Tải bản đầy đủ (.pdf) (87 trang)

LUẬN VĂN: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện nghiệp vụ kế toán cho vay tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Lào cai pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (692.38 KB, 87 trang )






LUẬN VĂN:

Một số giải pháp nhằm hoàn thiện nghiệp vụ
kế toán cho vay tại Ngân hàng Nông nghiệp
và phát triển nông thôn tỉnh Lào cai







Lời mở đầu


Hơn 15 năm thực hiện đổi mới nền kinh tế Việt Nam đang trên đà phát triển từ cơ
chế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng Xã hội chủ nghĩa và có sự quản lý của Nhà nước đã khiến cho hoạt động của Ngân
hàng ngày càng trở nên sôi động hơn.

Trong công cuộc Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa Đất nước, nhu cầu về vốn để
đầu tư, phát triển nền kinh tế đang là một vấn đề bức xúc, mọi nguồn vốn trong và ngoài
nước đang được chú ý khai thác để đáp ứng nhu cầu bức thiết đó.

Theo Nghị định 53/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ) và hai
Pháp lệnh Ngân hàng của Nhà nước về Ngân hàng Việt Nam được phân chia làm hai cấp,


thể hiện tách biệt chức năng quản lý với chức năng kinh doanh, thì Ngân hàng Nhà nước
làm tốt các chức năng quản lý Nhà nước về tiền tệ và hoạt động Ngân hàng, hoạch định
và chỉ đạo thực thi có hiệu quả chính sách tiền tệ Quốc gia, còn Ngân hàng Thương mại
với chức năng là kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng, hoạt động với phương châm là
đi vay để cho vay, Huy động vốn nhàn rỗi từ nền kinh tế để sử dụng và để cho vay an
toàn, có hiệu quả nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh phát triển kinh tế.

Khách hàng của các Ngân hàng Thương mại ngày nay không chỉ là các Doanh
nghiệp Nhà nước mà còn bao gồm các thành phần kinh tế khác nhau như: các tổ chức
kinh tế ngoài quốc doanh, các cá nhân Việc Ngân hàng cho các đơn vị ngoài quốc
doanh vay không chỉ đem lại cho Ngân hàng lợi nhuận mà còn giúp cho các thành phần
kinh tế này phát triển sản xuất - kinh doanh góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế của đất
nước.



Trong giai đoạn hiện nay, số lượng các đơn vị kinh tế ngoài quốc doanh ngày càng
nhiều. Trong số đó có những Doanh nghiệp làm ăn có lãi, ngược lại thì có một số Doanh
nghiệp làm ăn thua lỗ, thậm chí có những Doanh nghiệp còn lợi dụng cả sự tín nhiệm của
Ngân hàng để chiếm đoạt vốn của Ngân hàng , từ đó Ngân hàng gặp rủi ro bởi những
khoản đầu tư tín dụng kém hiệu quả này.

Để hạn chế rủi ro cho Ngân hàng việc thu cả gốc và lãi phải đúng hạn thì vấn đề
đặt ra là phải theo dõi chặt chẽ các khoản cho vay, thu nợ cả gốc và lãi
kịp thời, đây chính là nghiệp vụ của kế toán cho vay.

Xuất phát từ vị trí quan trọng của nghiệp vụ kế toán cho vay. Trong những năm
qua cùng với việc cải tiến đổi mới về cơ chế tổ chức, chế độ nghiệp vụ Ngân hàng Nhà
nước và các Ngân hàng Thương mại đã chú trọng bổ sung sửa đổi cải tiến chế độ hạch
toán nghiệp vụ kế toán cho vay để phù hợp với sự phát triển và mở rộng không ngừng

của Tín dụng Ngân hàng. Vì vậy, từ sự nhận thức được tầm quan trọng của kế toán cho
vay, các Ngân hàng Thương mại đã tập trung cải tiến chế độ kế toán cho vay đối với tất
cả các thành phần kinh tế và đã thu được những kết quả bước đầu đáng kể.
Tuy nhiên kế toán cho vay là một nghiệp vụ kế toán phức tạp nên đến nay vẫn còn
tồn tại thuộc về cơ chế cũng như tổ chức thực hiện, nên nghiệp vụ kế toán cho vay đòi
hỏi không ngừng được nghiên cứu bổ sung sửa đổi. Từ những lý do trên, qua thời gian
học tập tại trường và trong quá trình thực tập tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển
nông thôn tỉnh Lào cai tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài : “một số giải pháp nhằm hoàn
thiện nghiệp vụ kế toán cho vay tại Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn
tỉnh Lào cai”, ngoài phần mở đầu và phần kết luận nội dung bản khóa luận này được kết
cấu làm 3 chương :

