Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

LUẬN VĂN: Giải pháp phát triển Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam thành tập đoàn tài chính pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 89 trang )





LUẬN VĂN:

Giải pháp phát triển Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển Việt Nam thành tập
đoàn tài chính








MỞ ĐẦU

1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Có thể nói, hình thành và phát triển các Tập đoàn Tài chính - Ngân hàng là xu
hướng phát triển rất mạnh từ nhiều thập kỷ qua trên thế giới. Trong bối cảnh hội nhập kinh
tế quốc tế, Việt Nam không thể tách rời xu thế chung đó.
Tại Việt Nam, từ khi hình thành hệ thống ngân hàng hai cấp, hoạt động kinh doanh
tiền tệ, tín dụng đã được chuyển sang các Tổ chức Tín dụng (TCTD) theo hướng chuyên
môn hóa, đa dạng hóa. Nhờ đó, các TCTD trưởng thành khá nhanh chóng, nhất là các
Ngân hàng Thương mại (NHTM) Nhà nước và NHTM cổ phần. Phần lớn các NHTM đã
chú trọng tăng vốn, đổi mới trang thiết bị, nâng cao năng lực quản trị điều hành và chất
lượng nguồn nhân lực nhằm mở rộng qui mô và loại hình dịch vụ, từng bước tăng cường
năng lực cạnh tranh. Nhờ đó, thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam đã và đang ngày càng
mở cửa sâu, rộng với khu vực và quốc tế theo các cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại


Thế giới (WTO).
Tuy nhiên, so với các NHTM nước ngoài, hệ thống NHTM Việt Nam còn yếu kém
về nhiều mặt như nguồn vốn, kinh nghiệm quản lý, kinh doanh, công nghệ, kỹ thuật, chất
lượng và loại hình dịch vụ, cũng như khả năng chống đỡ rủi ro. Điều này đòi hỏi mỗi
NHTM phải có định hướng và giải pháp thích hợp để phát triển, nâng cao năng lực cạnh
tranh, làm chủ được thị trường tài chính trong nước và vươn ra thị trường nước
ngoài.Trong đó, việc hình thành những ngân hàng lớn, hoạt động đa năng, có khả năng
thích ứng trước những thay đổi nhanh chóng trong thế giới hiện đại đã và đang trở thành
một nhu cầu bức xúc và một xu thế tất yếu.
Là một người đang công tác trong lĩnh vực tài chính, với mong muốn NHTM Việt
Nam nói chung và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) nói riêng ngày càng
phát triển và lớn mạnh thành những tập đoàn tài chính-ngân hàng có tầm cỡ quốc tế hòa
mình vào dòng chảy của thế giới, tôi mạnh dạn nghiên cứu và thực hiện luận văn với đề
tài: “Giải pháp phát triển Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam thành tập đoàn
tài chính”.


2. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đề tài nghiên cứu tổng quan những lý luận cơ bản về tập đoàn tài chính-ngân hàng
và tham khảo kinh nghiệm một số mô hình tập đoàn tài chính-ngân hàng trên thế giới.
Phân tích thực trạng hoạt động của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Đánh
giá những cơ hội và thách thức của BIDV sau khi trở thành tập đoàn tài chính-ngân hàng
và đưa ra các giải pháp góp phần hình thành tập đoàn tài chính-ngân hàng của BIDV. Các
giải pháp đề xuất được cân nhắc và trình bày mang tính định hướng ở tầm quản lý vĩ mô
và vi mô.
3. PHẠM VI VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu thực trạng hoạt động của BIDV và những kinh nghiệm của một số tập
đoàn tài chính-ngân hàng thế giới từ đó đưa ra các giải pháp thích hợp vận dụng vào tình
hình thực tế của BIDV.
Phương pháp nghiên cứu được vận dụng trong đề tài bao gồm phương pháp hệ

thống so sánh, phân tích, khái quát cụ thể, thu thập và xử lý số liệu từ đó đề xuất các giải
pháp nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra trong đề tài.
4. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
Luận văn dựa trên thực trạng tình hình hoạt động của BIDV. Từ đó đi sâu vào phân
tích những cơ hội và thách thức và đưa ra các giải pháp để BIDV hình dung được hướng
phát triển thành một tập đoàn tài chính-ngân hàng trong thời gian ngắn nhất.
Do thời gian nghiên cứu và kiến thức còn hạn hẹp, học viên không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Rất mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của quý Thầy, Cô
để học viên điều chỉnh, hoàn thiện luận văn và mở rộng kiến thức của mình trong công tác
nghiên cứu sau này.



CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TẬP ĐOÀN TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG

1.1 Khái niệm về tập đoàn Tài chính - ngân hàng
1.1.1 Khái niệm Tập đoàn kinh tế
Để đi đến khái niệm về Tập đoàn tài chính – ngân hàng, trên góc độ kinh tế Tập
đoàn tài chính – ngân hàng là một tập đoàn kinh tế. Do vậy, trước hết luận văn nghiên cứu
về khái niệm tập đoàn kinh tế (TĐKT).
Trên thế giới, khái niệm TĐKT đã xuất hiện rất sớm cùng với quá trình tích tụ và
tập trung tư bản từ nửa cuối thế kỷ XIX khi nền sản xuất hàng hóa thế giới phát triển mạnh
mẽ nhờ sự tác động trực tiếp của cuộc cách mạng công nghiệp ở các nước Tây Âu và Bắc
Mỹ. Để tồn tại, cạnh tranh và phát triển trong bối cảnh này, nhiều công ty, doanh nghiệp
đã tự nguyện liên minh, liên kết lại với nhau để cùng khai thác, phân chia thị trường và tận
dụng những tiềm năng riêng của từng công ty. Ngược lại cũng có những công ty bị chèn
ép, thôn tính, mua lại. Quá trình này đã hình thành các liên minh, các tập đoàn được gọi là
“cartel”, “Association”, “Conglomerate”, “Group”… Nói chung là có nhiều cách gọi khác
nhau nhưng khi dịch ra tiếng Việt thông thường ta vẫn gọi chúng là tập đoàn với ý nghĩa
chủ đạo là các liên minh, liên kết nhóm cùng thỏa thuận tuân thủ một số nguyên tắc điều

chỉnh chung như phối hợp chiến lược, góp vốn, cung ứng sản phẩm, phân chia chiếm lĩnh
thị trường; thống nhất phương thức, nguyên tắc kiểm soát nội bộ… Trong một tập đoàn
thường có một công ty đóng vai trò trung tâm, nó có thể là một công ty mẹ theo đúng
nghĩa (nắm giữ vốn tại các công ty con, công ty liên kết) hoặc một công ty “thương hiệu”
trung tâm có khả năng chi phối, hỗ trợ các công ty trong cùng tập đoàn trong quá trình
cạnh tranh và phát triển.
Các loại hình TĐKT phổ biến trên thế giới hiện nay là tập đoàn công nghiệp, tập
đoàn thương mại dịch vụ, tập đoàn tài chính- ngân hàng, tập đoàn tài chính công
nghiệp…v.v. Mặc dù có nhiều loại hình khác nhau nhưng nhìn chung các tập đoàn kinh tế
là một cấu trúc có tính lỏng về tổ chức và pháp lý nhưng có quan hệ chặt chẽ về chiến lược
thị trường, chiến lược phát triển, về thương hiệu và luân chuyển vốn. Tập đoàn có thể được

