi đơn vị thanh toán phải có đủ số dư trên
tài khoản tiền gửi thanh toán hoặc phải đảm bảo hạn mức nợ ròng theo quy định của
Ngân hàng Nhà nuớc . Những lệnh thanh toán có đủ số dư hoặc đủ hạn mức nợ ròng
được thực hiện và chuyển ngay cho đơn vị thụ hưởng. Việc quyết toán vốn giữa các
ngân hàng thành viên không diễn ra đồng thời cùng lúc lệnh thanh toán, mà nó được
thực hiện vào những thời điểm nhất định bằng phương thức bù trừ để tổng hợp số phải
thu hoặc phải trả cho từng thành viên. Kết quả bù trừ sẽ được hạch toán vào tài khoản
tiền gửi thanh toán của các thành viên tương ứng mở tại Sở giao dịch Ngân hàng Nhà
nuớc
Như vậy với sự ra đời của TTĐTLNH thời gian thanh toán được rút ngắn gấp trăm
lần so với thanh toán thủ công. Về phía khách hàng được hưởng rất nhiều lợi ích từ dịch
vụ này, trong đó có phí dịch vụ thanh toán .Tuy nhiên để cung cấp cho khách hàng
nhiều tiện ích hơn nữa từ dịch vụ thanh toán thì vẫn còn rất nhiều vấn đề đặt ra đối với
ngành ngân hàng và các ngành hữu quan cần giải quyết: đầu tư cơ sở vật chất đồng bộ,
hoàn thiện cơ chế chính sách trong thanh toán ….
4.2 Nhóm dịch vụ ngân hàng điện tử( DVNHĐT)

Ngân hàng điện tử được hiểu là mô hình cho phép khách hàng truy cập từ xa đến
ngân hàng nhằm thu thập thông tin; thực hiện các giao dịch thanh toán, sử dụng các dịch
vụ dựa trên các tài khoản lưu kí tại ngân hàng thông qua các phương tiện điện tử và kĩ
thuật số. Ngân hàng điện tử là dịch vụ ngân hàng dựa trên cơ sở ứng dụng công nghệ
thông tin hiện đại vào tổ chức cung ứng dịch vụ ngân hàng . Cơ chế hoạt động của ngân
hàng điện tử mang tính độc lập . ở Việt Nam hiện nay các dịch vụ ngân hàng điện tử
mới xuất hiện đang trong giai đoạn thử nghiệm, tuy nhiên cũng đã có một số những kết
quả nhất định, cho thấy xu hướng phát triển rộng rãi dịch vụ ngân hàng điện tử trong
tương lai. Có thể kể đến 1 số dịch vụ ngân hàng điện tử sau:
4.2.1 DVNHĐT qua hệ thống máy rút tiền tự động( ATM- Automatic Teller Machine)
Đối với các nước phát triển đây không còn là dịch vụ mới nhưng ở Việt Nam dịch vụ
này vẫn còn rất xa lạ với công chúng. Có thể hiểu dịch vụ ATM là các dịch vụ ngân

hàng cá nhân mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng thông qua thẻ ATM tại các máy rút
tiền tự động ATM. Khi sử dụng dịch vụ này khách hàng sẽ tự thực hiện các giao dịch ngân
hàng tại máy ATM.
Các ngân hàng khi cung cấp dịch vụ này đòi hỏi phải có sự đầu tư trang thiết bị kĩ
thuật hiện đại: đó là hệ thống máy, hệ thống mạng cục bộ tốc độ cao, từ đó cung cấp cho
khách hàng các tiện ích như:
- Phát hành nhanh, phát hành thông thường
- Phát hành các loại thẻ với những phí và hạn mức giao dịch rút tiền từ ATM khác
nhau
- Vấn tin, in sao kê tài khoản tiền gửi
- Rút tiền mặt, chuyển khoản, chuyển tiền cá nhân, nộp tiền vào tài khoản
- Xem thông tin ngân hàng , thanh toán hoá đơn
- Yêu cầu in sao kê tài khoản , yêu cầu phát hành séc
Ưu, nhược điểm khi sử dụng dịch vụ ATM như sau:
Ưu điểm Nhược điểm
Các
ngân
- Giảm chi phí in ấn các loại giấy tờ
- Mở rộng cơ sở cho hoạt động ngân hàng ,
- Tăng chi phí lắp đặt,
vận hành

hàng đáp ứng nhu cầu thuận tiện cho khách
hang, tăng doanh số
- Tạo ưu thế cạnh tranh, tăng hình ảnh của
ngân hàng
- Giảm lượng tiền mặt được sử dụng
- Đe doạ sự an toàn
- Lỗi kĩ thuật hệ thống
- Mối quan hệ trực tiếp

giữa khách hàng và ngân
hàng bị hạn chế
Các
nhà
bán lẻ
-Tăng cường mối quan hệ với ngân hàng
- Giảm thời gian kiểm tra đối chiếu
- Lưu trữ thông tin về tài khoản nhanh hơn
- Tăng hình ảnh của nhà bán lẻ