Chương I :

Cơ sở lý luận về tín dụng Ngân hàng và kế toán cho vay


Trong hoạt động kinh doanh Ngân hàng

Chương II :

Tình hình thực hiện kế toán cho vay
Tại Ngân hàng NO&Tpnt tỉnh Lào cai .

Chương III :

Một số kiến nghị về nghiệp vụ kế toán cho vay
Tại Ngân hàng No&ptnt tỉnh Lào cai .

Tôi hy vọng bản khóa luận này sẽ phần nào đóng góp vào việc củng cố công tác

kế toán cho vay, tạo điều kiện phát triển và mở rộng nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Lào cai. Vì điều kiện thời gian và trình độ năng
lực nghiên cứu có hạn nên bản khóa luận không tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Tôi
rất mong được sự góp ý của thầy (cô) giáo, Ban giám đốc và các cán bộ nghiệp vụ ở
Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Lào Cai để bản khóa luận được hoàn
chỉnh hơn.



Chương I :
Cơ sở lý luận về tín dụng ngân hàng và kế toán cho vay
Trong hoạt động Ngân hàng


I/.Vai trò của tín dụng Ngân hàng :

1. Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với nền kinh tế :


Hệ thống Ngân hàng ra đời dựa trên cơ sở của sự phát triển nền kinh tế và lưu
thông hàng hóa, sản xuất và lưu thông hàng hóa phát triển kéo theo sự ra đời và phát triển
của tiền tệ và các tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ.

Trong nền kinh tế hàng hóa tập trung, hệ thống Ngân hàng một cấp hoạt động
trong môi trường kinh tế hiệu quả thấp và vai trò của Ngân hàng không được thể hiện rõ.
Ngân hàng Nhà nước là Ngân hàng phát hành, đồng thời vừa là Ngân hàng trực tiếp cho
vay vốn đối với nền kinh tế quốc dân, vừa là tổ chức quản lý Nhà nước về lĩnh vực tiền
tệ, tín dụng thanh toán, vừa là Ngân hàng kinh doanh.

Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, hệ thống

Ngân hàng có sự đổi mới cho phù hợp với đòi hỏi của nền kinh tế. Hệ thống Ngân hàng
được phân chia làm hai cấp, đó là :

Ngân hàng Nhà nước (Ngân hàng Trung ương) và hệ thống các Ngân hàng
Thương mại cùng các tổ chức tín dụng khác. Mỗi cấp đều được xác định rõ chức năng,
nhiệm vụ của mình.

Ngân hàng Thương mại tham gia kinh doanh trên thị trường với tư cách là trung
gian tài chính lớn nhất trong nền kinh tế quốc dân. Hay nói một cách khách Ngân hàng
Thương mại là chiếc “cầu nối” giữa những người thừa vốn và những người cần vay vốn.

Thông qua các Ngân hàng Thương mại, các nguồn vốn xã hội được chuyển một
cách gián tiếp từ nguồn vốn tiết kiệm (nguồn vốn nhàn rỗi) sang người có nhu cầu đầu tư.
Cách đầu tư gián tiếp này mang lại cho chủ đầu tư (người gửi tiền) một khả năng an toàn
cao hơn và các chủ thể đang thiếu vốn


cũng được đáp ứng nhu cầu vay vốn về khối lượng, thời hạn một cách nhanh chóng
nhất. Trong khi đó, việc đầu tư trực tiếp gặp nhiều khó khăn do khó có được sự phù hợp


về khối lượng vốn và về thời gian, về lòng tin giữa các chủ thể (người có vốn và người
cần vay vốn). Sự xuất hiện của Ngân hàng Thương mại còn cung ứng cho thị trường hàng
loạt dịch vụ tiện ích như : dịch vụ thanh toán, chuyển tiền, dịch vụ tư vấn.