hình thành thông qua hoạt động thôn tính, sát nhập, hợp nhất, mua lại hoặc qua hoạt động
liên minh, liên kết một cách tự nguyện. Chỉ các công ty trong tập đoàn có tư cách pháp
nhân độc lập chứ Tập đoàn không có tư cách pháp nhân riêng. Nhìn chung các nước không
có luật về tập đoàn kinh tế (ngoại trừ trường hợp tập đoàn tài chính-ngân hàng); việc hình
thành các TĐKT là tự nguyện, không phải do một mệnh lệnh hành chính của Nhà nước
công bố để thành lập. Sự ra đời của các TĐKT là quá trình phát triển tự nhiên do đòi hỏi
của thực tiễn cạnh tranh, quá trình phát triển của lực lượng sản xuất và nhu cầu thị trường.
Sự hình thành của tập đoàn dựa trên nguyên tắc tự nguyện miễn là hoạt động và tổ chức
của mô hình này không trái với các nguyên tắc ứng xử chung của pháp luật và mang lại lợi
ích cho tập đoàn nói riêng và cho xã hội nói chung.
1.1.2 Khái niệm Tập đoàn tài chính – ngân hàng
Tập đoàn Tài chính – ngân hàng là loại hình tập đoàn kinh tế có cơ cấu tổ chức và
hoạt động mang tính chuyên sâu, đặc thù. Tập đoàn tài chính - ngân hàng là một thực thể
kinh tế gồm một số doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng và các
hoạt động khác có liên quan đến hoạt động tài chính - ngân hàng; mỗi thành viên tập đoàn
là những pháp nhân độc lập, trong đó có một doanh nghiệp làm nồng cốt. Giữa các doanh
nghiệp đó có mối liên kết nhất định để cùng nhau thực hiện một liên kết kinh tế có quy mô
lớn nhằm đạt được hiệu quả hoạt động tối đa.

Như thế, tập đoàn tài chính - ngân hàng, về mặt pháp lý, là một liên hợp pháp nhân;
Tổ chức tập đoàn gồm nhiều tầng lớp, với nguyên tắc tự nguyện và cùng có lợi. Điều này
có nghĩa là không cưỡng ép và không thể cứ “gom” các doanh nghiệp lại là có thể thành
lập tập đoàn kinh tế. Các thành viên trong tập đoàn tài chính - ngân hàng phải tạo điều kiện
hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau, cạnh tranh lành mạnh, cùng nhau chia sẻ nguồn lực nhằm giảm
các chi phí trong hoạt động, tăng cường sức mạnh và tận dụng tổng lực của tập đoàn để
ngăn ngừa và hạn chế rủi ro trong lĩnh vực hoạt động tài chính-tiền tệ đầy bất trắc.
Mục tiêu của việc hình thành tập đoàn Tài chính – ngân hàng là mở rộng quy mô
hoạt động và đổi mới công nghệ, giảm chi phí để có thể tồn tại trong cạnh tranh, từ đó đem
lại lợi nhuận tối đa cho tập đoàn.
1.2 Cơ cấu tổ chức và mô hình cơ bản của tập đoàn tài chính - ngân hàng

1.2.1 Cơ cấu tổ chức tập đoàn tài chính - ngân hàng
Cơ cấu tổ chức của tập đoàn tài chính - ngân hàng sẽ bao gồm: Công ty mẹ đóng vai
trò hạt nhân và các công ty con. Công ty mẹ có thực lực kinh tế mạnh, khống chế và điều
chỉnh vốn, tài sản, cơ cấu tổ chức, quản lý, nhân sự… ở công ty con. Mỗi công ty con được
phép thành lập công ty khác hoặc tham gia góp vốn, tài sản của mình vào công ty mới sau
khi được phép của công ty mẹ. Nguyên tắc cơ bản mỗi thành viên tập đoàn vẫn là những
pháp nhân độc lập với mục đích tạo ra lợi nhuận, mối quan hệ lẫn nhau mang nặng nội
dung là quan hệ tài chính.

1.2.2 Mô hình cơ bản của tập đoàn tài chính - ngân hàng
 Theo mức độ chuyên môn hóa
Các tập đoàn Tài chính – ngân hàng trên thế giới được phân thành 2 nhóm chính:
Nhóm tập đoàn chuyên ngành hẹp và nhóm tập đoàn đa ngành, kinh doanh tổng hợp. Các
tập đoàn Tài chính – ngân hàng chuyên ngành hẹp có mức độ chuyên môn hóa sâu, gồm
các công ty con hoạt động trong cùng lĩnh vực dịch vụ tài chính và liên kết chặt chẽ với
nhau nhằm khai thác thế mạnh trong kinh doanh dịch vụ Tài chính – Ngân hàng.
Đặc điểm của tập đoàn Tài chính – ngân hàng là lấy ngân hàng cỡ lớn làm hạt nhân
của tập đoàn để liên kết và khống chế các doanh nghiệp xung quanh bằng mối quan hệ

nắm giữ cổ phần, cho vay vốn và sắp xếp nhân sự.
Mô hình phổ biến nhất của tập đoàn Tài chính – ngân hàng là tổ chức theo kiểu
công ty mẹ– công ty con. Trong đó, công ty mẹ và công ty con đều có tư cách pháp nhân
độc lập, có tài sản và bộ máy quản lý riêng. Giao dịch giữa ngân hàng mẹ và các công ty
con hay giữa các công ty con trong cùng một tập đoàn là giao dịch bên ngoài, giao dịch thị
trường.
Đặc điểm của mô hình này là ngân hàng mẹ (holding company) sở hữu toàn bộ
hoặc một tỷ lệ nhất định vốn cổ phần trong các công ty con, đề ra chiến lược và định
hướng phát triển tổng thể của tập đoàn, đồng thời phân bổ nguồn lực của tập đoàn thông
qua các hoạt động tài chính như phát hành, mua bán chứng khoán, cơ cấu lại tài sản của
các công ty con. Ngoài ra, ngân hàng mẹ còn sử dụng vốn của mình để đầu tư, góp vốn cổ
phần, liên doanh, liên kết để hình thành các công ty con hoặc công ty liên kết.
Các công ty con là những pháp nhân độc lập, hoạt động tự chủ và tự chịu trách
nhiệm. Hình thức pháp lý của công ty con khá đa dạng, có thể là công ty cổ phần do ngân
hàng mẹ nắm giữ cổ phần chi phối; công ty TNHH 2 thành viên trở lên, trong đó ngân
hàng mẹ giữ tỷ lệ vốn góp chi phối; công ty liên doanh với nước ngoài do ngân hàng mẹ
nắm giữ tỷ lệ vốn góp chi phối; công ty TNHH một thành viên do ngân hàng mẹ là chủ sở
hữu.
 Theo tính chất và phạm vi hoạt động
Tập đoàn tài chính - ngân hàng kinh doanh theo mô hình công ty mẹ – công ty con
có hai loại: Mô hình công ty mẹ nắm vốn thuần túy và mô hình công ty mẹ vừa nắm vốn

vừa trực tiếp kinh doanh. Trên thực tế, không có sự tách bạch rõ ràng, nhiều tập đoàn kinh
doanh theo mô hình công ty mẹ – công ty con là hỗn hợp của hai loại hình trên. Tập đoàn
Tài chính – ngân hàng theo mô hình công ty mẹ – công ty con cũng hoạt động theo mô
hình hỗn hợp, trong đó ngân hàng mẹ vừa nắm vốn vừa trực tiếp kinh doanh một số công
ty con, đồng thời chỉ nắm vốn thuần túy một số công ty con khác.
Ngoài hoạt động kinh doanh ngân hàng, tập đoàn Tài chính – ngân hàng còn cung
cấp dịch vụ tài chính phi ngân hàng (do các công ty con thực hiện), những dịch vụ này liên
quan chặt chẽ với hoạt động ngân hàng và mang lại lợi ích chung cho tập đoàn.