Các
khách
hàng
-An toàn
- Tiết kiệm thời gian, chi phí
- Thuận tiện
- Các lỗi kĩ thuật có
thể gặp phải
Dịch vụ ATM đã được hầu hết các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam triển khai, và
đã khai thác được một số tiện ích nhất định của dịch vụ này. Từ dịch vụ ATM các ngân
hàng còn triển khai thêm dịch vụ trả lương tự động cho công nhân. Tức là ngân hàng sẽ
thực hiện hợp đồng với các công ty, mở tài khoản cho mỗi công nhân, cung cấp cho mỗi
công nhân một thẻ ATM. Khi đến kì hạch toán lương, các doanh nghiệp sẽ hạch toán rồi
gửi cho ngân hàng . Ngân hàng dựa trên đó, đến ngày sẽ trích tài khoản của công ty rồi
tự động đổ lương vào tài khoản của từng công nhân. Đây là dịch vụ rất thuận tiện cho
doanh nghiệp, như thế doanh nghiệp sẽ tiết kiệm rất nhiều thời gian, chi phí trong việc
trả lương, kiểm đếm, bảo quản tiền mặt mỗi công nhân được giữ bí mật về lương và
thưởng của mình, dộ an toàn cũng cao…
4.2.2 DVNHĐT qua điện thoại( Telephone banking)

Đây là loại hình dịch vụ mà giao dịch giữa ngân hàng và khách hàng được thực hiện
qua điện thoại. Thông qua các nhân viên trực hay thông qua các “ Hộp thư thoại” ngân
hàng cung cấp các thông tin về hoạt động của khách hàng như số dư tài khoản , sao kê
tài khoản , các thông tin về tỉ giá, lãi suất, thậm chí cả các thông tin có tính chất tư vấn
chi trả các phiếu chuyển tiền…
Đây là loại hình dịch vụ đang trở nên phổ biến ở các nước hiện đại, và cũng đang
dần phổ biến ở các NHTM Việt Nam

4.2.3 Dịch vụ ngân hàng tại nhà( Home Banking)
Khách hàng không cần rời khỏi nhà, văn phòng, cũng không cần phải đến ngân hàng
mà vẫn thực hiện được các giao dịch. Hệ thống này dựa trên cơ sở khách hàng có tài
khoản tại ngân hàng , có máy tính cá nhân nối mạng với ngân hàng và đăng kí với ngân
hàng để được cấp mã số truy nhập và mật khẩu.Khách hàng có thể truy cập vào máy chủ
ngân hàng thực hiện các giao dịch : trích chuyển tiền vào tài khoản, vay, chi trả hoá
đơn. Ngoài ra ngân hàng còn cung cấp các thông tin quảng cáo về hàng hoá dịch vụ, về
ngân hàng …
Dịch vụ này cũng đã được một số ngân hàng thương mại ở Việt Nam thực hiện, trong
đó có NHĐT&PTVN, tuy mới chỉ triển khai ở Hội sở chính, nhưng trong tương lai sẽ
triển khai ở toàn hệ thống
4.2.4 Dịch vụ ngân hàng qua mạng Internet (Internet- Banking)
Đây là loại hình dịch vụ ngân hàng ở cấp cao, sử dụng mạng Internet. Khách hàng
chỉ cần có một máy vi tính nối mạng Internet là có thể giao dịch được với ngân hàng mà
không cần phải đến ngân hàng . Mỗi trang chủ của ngân hàng trên Internet có thể được
xem là một cửa sổ giao dịch. Khách hàng có thể sử dụng rất nhiều các dịch vụ trực
tuyến do ngân hàng cung cấp như: vay, mua hợp đồng bảo hiểm, đầu tư chứng khoán,
mở tài khoản
Sử dụng dịch vụ này có rất nhiều ưu điểm là: độ chính xác cao, tốc độ giao dịch
nhanh, tiết kiệm được nhiều thời gian, khách hàng có thể giao dịch với ngân hàng
24/24h và từ khắp mọi nơi trên thế giới, ngân hàng cũng giảm được nhiều cho phí trong
việc phân phối các sản phẩm dịch vụ của mình Tuy nhiên dịch vụ cũng đòi hỏi tính

bảo mật cao, nếu bảo mật không tốt sẽ tổn hại lớn đối với cả khách hàng và ngân hàng .
5. Các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại:
Việc xác địng các nhân tố ảnh hưởng tới khả năng phát triển dịch vụ ngân hàng hiện
đại là việc rất quan trọng, nó giúp cho các ngân hàng xây dựng đựoc một chính sách
Marketing phù hợp để phát triển các sản phẩm dịch vụ của mình, đặc biệt là các sản
phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại. Các nhân tố có thể kể đến là:

5.1 Nhóm nhân tố ngoài ngân hàng thương mại
Đây là các nhân tố thuộc về môi trường vĩ mô và các nhân tố khác ngoài NHTM

5.1.1. Môi trường kinh tế:
Môi truờng kinh tế trước hết phản ánh tốc độ tăng trưởng kinh tế nói chung về cơ cấu
ngành kinh tế, cơ cấu vùng Môi trường kinh tế luôn có tác động mạnh mẽ đến nhu cầu
và cách thức sử dụng sản phẩm dịch vụ của ngân hàng của khách hàng. Tình hình và sự
thay đổi của các yếu tố thuộc môi trường kinh tế có tác động to lớn đến sự thay đổi kinh
tế nói chung và các hoạt động kinh doanh ngân hàng nói riêng, đặc biệt là sự phát triển
của các dịch vụ ngân hàng hiện đại. Hơn nữa với xu thế quốc tế hoá hiện nay khi tình
hình kinh tế thế giới biến động càng có ảnh hưởng tới hoạt động ngân hàng của từng
quốc gia. Một môi trưòng kinh tế thuận lợi, đang tăng trưởng, các biến số vĩ mô đều có
dấu hiệu tốt sẽ khiến cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng phát triển, từ đó khuyến
khích các ngân hàng thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, cung ứng ngày càng nhiều sản
phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại cho khách hàng. Và sẽ ngược lại đối với một nền kinh
tế kém phát triển, không ổn định.
5.1.2. Môi trưòng khoa học, kỹ thuật công nghệ
Đối với việc phát triển các sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại thì đây là một yếu tố
rất quan trọng. Bởi lẽ các dịch vụ ngân hàng hiện đại phát triển dựa trên cơ sở trình độ
khoa học công nghệ. Ngân hàng là một ngành rất quan tâm đến việc ứng dụng công
nghệ thông tin vào hoạt động kinh doanh. Ngày nay hoạt động của ngân hàng không thể
tách rời khỏi sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin. Thực tế công nghệ thông
tin ngày càng phát triển, điều đó cho phép ngân hàng đổi mới không chỉ quy trình

nghiệp vụ mà còn đổi mới cả cách thức phân phối, đặc biệt là phát triển dịch vụ ngân
hàng mới, hiện đại như sự phát triển của mạng lưới máy tính cho phép ngân hàng cung
cấp dịch vụ 24/24. Công nghệ thay đổi cũng luôn tạo ra những đòi hỏi mới về dịch vụ
ngân hàng như sự ra đời và phát triển của thương mại điện tử đã đặt ra yêu cầu mới cho
ngân hàng trong việc cung ứng dịch vụ thanh toán điện tử, dịch vụ ngân hàng điện tử.
Sự phát triển của công nghệ thông tin và của thương mại điện tử cũng kéo theo một
đòi hỏi về tính bảo mật an toàn của hệ thống mạng khi ngân hàng cung cấp các
DVNHHĐ. Một thực tế cho thấy hiện nay do cơ sở hạ tầng thông tin của Việt Nam còn
kém phát triển, độ bảo mật và an toàn chưa cao nên các NHTM Việt Nam vẫn còn nghi
ngại chưa dám đưa ra các DVNHĐT , khách hàng còn chưa tin tưởng vào ngân hàng. Vì

vậy đây cũng là một nhân tố quan trọng quyết định đến việc các NHTM có phát triển
các DVNHHĐ của mình hay không
Kỹ thuật công nghệ là sức mạnh mãnh liệt nhất của hoạt động kinh doanh ngân hàng.
Nhờ đó ngân hàng có thể cung cấp cho khách hàng của mình những sản phẩm kỳ diệu
như: chuyển tiền nhanh, rút tiền tự động ATM, ngân hàng tự động, ngân hàng
Internet và cũng nhờ đó mà ngân hàng có được một công cụ cạnh tranh hiệu quả.
5.1.3. Môi trường chính trị, pháp luật
Kinh doanh ngân hàng cũng là một trong những ngành chịu sự giám sát chặt chẽ của
pháp luật và các cơ quan chức năng của chính phủ. Hoạt động của ngân hàng thương
mại thường được hiệu chỉnh chặt chẽ bởi các quy định của pháp luật. Một môi trường
chính trị ổn định với các chính sách, quy định pháp luật phù hợp sẽ khiến cho hoạt động
kinh doanh của ngân hàng phát triển, tạo điều kiện phát triển các dịch vụ ngân hàng. ở
Việt Nam hiện nay các dịch vụ ngân hàng hiện đại mới ra đời và đang trong quá trình
thử nghiệm, ứng dụng vì vậy rất cần một chính sách khuyến khích hỗ trợ của Chính phủ
cũng như các quy định pháp luật hợp lý để phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại.
Các chính sách của Chính phủ cũng có tác động mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp, một đối tượng khách hàng lớn của ngân hàng, do đó sẽ có ảnh
hưởng lớn tới danh mục các dịch vụ ngân hàng cung cấp, đặc biệt là các dịch vụ ngân
hàng hiện đại.