Với những vai trò hết sức quan trọng đó, toàn hệ thống Ngân hàng nói chung và
các Ngân hàng Thương mại nói riêng phải không ngừng đổi mới, đơn giản hóa các thủ
tục, hiện đại hóa công nghệ Ngân hàng. Đối với nền kinh tế chuyển đổi như Việt Nam
cần nhanh chóng xây dựng một hệ thống tài chính Ngân hàng hoàn chỉnh, vững mạnh để
tạo đà cho sự phát triển của nền kinh tế.


Với phương châm hoạt động là đi vay để cho vay, các Ngân hàng Thương mại đã
huy động được những nguồn vốn lẻ tẻ nhàn rỗi trong xã hội (từ các cá nhân, các hộ gia
đình, các Doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế ) tập trung thành một khối lượng vốn lớn và
cho vay linh hoạt đối với nền kinh tế.
Với chức năng trung gian tín dụng các Ngân hàng Thương mại đã góp phần tích
cực cho sự phát triển của nền kinh tế, góp phần đẩy nhanh tốc độ luân chuyển hàng hóa
và vòng quay vốn tiền tệ.

a.Tín dụng NH đáp ứng nhu cầu vốn để duy trì quá trình sản xuất kinh doanh
được liên tục, đồng thời góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế .

Do quá trình sản xuất kinh doanh trong xã hội là thường xuyên liên tục, do vậy
nhu cầu về vốn để đáp ứng cho sản xuất kinh doanh cũng nảy sinh thường xuyên với mức
độ cao. Đây là một vấn đề tồn tại song song, một mâu thuẫn cần giải quyết sao cho cả hai
bên cùng có lợi, tức là : bên cần vốn để sản xuất kinh doanh thì được thỏa mãn nhu cầu
về vốn với chi phí thấp nhất và bên có vốn nhàn rỗi thì phải thu được lợi từ nguồn vốn
đó. Tín dụng Ngân hàng đã ra đời làm trung gian để tạo điều kiện cho hai bên gặp nhau
và cùng thỏa mãn được nhu cầu của mình.



Việc phân phối lại tín dụng đã góp phần cung ứng và điều hòa vốn trong nền kinh
tế, làm cho quá trình sản xuất kinh doanh hoạt động một cách trôi chảy. Có thể nói, tín
dụng là “cầu nối” giữa tiết kiệm và đầu tư, là động lực kích thích tiết kiệm đồng thời là
phương tiện đáp ứng nhu cầu vốn cho đầu tư và phát triển nền kinh tế.

Thông qua tín dụng các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các tầng lớp dân



cư trong xã hội được tập trung lại và nguồn vốn đó sẽ được đầu tư trở lại vào quá trình
sản xuất kinh doanh. Điều này làm cho việc đầu tư vào nền kinh tế được mở rộng, góp
phần nâng cao sản lượng trong sản xuất kinh doanh, cải thiện đời sống người lao động,
kích thích phát triển tăng trưởng kinh tế. Tín dụng còn kích thích quá trình cạnh tranh của
nền kinh tế bằng cách tập trung vốn vào một ngành, một lĩnh vực nào đó để thúc đẩy các
ngành khác, lĩnh vực khác phải đẩy mạnh tập trung vốn, tăng cường huy động vốn để
tăng sức cạnh tranh. Có vốn thì các Doanh nghiệp (Xí nghiệp), các tổ chức kinh tế mới có
thể đầu tư cho việc thay đổi công nghệ mới từ đó để tăng năng suất lao động, cải thiện
cuộc sống của người lao động. Sự cạnh tranh sẽ đem lại cho nền kinh tế nhiều sản phẩm
mới với chất lượng tốt hơn, phong phú hơn về chủng loại để đáp ứng nhu cầu ngày càng
cao của xã hội.