 Một số cấu trúc tổ chức tập đoàn tài chính – ngân hàng trên thế giới
Hiện nay trên thế giới, tập đoàn tài chính – ngân hàng được xây dựng theo ba cấu
trúc tổ chức chủ yếu sau đây:
- Mô hình ngân hàng đa năng (universal banking)
Đây là mô hình tập đoàn phổ biến nhất ở Châu Âu. Các cổ đông của ngân hàng trực
tiếp quản lý mọi hoạt động kinh doanh ngân hàng, kinh doanh chứng khoán, kinh doanh
bảo hiểm, không có sự phân biệt về quản lý vốn giữa các lĩnh vực. Điều này gây ra khó
khăn trong việc xác định rủi ro của mỗi lĩnh vực, bên cạnh đó rủi ro của lĩnh vực này có
thể kéo theo rủi ro của cả những lĩnh vực khác. Ở Châu Âu, ngân hàng có thể chiếm lĩnh
cả kinh doanh chứng khoán, nhưng không một nước công nghiệp chính nào cho phép một
công ty đơn lẻ thực hiện cả 3 hoạt động kinh doanh: ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán.
Sơ đồ 1.1: Ngân hàng đa năng








- Mô hình công ty mẹ vừa nắm vốn vừa kinh doanh ngân hàng (parent –
subsidiary relationship).
Các c

đông

Ngân hàng

Kinh doanh
ngân hàng

Kinh doanh
bảo hiểm
Kinh doanh
chứng khoán


Trong mô hình này, các công ty tài chính khác là công ty con của ngân hàng. Các
cổ đông của ngân hàng quản lý trực tiếp ngân hàng nhưng không quản lý trực tiếp các
công ty bảo hiểm hay công ty chứng khoán. Còn các lãnh đạo các ngân hàng quản lý trực
tiếp hoạt động của công ty chứng khoán và công ty bảo hiểm. Đối với mô hình này, vốn
của ngân hàng, công ty chứng khoán và công ty bảo hiểm được quản lý một cách độc lập
nhưng rủi ro của các lĩnh vực vẫn có thể gây ra rủi ro dây chuyền.

Sơ đồ 1.2: Mô hình công ty mẹ vừa nắm vốn vừa trực tiếp kinh doanh ngân hàng






- Mô hình công ty mẹ nắm vốn thuần túy (holding company)
Trong mô hình này một công ty mẹ đứng trên chịu trách nhiệm quản lý các công ty
con trên từng lĩnh vực. Các cổ đông của công ty mẹ không trực tiếp quản lý những hoạt
động của các công ty con. Với ưu thế rủi ro của lĩnh vực này không ảnh hưởng đến lĩnh
vực khác, mô hình này đặc biệt phổ biến ở những tập đoàn tài chính quốc tế, ở Mỹ và cũng
đã được cho phép ở Nhật Bản.
Sơ đồ 1.3: Mô hình công ty mẹ nắm vốn thuần tuý








1.3 Các đặc trưng của tập đoàn tài chính - ngân hàng
Ngoài ra, để nhận dạng một tập đoàn, cần thông qua những đặc trưng chung của tập
đoàn và đặc trưng riêng của các công ty con hay công ty thành viên trong tập đoàn.
1.3.1 Đặc trưng chung của tập đoàn
Tập đoàn là một cấu trúc có tính lỏng về tổ chức nhưng có quan hệ rất chặt chẽ về
chiến lược thị trường và chiến lược luân chuyển vốn. Đa số các tập đoàn không có tư cách
pháp nhân, không có “trụ sở chính”, không có “cơ quan hành chính” thường trực chung
của tập đoàn, tuy nhiên cũng có các tập đoàn có tư cách pháp nhân là do được hình thành
theo quyết định của chính phủ. Nhưng đã là tập đoàn thì nhất thiết phải có một số thiết chế
Các c

đông

Ngân hàng

Công ty
chứng khoán
Công ty
bảo hiểm
Các c

đông

Công ty m



Ngân hàng
Công ty
chứng khoán
Công ty
bảo hiểm

quản trị chung của tập đoàn như hội đồng chiến lược, ủy ban kiểm toán, ủy ban bầu cử, hội
đồng quản trị. Các thành viên trong những hội đồng hay ủy ban nêu trên hoạt động theo
tôn chỉ và mục đích chung đã được các bên thống nhất từ trước và đa số theo cơ chế kiêm
nhiệm. Trong đó, chủ tịch tập đoàn thường là người có ảnh hưởng và uy tín lớn nhất thuộc
công ty xuất phát hay công ty chính của tập đoàn. Thông thường, chủ tịch và các thành
viên trong hội đồng và ủy ban hưởng lương chính từ các công ty con hay công ty thành
viên và được hưởng một khoản phụ cấp trách nhiệm do các công ty con hay công ty thành
viên đóng góp lên tập đoàn theo quy định chung. Do vậy, khái niệm tập đoàn thường kèm
theo “công ty xuất phát” hay “công ty gốc”, “công ty đứng đầu”, “công ty sáng lập”,v.v.
.Vị thế của công ty này trước hết biểu hiện ở biểu tượng (logo) của tập đoàn và ở khả năng
chi phối hướng phát triển của các công ty con hay công ty thành viên trong tập đoàn.
Lợi ích chung của các công ty trong tập đoàn là được hành động theo chiến lược
chung, theo “bản đồ” phân bố thị trường hay các quan hệ gắn bó về vốn, thương hiệu, văn
hóa, ngoại giao, Cơ chế điều hành chung của các tập đoàn chủ yếu dựa trên quan hệ về
lợi ích kinh tế minh bạch và uy tín cũng như các cam kết trong quy chế chung của tập đoàn
mà không dựa trên mệnh lệnh hành chính. Các pháp nhân trong tập đoàn có chung quyền
được bảo vệ để có thể tránh khỏi những nguy cơ bị thôn tính hay chèn ép trên thị trường từ
những công ty ngoài tập đoàn.
1.3.2 Đặc trưng riêng của các công ty trong tập đoàn
Đặc trưng quan trọng nhất là mỗi công ty trong tập đoàn phải là một pháp nhân độc
lập: Các công ty thành viên hoặc công ty con có sở hữu tài sản riêng, có trụ sở riêng, thị
trường riêng, thậm chí ngành nghề riêng. Chính vì vậy, giữa các công ty trong tập đoàn có
sự khác nhau về mức thu nhập, tình trạng rủi ro và quy mô tài chính. Nhìn chung, các tập
đoàn kinh doanh được hình thành theo nguyên tắc tự nguyện thông qua đàm phán để mua,

bán, liên doanh, sáp nhập, cam kết, v.v. Trong đó, một công ty khởi xướng và đóng vai trò
sáng lập ra tập đoàn (thông qua hình thức tập trung tư bản từ nhiều công ty thành viên),
hoặc từ một công ty lớn tách ra thành nhiều công ty con độc lập (thông qua hình thức tích
tụ tư bản, trong đó công ty mẹ vẫn đóng vai trò chi phối). Như vậy, việc hình thành một
tập đoàn kinh doanh không phải do “mệnh lệnh” hành chính của nhà nước mà do quyết
định của nhà doanh nghiệp, được dư luận xã hội, thị trường và nhà nước thừa nhận. Nói