5.1.4. Nhân tố khác
Có thể nói 3 nhân tố trên là những nhân tố vĩ mô có ảnh hưởng quan trọng nhất đến
việc phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại. Tuy nhiên bên cạnh đó khi phát triển dịch vụ
ngân hàng hiện đại các ngân hàng cũng phải chú ý đến các nhân tố khác như: môi
trường dân số, môi trường địa lý, môi trường văn hoá-xã hội,đối thủ cạnh tranh, khách
hàng của ngân hàng , các đơn vị hỗ trợ kinh doanh những nhân tố này cũng có tác
động không nhỏ tới hoạt động cung ứng và phát triển dịch vụ ngân hàng hiện đại của
các ngân hàng thương mại Việt Nam. Bởi lẽ các nhân tố trên cũng có ảnh hưởng to lớn

tới việc hình thành phát triển các kênh phân phối sản phẩm dịch vụ và tác động tới nhu
cầu, tâm lý thói quen của người sử dụng sản phẩm dịch vụ của ngân hàng.
Các nhân tố từ phía khách hàng của ngân hàng: Hoạt động của ngân hàng luôn
theo phương châm “Ngân hàng chỉ cung ứng, chỉ bán, chỉ phục vụ cái mà khách hàng
cần” Vì vậy sự thay đổi nhu cầu của khách hàng là yếu tố quyết định đến sự thay đổi
của chính sách cung cấp sản phẩm dịch vụ ngân hàng, nhất là trong thời đại ngày nay,
khách hàng là người quyết định đến danh mục các sản phẩm dịch vụ hiện đại mà ngân
hàng cung ứng.
ở Việt Nam nền kinh tế đang trong đà tăng trưởng, phát triển, đời sống người dân
ngày càng được cải thiện nâng cao hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra sôi nổi. Vì
vậy nhu cầu sử dụng các dịch vụ tài chính ngày càng tăng. Đặc biệt là vào cuối thế kỉ
20, những năm đầu thế kỉ 21 cùng với sự thay đổi của công nghệ ngân hàng mà nhiều
sản phẩm dịch vụ mới với công nghệ hiện đại đã ra đờiđáp ứng nhu cầu của khách
hàng. Ví dụ: Ngân hàng thương mại cổ phần Đông á vừa triển khai hệ thống xếp hàng
điện tử Queue Management System (QMS). Đây là hệ thống xếp hàng tự động và sử
dụng đơn giản mang lại nhiều tiện ích cho khách hàng; hay các NHTM cùng đồng loại
triển khai hệ thống rút tiền tự động ATM….
Sự gia tăng đối thủ cạnh tranh: Trong hoàn cảnh môi trường cạnh tranh ngày càng
găy gắt đối thủ cạnh tranh ngày càng nhiều ( không chỉ có đối thủ cạnh tranh ở trong

nước mà còn có đối thủ cạnh tranh nước ngoài) ngân hàng không thể không quan tâm
theo dõi hoạt động của đối thủ cạnh tranh để đưa ra các chính sách phát triển sản phẩm
dịch vụ của mình. Cạnh tranh buộc các NHTM phải sử dụng việc phát triển các sản
phẩm dịch vụ, đặc biệt là các DVNHHĐ làm vũ khí để nâng cao vị thế cạnh tranh trên
thị trường. Cạnh tranh càng gay gắt ngân hàng càng cung cấp nhiều dịch vụ hiện đại cả
về quy mô lẫn chất lượng thoả mãn ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng .
Các đơn vị hỗ trợ kinh doanh cho hoạt động ngân hàng : ở đây phải kể đến các
đơn vị có quan hệ với ngân hàng trong hoạt động kinh doanh như tuyên truyền, quảng
cáo, tin học, cung cấp án chỉ, phương tiện kĩ thuật…Đây là nhân tố khá quan trọng tác
động tới việc phát triển sản phẩm DVNHHĐ. Ngân hàng rất cần các đơn vị hỗ trợ này
để đưa ra được những sản phẩm mới, trang thiết bị kĩ thuật hỗ trợ và xây dựng hình ảnh

×