Qua hoạt động tín dụng các Ngân hàng đã đáp ứng kịp thời nhu cầu về vốn của
các Doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế tư nhân và các cá thể, để họ có thể tăng cường cơ
sở vật chất - kỹ thuật làm quá trình sản xuất kinh doanh được tuần hoàn, thúc đẩy lưu
thông hàng hóa, tăng tốc độ chu chuyển vốn tiền tệ trong nền kinh tế quốc dân, góp phần
thúc đẩy quá trình tái sản xuất mở rộng.

b. Tín dụng Ngân hàng là công cụ mạnh mẽ để thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung
vốn sản xuất - kinh doanh :

Thông qua việc huy động vốn thu hút các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các Doanh
nghiệp và dân cư, từ đó đáp ứng nhu cầu vốn cho các đối tượng vay vốn. Điều này được thể hiện
ở việc tín dụng thu hút các nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức kinh tế, các cá nhân
trong xã hội. Từ nguồn vốn huy động đó cho vay đầu tư trở lại để phát triển kinh tế. Nguồn vốn
huy động đó được hình thành từ : nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi được giải phóng ra khỏi quá trình
sản xuất của các Doanh nghiệp nguồn vốn khấu hao được tiến hành dần dần, các khoản phải trả
nhưng chưa trả, phải nộp nhưng chưa nộp mà đơn vị đang nắm giữ. Nguồn vốn tiết kiệm của
dân cư, nguồn vốn này có được từ thu nhập của dân chúng được tích lũy phòng khi ốm đau, tai
nạn hoặc việc đột xuất, các khoản phải thu nhập khác như : của hồi môn, thừa kế tài sản chưa sử



dụng, nguồn vốn tiền tệ của những người kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ Ngân hàng. Thông
qua hoạt động tín dụng các nguồn vốn trên được tích tụ tập trung tại Ngân hàng từ đó đáp ứng
cho nhu cầu thiếu vốn của các đối tượng vay vốn.

Hoạt động sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế thị trường luôn luôn phải đáp ứng nhu
cầu ngày càng cao của xã hội như : đòi hỏi các sản phẩm hàng hóa được sản xuất ra phải có chất
lượng cao, mẫu mã đẹp, chủng loại phong phú, giá cả hợp lý. Điều này đòi hỏi các Doanh
nghiệp, các tổ chức kinh tế phải ra sức kinh doanh, hiện đại hóa máy móc thiết bị. Muốn thực
hiện được vấn đề này thì Doanh nghiệp phải có vốn và nhu cầu về vốn của các Doanh nghiệp
ngày càng tăng lên. Để giải quyết nhu


cầu về vốn một cách nhanh chóng và có hiệu quả thì tín dụng Ngân hàng là công cụ tốt
nhất, quan trọng nhất. Ngoài ra tín dụng Ngân hàng không chỉ đáp ứng nhu cầu về vốn của nền
kinh tế mà còn giúp các Doanh nghiệp phát huy được thế mạnh về lao động động kỹ thuật của
mình.

Tuy nhiên, quá trình đầu tư tín dụng không phải đầu tư rải đều cho mọi đối tượng có nhu
cầu về vốn mà việc đầu tư phải được thực hiện có trọng điểm, đầu tư được thực hiện một cách
tập trung chủ yếu cho các Doanh nghiệp, những công ty tư nhân, các cá thể hoạt động sản xuất
kinh doanh có hiệu quả, còn đối với các đối tượng khác, chủ thể khác thì đầu tư với một lượng
vốn ít hơn và nhất định.

Việc đầu tư tập trung có trọng điểm như vậy vừa bảo đảm, vừa tránh được rủi ro tín
dụng, vừa thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế.

c. Tín dụng Ngân hàng góp phần hoàn thiện hơn chế độ hạch toán kinh tế cho các Doanh
nghiệp :

Trong nền kinh tế thị trường, các Doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, được tự do phát triển,
hoạt động sản xuất kinh doanh dần tới sự đa dạng hóa các loại hình Doanh nghiệp, đồng thời
cũng làm tăng sự cạnh tranh giữa các Doanh nghiệp với nhau. Muốn đứng vững được trên
thương trường thì các Doanh nghiệp ngoài khả năng sẵn có của mình thì còn phải có khả năng
tốt về vốn, về điều kiện môi trường kinh doanh, trong đó khả năng về vốn là rất quan trọng.
Thông qua hoạt động tín dụng Ngân hàng vốn được chuyển dịch từ tay người này sang tay
người khác, khi nhu cầu vốn của các Doanh nghiệp được đáp ứng đã làm tăng sức cạnh tranh
cho các nhà kinh doanh. Như vậy tín dụng kích thích cạnh tranh trong nền kinh tế.