đúng hơn, sự hình thành các tập đoàn là xuất phát từ nhu cầu của thị trường và vấn đề sống
còn của doanh nghiệp theo nguyên tắc tự nguyện.
1.4 Các phương thức hình thành tập đoàn tài chính - ngân hàng
Tùy theo những yếu tố như môi trường pháp lý, yếu tố lịch sử khác nhau, mục tiêu,
quan điểm,… mà hình thành theo nhiều phương thức khác nhau, có thể như các phương
thức:
- Công ty mẹ mua công ty khác để biến thành công ty con của mình.
- Thành lập mới một số công ty con.
- Sáp nhập công ty khác vào công ty mẹ hoặc công ty con.

1.5 Điều kiện hình thành tập đoàn Tài chính – ngân hàng
1.5.1 Môi trường pháp lý
Thứ nhất, tập đoàn tài chính – ngân hàng là một hình thức tổ chức quy mô lớn,
hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực tài chính – ngân hàng như kinh doanh tiền tệ, tín dụng,
chứng khoán, bảo hiểm Bên cạnh đó, các tập đoàn tài chính – ngân hàng có thể tham gia
vào các hoạt động sản xuất kinh doanh khác của nền kinh tế. Do vậy, có thể khẳng định
rằng các tập đoàn tài chính – ngân hàng có ảnh hưởng hết sức to lớn đối với nền kinh tế,
đòi hỏi phải quản lý chặt chẽ theo khuôn khổ pháp lý quy định.
Thứ hai, quá trình hình thành và phát triển các tập đoàn tài chính – ngân hàng có
thể được thực hiện bằng nhiều con đường: thông qua hoạt động sáp nhập, thâu tóm doanh
nghiệp, đầu tư thành lập mới doanh nghiệp… Do vậy cần phải xây dựng và hoàn thiện hệ
thống luật pháp điều chỉnh các quá trình sáp nhập, thâu tóm doanh nghiệp
Thứ ba, trong tập đoàn có quan hệ sở hữu của công ty mẹ với các công ty con,

cháu; hoặc giữa các công ty con và cháu sở hữu lẫn nhau. Do vậy, hệ thống luật pháp điều
chỉnh các quan hệ này cũng cần được xây dựng và hoàn thiện theo sự phát triển của nền
kinh tế - xã hội.

1.5.2 Mức độ phát triển của thị trường tài chính
Một trong những nguyên nhân chính hình thành và phát triển các tập đoàn tài chính
– ngân hàng là do sự cạnh tranh trong nền kinh tế nói chung, trên thị trường tài chính nói
riêng. Thị trường tài chính càng phát triển, cạnh tranh trên thị trường càng tăng lên, càng
cần thiết hình thành mối liên kết chặt chẽ hơn nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh, giảm
chi phí và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Vì thế, một số tổ chức tài chính, ngân hàng đã
liên kết để hình thành tập đoàn tài chính - ngân hàng nhằm tận dụng những lợi thế của
nhau, nâng cao năng lực cạnh tranh và kinh doanh so với các đối thủ khác. Do vậy, khi thị
trường tài chính quốc gia phát triển đến một trình độ nhất định sẽ dẫn đến sự ra đời và phát
triển của các tập đoàn tài chính – ngân hàng trong nước.
Hơn nữa, trong môi trường hội nhập, các tổ chức tài chính, ngân hàng trong nước
không chỉ cạnh tranh lẫn nhau mà còn phải cạnh tranh với các tổ chức tài chính, ngân hàng
nước ngoài. Nói cách khác, trong môi trường hội nhập, mức độ cạnh tranh trên thị trường
tài chính càng trở nên khốc liệt làm cho nhu cầu hình thành các tập đoàn tài chính – ngân
hàng càng tăng lên. Một mặt các tổ chức tài chính, ngân hàng trong nước liên kết với nhau
để hình thành các tập đoàn tài chính – ngân hàng nội địa, cạnh tranh với các tập đoàn tài
chính – ngân hàng nước ngoài. Mặt khác, còn có sự liên kết giữa các tổ chức tài chính,
ngân hàng nước ngoài để hình thành các tập đoàn tài chính – ngân hàng toàn cầu.
1.5.3 Qui mô hoạt động và năng lực cạnh tranh của các ngân hàng
Một trong những con đường dẫn đến sự hình thành và phát triển các tập đoàn tài
chính – ngân hàng là thông qua việc một tổ chức tài chính/ngân hàng tiến hành các hoạt
động sáp nhập, thâu tóm các công ty bảo hiểm/ngân hàng, công ty chứng khoán, công ty
đầu tư… Đồng thời, trong quá trình hình thành tập đoàn tài chính – ngân hàng, tổ chức tài
chính ban đầu sẽ phát triển trở thành công ty mẹ của tập đoàn hoặc trở thành công ty mẹ
đầu tư vốn của tập đoàn. Do vậy, tổ chức tài chính này cần phải có tiềm lực lớn, đặc biệt là
tiềm lực tài chính, quy mô hoạt động và năng lực cạnh tranh.

Tiềm lực của tổ chức tài chính/ngân hàng này cần đủ mạnh để có thể thực hiện các
hoạt động thâu tóm, góp vốn vào các công ty thành viên. Tổ chức này dùng tiền vốn để

mua lại vốn góp của các công ty khác, hoặc cùng góp vốn để hình thành một tổ chức mới
kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán hoặc công ty đầu tư.
Tổ chức tài chính ban đầu muốn hấp dẫn và thu hút các công ty chứng khoán, công
ty bảo hiểm, công ty đầu tư trở thành thành viên của tập đoàn cần có quy mô hoạt động
lớn, có chi nhánh rộng để liên kết và hỗ trợ hoạt động của các công ty chứng khoán, công
ty bảo hiểm, công ty đầu tư. Các công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, công ty đầu tư
tận dụng cơ sở kinh doanh của tổ chức này để kinh doanh sản phẩm bảo hiểm, chứng
khoán. Khi đó, các công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, công ty đầu tư sẽ tận dụng
năng lực cạnh tranh của tổ chức này để nâng cao năng lực cạnh tranh của công ty thành
viên.
1.5.4 Các điều kiện khác
Tập đoàn tài chính – ngân hàng là một tổ hợp của nhiều công ty thành viên, trong
đó thường dựa vào một NHTM hoặc một công ty bảo hiểm làm nòng cốt, do vậy, công ty
mẹ cần có nguồn nhân lực và công nghệ cao. Để đảm bảo quản lý và điều hành hoạt động
của toàn bộ tập đoàn, công ty mẹ cần có bộ phận nhân lực chịu trách nhiệm xây dựng và
thực hiện các chiến lược kinh doanh chung của cả tập đoàn. Bên cạnh đó, công ty mẹ cần
xây dựng đội ngũ nhân lực tham gia vào hoạt động quản lý, điều hành tại các công ty thành
viên, nhất là các thành viên chủ chốt trong tập đoàn. Các công ty thành viên là các pháp
nhân độc lập, công ty mẹ tham gia vào với tư cách là chủ đầu tư. Đối với các công ty thành
viên chủ chốt, công ty mẹ cần có đội ngũ nhân lực trực tiếp tham gia vào HĐQT và Ban
giám đốc của các công ty thành viên để trực tiếp điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh
của các thành viên này. Các vị trí lãnh đạo chủ chốt của các công ty thành viên đều thuộc
quyền quản lý của công ty mẹ, do vậy công ty mẹ phải xây dựng đội ngũ nhân lực đủ trình
độ để có thể điều hành hoạt động của các công ty thành viên.
Các công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, công ty đầu tư sẽ tận dụng cơ sở vật
chất, kỹ thuật, trong đó có nguồn công nghệ của công ty mẹ để giảm chi phí đầu tư công
nghệ, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Do vậy, công ty mẹ cần có công nghệ có thể đáp ứng

yêu cầu kinh doanh đa dạng các loại dịch vụ ngân hàng, chứng khoán, bảo hiểm và đầu tư

cho bản thân công ty mẹ và các công ty thành viên, đồng thời, đảm bảo tính thống nhất về
công nghệ để liên kết hoạt động của các công ty thành viên vào một hệ thống.
1.6 Kinh nghiệm tổ chức hoạt động của một số tập đoàn tài chính – ngân hàng
lớn trên thế giới
1.6.1 Tập đoàn Citigroup
Citigroup là tập đoàn tài chính hàng đầu nước Mỹ và hiện cũng là ngân hàng lớn
nhất thế giới tính tới 1/8/2006. Tổng tài sản của Citigroup năm 2005 là 1.494 tỷ USD so
với 167 tỷ USD năm 1995. Tập đoàn Citigroup là sự hợp nhất của hai tổ chức riêng lẻ là:
Citicorp và Travelers Insurance. Citicorp là một tập đoàn ngân hàng đa quốc gia, hoạt
động ở gần 100 quốc gia. Travelers là một tổ chức hợp nhất bởi nhiều công ty khác nhau,
từ tín dụng thương mại đến hỗ trợ tiêu dùng, môi giới và đến bảo hiểm.
1.6.1.1 Lịch sử hình thành
Tập đoàn Citigroup ra đời gắn liền với quá trình hình thành Tập đoàn Citicorp.
Citicorp là một trong những tập đoàn hàng đầu của Mỹ có trụ sở chính tại New York với
công ty mẹ là Citibank. Vào những năm đầu của thế kỷ 19, ngân hàng đã mở những chi
nhánh đầu tiên ở nước ngoài (tại London năm 1902 và tại Buenos Aires năm 1914), sau đó
chuyển hướng mạnh sang hoạt động ngân hàng bán lẻ (phục vụ khách hàng cá nhân) và trở
thành NHTM đầu tiên cho cá nhân người tiêu dùng vay tiền. Trong suốt những năm 1920-
1940, các hoạt động quốc tế của ngân hàng phát triển rất nhanh (mở tới 100 văn phòng đại
diện và chi nhánh tại nước ngoài). Năm 1955, ngân hàng sáp nhập với First National (New
York) để trở thành một tổ hợp lớn với tên gọi First National City Bank. Năm 1961, ngân
hàng đã có sáng kiến sử dụng chứng chỉ tiền gửi (CDs), trả lãi suất cao hơn cho những
khoản tiền gửi có kỳ hạn. Năm 1968, ngân hàng cải tổ để trở thành một công ty mẹ và hình
thành một tập đoàn ngân hàng lấy tên là First National City Corp (năm 1974 đổi tên thành
CitiCorp) với hoạt động trọng tâm vẫn là các dịch vụ tài chính và ngân hàng bán lẻ. Cuối
năm 1968, Citibank đã thế chỗ Chase Manhatta trở thành ngân hàng lớn nhất ở New York
với tài sản trị giá 19,4 tỷ đô la. Vào những năm 1970, Citibank trở thành nhà phát hành
chính thẻ tín dụng Master và VISA và đã mua được Carte Blanche vào năm 1978, Diners

Club vào năm 1981. Năm 1977, Citibank là ngân hàng đầu tiên giới thiệu sản phẩm Máy

rút tiền tự động (ATMs) với quy mô hơn 500 máy trong nội thành New York và cuối năm
1980 vượt qua Bank America để trở thành ngân hàng lớn nhất Mỹ. Trong những năm 80,
Citibank đã mua được cả một số tổ chức tài chính ở San Francisco, Chicago, Miami và
Washington DC và đến năm 1998, thực hiện sáp nhập với hãng Travellers Group - một
công ty kinh doanh thẻ nổi tiếng - để trở thành Tập đoàn ngân hàng – tài chính hàng đầu
thế giới, chính là Tập đoàn Citigroup ngày nay.
1.6.1.2 Mô hình hoạt động và cơ cấu tổ chức
Citigroup Inc. là một công ty mẹ cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng toàn cầu
với các hoạt động dịch vụ rộng khắp cho người tiêu dùng và các công ty.
Citigroup có hơn 200 triệu tài khoản khách hàng và kinh doanh trên hơn 100 quốc
gia. Citigroup là một công ty mẹ kinh doanh lĩnh vực ngân hàng, được ra đời theo Luật
Công ty, kinh doanh lĩnh vực ngân hàng năm 1956 và chịu sự giám sát của Ban Thống đốc
Hệ thống Dự trữ Liên bang (FRB). Một số các chi nhánh của công ty chịu sự giám sát của
các chính quyền bang tương ứng. Tính đến thời điểm cuối năm 2006, công ty có khoảng
140.000 nhân viên chính thức và 8.000 nhân viên bán thời gian ở nước Mỹ và khoảng
159.000 nhân viên chính thức ở nước ngoài.
Tháng 5/2001, Tập đoàn tài chính Citigroup của Mỹ đã mua Tập đoàn ngân hàng
lớn nhất Mêhicô Banacci với giá khổng lồ là 12,5 tỷ USD. Đây là cuộc mua bán lớn nhất
trong lịch sử tại thị trường các nước mới nổi như Mêhicô. Việc sáp nhập Ngân hàng
Banamex thuộc Tập đoàn Banamex (của Banacci - Mêhicô vào Ngân hàng Citibank của
Mỹ tại Mêhicô không chỉ là giải pháp mở rộng phạm vi kinh doanh của Tập đoàn
Citigroup mà còn củng cố vị thế trên thị trường tài chính của chính “ngân hàng bị bán” là
Banamex sau khi bị mất thế cạnh tranh. Mặt khác, cuộc sáp nhập này theo tính toán của
Chủ tịch Tập đoàn Citigroup - ông Sandy Weill thì hàng năm Tập đoàn sẽ giảm được ít
nhất 200 triệu USD cho chi phí chuyển giao công nghệ và nhất là chi phí huy động vốn
thấp hơn.