Khi các Doanh nghiệp sử dụng vốn vay của Ngân hàng thì phải có trách nhiệm hoàn trả
cả gốc và lãi đúng thời hạn ghi trên hợp đồng tín dụng, đồng thời cũng phải tôn trọng và thực
hiện đúng những điều khoản đã ghi trong hợp đồng, điều này đòi hỏi các Doanh nghiệp, các tổ
chức kinh tế, các tư nhân, các cá thể phải quan tâm đến việc sử dụng vốn làm sao cho có hiệu
quả, giảm bớt những chi phí không cần thiết, tăng nhanh vòng quay vốn nhằm sản xuất giá thành


sản phẩm.v.v để tạo điều kiện thuận lợi cho đơn vị. Muốn vậy các Doanh nghiệp phải tự khẳng
định mình thông qua hoạt động sản xuất kinh doanh của mình.

Trong đó một trong những hoạt động kinh doanh quan trọng nhất đó là công tác hạch
toán kinh tế, vì quá trình hạch toán kinh tế là quá trình quản lý đồng vốn sao cho có hiệu quả. Để
làm tốt công việc này thì hạch toán kinh tế phải giám sát chặt quá trình sử dụng vốn nhằm vào
đồng vốn phải được sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng để tạo ra lợi nhuận cao nhất cho
Doanh nghiệp. Điều này đòi hỏi các Doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế ngày càng hoàn thiện
hơn chế độ hạch toán kinh tế của Doanh nghiệp mình.

d. Hoạt động tín dụng Ngân hàng góp phần điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông và
kiểm soát lạm phát :

Qua quá trình cho vay khối lượng tiền trong lưu thông được tăng lên và khi Ngân hàng thu

nợ thì khối lượng tiền trong lưu thông giảm đi. Như vậy, hoạt động tín dụng Ngân hàng góp
phần điều tiết khối lượng tiền của toàn bộ nền kinh tế.

Tín dụng Ngân hàng thường sử dụng công cụ lãi suất để điều tiết quan hệ cung cầu tín
dụng, sự biến động của lãi suất có tác động làm thay đổi khối lượng tiền vay. Khi lãi suất tăng thì
khối lượng tiền vay sẽ giảm đi và ngược lại nếu lãi suất giảm xuống thì sẽ làm cho nhu cầu vay
vốn của các đối tượng tăng lên tức là khối lượng tiền vay sẽ tăng lên.

Khi Ngân hàng cho vay thường tính cho vay ở một hạn mức nhất định từ đó góp phần
khống chế khối lượng tiền vay. Đây cũng là một trong những biện pháp để điều tiết khối lượng
tiền, từ đó dần tới kiểm soát được lạm phát. Bởi vì, tín dụng Ngân hàng khi điều tiết được khối
lượng tiền tức là góp phần khống chế khối lượng tiền vừa đủ so với nhu cầu lưu thông hàng hóa
nhờ đó mà kiểm soát được giá cả. Khi giá cả tăng nhanh thì Ngân hàng tăng lãi suất để giảm
khối lượng tiền vay, từ đó giảm khối lượng tiền trong lưu thông, đồng thời kiểm soát được lạm
phát.



Vậy hoạt động tín dụng Ngân hàng đã góp phần điều tiết khối lượng tiền trong toàn bộ
nền kinh tế, đồng thời thông qua hoạt động tín dụng Ngân hàng cũng kiểm soát được lạm phát.

e. Tín dụng Ngân hàng góp phần mở rộng các quan hệ kinh tế Quốc tế :
Tín dụng Ngân hàng là một trong các giải pháp tốt để các nước tăng cường mối quan hệ
kinh tế Quốc tế. Khi quan hệ tín dụng được mở rộng sẽ kéo theo quan hệ đầu tư trong nền kinh
tế phát triển khiến cho các quan hệ Thương mại Quốc tế khác cũng phát triển theo, quan hệ tín
dụng là tiền đề, là cơ sở để thực hiện các quan hệ khác.