Sơ đồ 1.4: Khái quát mô hình hoạt động của CitiGroup


Citigroup có 3 nhóm hoạt động kinh doanh chính: nhóm NHTM, nhóm quản lý tài
sản và đầu tư, nhóm các hoạt động ngân hàng đầu tư, trong đó, nhóm tiêu dùng toàn cầu
thường chiếm tỷ trọng chi phối. Nếu phân theo khu vực hoạt động kinh doanh của tập đoàn
thì hoạt động ở Mỹ, tức là nơi có Trụ sở chính, chiếm tỷ trọng chủ yếu và lớn nhất.
Cơ cấu tổ chức của tập đoàn Citigroup (xem phụ lục )
1.6.1.3 Mô hình quản trị
Citigroup là tập đoàn có mô hình quản trị tiêu biểu của các công ty đại chúng, tức là
cơ cấu điều hành gồm một HĐQT duy nhất của toàn tập đoàn và các uỷ ban độc lập.
HĐQT có nhiệm vụ quản trị một cách hiệu quả, đem lại lợi ích cho các cổ đông và
hài hoà lợi ích giữa khách hàng, người lao động, nhà cung cấp và địa điểm ở các khu vực
có chi nhánh của tập đoàn. HĐQT được toàn quyền thực hiện hoạt động mà họ tin là có thể
đem lại lợi ích cho công ty. HĐQT gồm từ 13 tới 19 thành viên, trong đó, ít nhất hai phần
ba số thành viên trong HĐQT là thành viên độc lập. Các thành viên của HĐQT phải trải
qua quá trình lựa chọn gồm 3 bước. Các ứng viên của HĐQT được lựa chọn bởi Uỷ ban
quản trị và bổ nhiệm. Sau đó đưa lên cho HĐQT duyệt tính phù hợp với các tiêu chuẩn của
Hội đồng quản trị. Và cuối cùng các thành viên đó được bầu trong số các ứng viên tại cuộc
gập hàng năm của các cổ đông trong nhiệm kỳ 1 năm. Đồng thời Uỷ ban quản trị bổ nhiệm
một người trong số các thành viên của HĐQT làm Chủ tịch HĐQT. Ngoài ra, HĐQT còn
có thể có một Chủ tịch danh dự, người này được tham dự các buổi họp HĐQT nhưng
không có quyền bỏ phiếu.
CitiGroup

(Trụ sở chính)
Gobal Consumer Group
(Nhóm ngân hàng thương
mại và tiêu dùng)
Gobal Wealth Management
Group
(Nhóm kinh doanh ngân hàng

đ
ầu t
ư và qu
ản lý tài sản)

Coperate and Investment
Banking
(Nhóm ngân hàng đầu tư)

Bên cạnh HĐQT, trong cơ cấu quản trị tập đoàn của CityGroup, các uỷ ban độc lập
cũng đóng một vai trò rất lớn. Các uỷ ban chính gồm có Ban điều hành (Excutive
commitee), Ban kiểm toán và quản trị rủi ro, Ban Quản trị và bổ nhiệm (Nomination and
Governance Commitee), Ban Truyền thông đại chúng (Public Affairs Commitee), Ban
Nhân sự và hưu trí (The Personnel and compensation commitee) v.v… Ngoại trừ Ban điều
hành, các thành viên của các uỷ ban còn lại phải thoả mãn luật quản trị của Sở giao dịch
chứng khoán NewYork (NYSE) về số thành viên độc lập. Hàng năm, các uỷ ban này thực
hiện chức năng giám sát và trợ giúp của mình đối với HĐQT của tập đoàn như Uỷ ban
Nhân sự và hưu trí có nhiệm vụ giám sát kết quả hoạt động của Giám đốc điều hành và
Chủ tịch HĐQT và có các báo cáo hàng năm lên hội đồng quản trị; hay Uỷ ban Quản trị và
bổ nhiệm có chức năng tuyển chọn và giới thiệu ứng cử viên vào HĐQT
1.6.1.4 Cơ chế tài chính
Công ty Citigroup Inc và Công ty quản lý quỹ Citigroup Funding Inc sẽ cung cấp
các khoản tài trợ vốn dưới dạng nợ hay vốn đầu tư cho các công ty con kinh doanh trong 3
lĩnh vực chủ yếu: môi giới chứng khoán (Citigroup Global Markets Holdings Inc), các hoạt
động ngân hàng, và các hoạt động phi ngân hàng.
Citigroup Inc và Citigroup Funding Inc sẽ thu hút các dòng tiền từ bên ngoài vào
thông qua tiếp cận với thị trường vốn. Với Citigroup Inc., nguồn tài trợ thu hút từ bên
ngoài bao gồm: các khoản nợ phải thanh toán trước, các khoản nợ phụ, cổ phiếu ưu đãi, cổ
phiếu ưu đãi đặc biệt và cổ phiếu thường. Có thể thấy rằng, các hoạt động kinh doanh ngân
hàng không chỉ được sự hỗ trợ vốn trong nội bộ tập đoàn mà còn có thể nhận được sự hỗ

trợ vốn từ bên ngoài được cung cấp qua các kênh: các tài khoản khách hàng, các chứng
khoán nợ, các khoản vay FHLB, và các khoản vay ngân hàng khác. Nguồn vốn cho các
hoạt động phi ngân hàng cũng bao gồm các khoản hỗ trợ từ bên trong tập đoàn và hỗ trợ từ
bên ngoài thông qua việc chứng khoán hóa các khoản nợ. Đối với CitiGroup Global
Markets Holdings Inc., nguồn vốn cho hoạt động mua bán và môi giới chứng khoán của
công ty này một phần cũng từ sự hỗ trợ vốn trong nội bộ tập đoàn, phần còn lại sẽ được
huy động từ bên ngoài qua kênh thị trường chứng khoán. Là một chi nhánh kinh doanh
môi giới Mỹ hàng đầu của Citigroup, Công ty Citigroup Global Markets (CGMI) đăng ký
kinh doanh như là một nhà kinh doanh môi giới trên 50 bang, khu vực Colombia, Puerto

Rico, Đài Loan và Guam. CGMI cũng là một nhà kinh doanh trái phiều kho bạc Mỹ hàng
đầu và là một thành viên của các sở giao dịch tương lai Mỹ. CGMI chịu sự điều tiết của
nhiều luật, bao gồm các yêu cầu về vốn tối thiểu được đặt ra bởi các tổ chức như: SEC,
CFTC, Hiệp hội giao dịch tương lai quốc gia (NFA), Hiệp hội kinh doanh chứng khoán
quốc gia (NASD), NYSE và các tổ chức tự điều tiết mà trong đó, CGMI là một thành viên
và các nhà quản lý chứng khoán của 50 bang, khu vực Columbia, Puerto Rico và Guam.
Đối với từng lĩnh vực hoạt động chuyên biệt, cơ chế tài chính của Tập đoàn
Citigroup còn có những quy định khá cụ thể và chi tiết.
- Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng: Sự tham gia cổ phần của Citibank và
các ngân hàng khác đã đưa Citigroup trở thành một công ty mẹ kinh doanh chủ yếu trong
lĩnh vực ngân hàng, hoạt động theo Luật. Công ty mẹ kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng
thường được giới hạn kinh doanh trong phạm vi lĩnh vực ngân hàng, quản lý hoặc kiểm
soát các ngân hàng, các hoạt động khác có liên quan. Do tất cả các công ty con đều được
đảm bảo an toàn vốn và được quản lý tốt theo các điều luật ngân hàng Mỹ, được đánh giá
ở mức độ đạt yêu cầu trở lên về tài trợ vốn cho cộng đồng theo quy định tại Điều luật Tái
đầu tư cộng đồng (CRA) được quốc hội Mỹ thông qua năm 1977, nên Citigroup được công
nhận là một công ty mẹ. Theo đó, công ty mẹ được phép tham gia vào hoạt động tài chính
trên phạm vi rộng lớn hơn ở Mỹ và ở nước ngoài. Những hoạt động này bao gồm: bảo lãnh
phát hành và kinh doanh chứng khoán; môi giới và bảo lãnh bảo hiểm; đầu tư ngắn hạn
vào các công ty phi tài chính trong trường hợp công ty không quản lý được các hoạt động

thường ngày của công ty phi tài chính hoặc trong trường hợp công ty phi tài chính không
có liên kết thị trường theo chiều ngang với công ty con (là các ngân hàng trực thuộc ngân
hàng mẹ).
Cơ quan điều tiết, giám sát: là một ngân hàng mẹ, Citigroup được điều tiết và giám
sát bởi Ngân hàng Dự trữ Liên Bang (FRB). Các ngân hàng con được công nhận trên phạm
vi quốc gia (chẳng hạn như Citibank) thì chịu sự điều tiết và giám sát bởi Cơ quan giám sát
tiền tệ (OCC); các Hiệp hội tiết kiệm liên bang chịu sự quản lý của Cơ quan Giám sát tiết
kiệm; các tổ chức nhận tiền gửi ở các bang chịu sự quản lý của Công ty bảo hiểm tiền gửi
liên bang (FDIC). Các chi nhánh ngân hàng ở nước ngoài của Citibank chịu sự điều tiết và
giám sát của FRB và OCC.

Chi trả cổ tức: Các ngân hàng mẹ của Tập đoàn Citigroup và các ngân hàng con bị
giới hạn bởi khả năng chi trả cổ tức. Ngoài những giới hạn nhất định về cổ tức mà các
ngân hàng con có thể trả cho các ngân hàng mẹ của chúng, các nhà điều tiết liên bang có
thể cấm một cổ tức trong trường hợp nó có khả năng là một khoản chi trả ngân hàng không
lành mạnh hoặc không an toàn. Chính sách của FRB là: các ngân hàng mẹ trả cổ tức đối
với cổ phiếu phổ thông đối với phần thu nhập vượt ra ngoài thu nhập của năm trước, và chỉ
trong trường hợp việc giữ lại thu nhập tiềm năng nhất quán với điều kiện tài chính và nhu
cầu dự kiến trong tương lai của tổ chức này. Hơn nữa, công ty mẹ không nên duy trì các
mức lợi tức làm suy giảm khả năng trở thành nguồn sức mạnh cho các chi nhánh ngân
hàng của công ty.
1.6.2 Tập đoàn HSBC Holding
1.6.2.1 Lịch sử hình thành
HSBC Holdings là một Tập đoàn tài chính ngân hàng hàng đầu của Anh. HSBC có
trụ sở chính tại Anh và có phạm vi hoạt động rộng lớn trên 5 khu vực là Châu Âu, Hồng
Kông, các nước thuộc khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, bao gồm cả khu vực Trung
Đông và Châu Phi; Bắc Mỹ và Nam Mỹ. Các công ty thành viên chính của HSBC
Holdings là: HSBC Bank plc, HSBC North America Holdings Inc.; HSBC Finance
(Netherlands); HSBC Investment Bank Holdings plc; HSBC Insurance Holdings Limited;
HSBC Latin America Holdings (Anh) Limited và Grupo Financiero HSBC, S.A de C.V.

Dưới các công ty con là các công ty cháu. Các công ty con hay cháu có thể sở hữu hoàn
toàn theo tỷ lệ vốn liên kết.
Sau 8 năm thành lập, HSBC Holdings hiện nay là một trong những tập đoàn cung
cấp các dịch vụ tài chính – ngân hàng hàng đầu thế giới với tổng tài sản là 1.276.778 triệu
USD với vốn chủ sở hữu là 67.259 triệu USD, chiếm 72% GDP. Tập đoàn này cũng sở
hữu 9.500 văn phòng, 260.000 nhân viên tại 76 quốc gia và vùng lãnh thổ.
Với một hệ thống mạng lưới quốc tế được kết nối với nhau bằng hệ thống công
nghệ hiện đại, khả năng lớn mạnh của thương mại điện tử, HSBC cung cấp một hệ thống
dịch vụ tài chính cho bốn nhóm khách hàng chính: (i) ngân hàng bán lẻ phục vụ khách
hàng cá nhân đại trà; (ii) NHTM phục vụ khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ; (iii)

Ngân hàng phục vụ các tập đoàn kinh tế lớn và đầu tư kinh doanh trên thị trường tài chính;
(iv) Ngân hàng phục vụ các khách hàng giàu có.
1.6.2.2 Cơ cấu quản trị điều hành
- Hội đồng quản trị:
HĐQT của HSBC lựa chọn quy chế hoạt động cho toàn tập đoàn, từ các điều khoản,
thông lệ kết hợp vè quản trị điều hành; các điều khoản về niêm yết chứng khoán, quản lý
tài chính, giao dịch. Các công ty thành viên có thể tự quyết định các hoạt động kinh doanh
của công ty mình nhưng phải tuân thủ các quy định chung. Hằng năm, tập đoàn thành lập
một ủy ban kiểm tra việc thực hiện quy chế hoạt động của từng thành viên tập đoàn.
HĐQT của HSBC Holdings hiện có 21 thành viên. Đứng đầu là Chủ tịch tập đoàn.
Dưới Chủ tịch có 02 Phó Chủ tịch (01 Phó Chủ tịch là Giám đốc cấp cao nhưng không
tham gia quản trị điều hành và 1 Phó Chủ tịch là Giám đốc cấp cao nhưng không tham gia
quản trị điều hành đại diện cho đơn vị liên kết với HSBC Holdings). Trong HĐQT còn có
01 Giám đốc điều hành chung, 01 Giám đốc tài chính và quản lý rủi ro, 01 cố vấn và các
thành viên khác là các giám đốc không tham gia điều hành và các giám đốc không tham
gia điều hành đại diện cho đơn vị liên kết với HSBC Holdings.
HĐQT điều hành toàn bộ hoạt động của tập đoàn thông qua 5 ủy ban chính là: ủy
ban điều hành Tập đoàn; ủy ban kiểm toán; ủy ban quản trị nguồn nhân lực; ủy ban bầu cử
và ủy ban trách nhiệm xã hội. Mỗi ủy ban có 1 Chủ tịch ủy ban, các Giám đốc điều hành

và các Giám đốc quản trị. Riêng ủy ban trách nhiệm xã hội còn có những thành viên được
bầu nhưng không phải là các giám đốc.

Sơ đồ 1.5: Cơ cấu tổ chức của HSBC



















- Ủy ban điều hành: là ủy ban điều hành chung, chịu sự quản lý trực tiếp của Hội
đồng quản trị.
- Ủy ban kiểm toán: chịu trách nhiệm về quản lý tài chính cao cấp, kiểm toán nội bộ,
các quyết định pháp lý, tuân thủ về kế toán và kiểm toán độc lập, để đảm bảo các
báo cáo tài chính, phạm vi, bản chất của việc rà soát kiểm toán cũng như hiệu quả
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
Chủ tịch

Phó Chủ tịch Phó Chủ tịch
Giám đốc
điều hành
chung
Giám đốc tài
chính và quản
lý rủi ro

Các giám đốc
không tham
gia điều hành
Uỷ ban điều
hành Tập đoàn
Uỷ ban
kiểm toán
Uỷ ban Quản trị
nguồn nhân lực
Uỷ ban
Bầu cử
Ủy ban Trách
nhiệm Xã hội

của các hệ thống tuân thủ và quản lý nội bộ tập đoàn. Tất cả các thành viên của ủy
ban này là các giám đốc độc lập không tham gia điều hành các công ty con hay
công ty liên kết.
- Ủy ban quản trị nguồn nhân lực: Chịu trách nhiệm về các vấn đề nhân lực, đặc biệt
là các quy định, tiêu chuẩn tuyển dụng, lương, thưởng, trợ cấp hưu trí, phát triển
nhân lực tiềm năng và các chiến lược, kế hoạch về nhân sự cho toàn tập đoàn.
- Ủy ban bầu cử: chịu trách nhiệm các quá trình bổ nhiệm thành viên Hội đồng quản
trị, xem xét, đánh giá các ứng viên, đề ra các tiêu chuẩn về quyền hạn và trách

nhiệm cần thiết cho từng vị trí trong Hội đồng quản trị, thông qua các cuộc họp cổ
đông hàng năm.
- Ủy ban trách nhiệm xã hội: Chịu trách nhiệm xem xét tổng thể về trách nhiệm xã
hội của tập đoàn cũng như các chính sách phát triển bền vững liên quan đến các vấn
đề về môi trường, xã hội và đạo đức đồng thời cố vấn cho Hội đồng quản trị, các ủy
ban khác về các vấn đề liên quan đến trách nhiệm xã hội.
- Kiểm soát nội bộ tập đoàn:
Các giám đốc chịu trách nhiệm về kiểm soát nội bộ tập đoàn cũng như rà soát về
hiệu quả của vấn đề này. Quy trình kiểm soát được thiết kế nhằm chống tham nhũng, lạm
dụng chức vụ tham ô tài sản của tập đoàn, duy trì sự đúng đắn của các báo cáo tài chính,
tính trung thực của các thông tin tài chính được sử dụng trong kinh doanh hay thông báo ra
công chúng.
Các quy trình kiểm soát chính được thiết kế nhằm tăng cường hiệu quả kiểm soát
trong nội bộ tập đoàn phù hợp với các hướng dẫn về kiểm soát nội bộ dành cho các giám
đốc trong quy chế kết hợp do Hội đồng báo cáo tài chính ban hành.
Các quy trình kiểm soát nội bộ chính của HSBC bao gồm: quy trình quản lý hoạt
động của các công ty thành viên bằng cách đưa ra các tiêu chuẩn về chức năng, hoạt động,
báo cáo tài chính, quản lý chế độ báo cáo, loại hình kinh doanh, đại điểm kinh doanh của
mỗi thành viên; quy trình xác định, kiểm soát và báo cáo các rủi ro chính như rủi ro tín
dụng, thay đổi giá thị trường của các công cụ tài chính, khả năng thanh khoản, các lỗi tác
nghiệp, các hành vi vi phạm luật, các hành vi lạm quyền, quy trình xác định rủi ro phát

sinh từ sự thay đổi thông lệ thị trường hay hành vi của khách hàng; quy trình lập kế hoạch
chiến lược cho các nhóm khách hàng, các nhóm sản phẩm toàn cầu, áp dụng cho các thành
viên tập đoàn hàng năm…
1.6.3 Tập đoàn tài chính Shinhan
1.6.3.1 Cơ cấu tổ chức của Shinhan Group
Đặc trưng nổi bật nhất trong mô hình tổ chức của Shinhan Financial Group chính là
mức độ ảnh hưởng lớn của công ty mẹ tới các công ty con. Shinhan Financial Group có tư
cách pháp nhân và các công ty con của chúng cũng có tư cách pháp nhân, hoạt động độc

lập nhưng chịu ảnh hưởng rất lớn bởi công ty mẹ. Bởi lẽ, trong số 11 công ty con trực
thuộc Shinhan Financial Group thì có tới 7 công ty con mà Shinhan Financial Group nắm
giữ 100% cổ phần. Và điều đáng nói hơn nữa là tất cả các công ty con mà dưới nó có các
công ty thành viên thì đều là các công ty mà Shinhan Financial Group nắm giữ 100% cổ
phần (hay nói cách khác, các công ty cháu đều thuộc các công ty con mà Shinhan
Financial Group nắm giữ 100% cổ phần).
Một đặc điểm nữa cho thấy mức độ ảnh hưởng của công ty mẹ tới các công ty con
về mặt tổ chức đó chính là sự hiện diện của các lãnh đạo của tập đoàn trong các công ty
con. Chẳng hạn, ông In Ho Lee là Tổng Giám đốc điều hành của công ty mẹ cũng đồng
thời là thành viên HĐQT của 2 ngân hàng chủ chốt trong tập đoàn là Shinhan Bank và
Chohung Bank; ông Young Hwi Choi là thành viên HĐQT của công ty mẹ kiêm luôn vị trí
Phó Giám đốc Shinhan Bank. Nói cách khác, các vị trí chủ chốt tại các công ty con quan
trọng đều có sự tham gia của các thành viên lãnh đạo của công ty mẹ. Đây chính là đặc
điểm quan trọng để duy trì mức độ ảnh hưởng và quyền quản trị của công ty mẹ tại các
công ty con.
1.6.3.2 Cơ chế hoạt động
* Sứ mệnh hoạt động của Shinhan Group


* Mục tiêu hoạt động
Trở thành nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng lớn nhất, cung cấp dịch vụ chứng khoán
lớn thứ hai và cung cấp thẻ tín dụng lớn thứ 3 trên thị trường, từng bước đưa cả tập đoàn
vào hàng 5 tập đoàn lớn nhất thị trường Hàn Quốc vào năm 2008. Cụ thể là:

Loại dịch vụ Năm 2003 Năm 2008
Đánh giá chung Giá trị vốn hoá thị trường

Top 9

Top 5

Hoạt động NH Dịch vụ ngân hàng
Top 2

Top 1
Hoạt động phi NH
Dịch vụ chứng khoán
Top 6

Top 2
Dịch vụ thẻ tín dụng
Top 5

Top 3
Dịch vụ ITMC
Top 6

Top 3
Các dịch vụ khác


Top 5
* Chiến lược hoạt động
KHÁCH HÀNG

Trung
thành

Thành
công
Thương

hiệu uy tín
M
ạng l
ư
ới
một cửa
Chăm sóc
tốt nhất
Chia s

giá
trị
TẬP ĐOÀN TÀI CHÍNH HÀNG ĐẦU
TẠO LẬP “NGÂN HÀNG MỚI”

MỘT DOANH NGHIỆP DUY NHẤT
NHÀ CUNG CẤP GIẢI PHÁP TÀI CHÍNH
T
ỔNG THỂ

×