Thông qua quá trình nhận và cho vay tài trợ xuất nhập khẩu của các cấp tín dụng cũng
như các tổ chức tín dụng, cùng với sự tham gia trực tiếp vào quan hệ thanh toán Quốc tế, tín
dụng Ngân hàng đã làm tăng mối quan hệ tốt đẹp giữa các nước với nhau, đồng thời thúc đẩy

hoạt động xuất nhập khẩu, thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển từ đó một lần nữa thúc đẩy sự
tăng trưởng kinh tế.

Như vậy, thông qua các hoạt động của mình tín dụng Ngân hàng có những ảnh hưởng rất
lớn đến sự phát triển chung của toàn bộ nền kinh tế. Ngoài ra, tín dụng Ngân hàng còn góp phần
thực hiện tốt các chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước đề ra, đồng thời nó cũng là một yếu
tố cơ bản giúp cho toàn bộ hệ thống Ngân hàng đứng vững và phát triển.

2. Vai trò của tín dụng trong hoạt động kinh doanh của NH Thương mại :
Hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu của Ngân hàng Thương mại, nó quyết định cho
sự tồn tại và phát triển của một Ngân hàng trong nền kinh tế thị trường. Hoạt động tín dụng
mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho một Ngân hàng Thương mại.
Trong nền kinh tế thị trường, Ngân hàng Thương mại đóng vai trò quan trọng trong sự
phát triển kinh tế thị trường, là trung gian chuyển vốn từ người thừa vốn sang người thiếu vốn để
đầu tư. Ngay từ buổi ban đầu hoạt động của Ngân hàng Thương mại đã tập trung chủ yếu vào
nghiệp vụ nhận tiền gửi và cho vay để đáp ứng nhu cầu thiếu hụt về vốn của các Doanh nghiệp,
các tổ chức kinh tế trong quá trình sản xuất - kinh doanh hoặc nhu cầu tiêu dùng cá nhân. Trong
quá trình phát triển mặc dù môi trường kinh doanh có nhiều thay đổi, nhiều phương pháp, nhiều


công cụ kinh doanh mới xuất hiện nhưng hoạt động tín dụng vẫn là hoạt động cơ bản, chiếm tỉ
trọng lớn trong toàn bộ các hoạt động của Ngân hàng Thương mại. Bởi hoạt động cho vay chiếm
tỉ trọng chủ yếu trong tổng tài sản có của các Ngân hàng Thương mại, lãi thu được từ hoạt động
tín dụng thường chiếm tỉ trọng lớn trong tổng thu nhập Ngân hàng Thương mại, ở nước ta trong
giai đoạn hiện nay chiếm khoảng 90% tổng thu nhập. Điều này thể hiện rõ hoạt động tín dụng là
hoạt động kinh doanh chủ yếu của các Ngân hàng Thương mại.

Cùng với sự phát triển kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng ngày càng được phát triển
một cách đa dạng với sự tham gia của nhiều chủ thể kinh tế, theo đó quan hệ tín dụng cũng được
mở rộng cả về đối tượng và quy mô làm cho hoạt động tín dụng Ngân hàng ngày càng đa dạng

và phức tạp hơn. Để Ngân hàng Thương mại có thể đứng vững trong điều kiện cạnh tranh ngày
càng gay gắt và phục vụ nền kinh tế ngày càng tốt hơn, đòi hỏi : các Ngân hàng Thương mại
phải luôn làm tốt các chức năng nhiệm vụ của mình.

3. Đặc điểm của tín dụng Ngân hàng :
Tín dụng Ngân hàng là một hình thức vốn tín dụng bằng tiền tệ thể hiện mối quan hệ
giữa các tổ chức tín dụng với các Doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong xã hội.

* Tín dụng Ngân hàng có những đặc điểm :
- Vốn tín dụng Ngân hàng là vốn bằng tiền tệ, vốn đó đã tách ra khỏi quá trình
tuần hoàn của Tư bản hoạt động.
- Chủ thể cho vay trong quan hệ tín dụng Ngân hàng là những tổ chức chuyên kinh
doanh tiền tệ, tín dụng đóng vai trò vừa là người đi vay, vừa là người cho vay.
- Sự vận động của tín dụng Ngân hàng nó không hoàn toàn phù hợp với sự vận
động của quá trình sản xuất kinh doanh, nó mang tính chất độc lập, tương đối, tín dụng
Ngân hàng không hạn chế về quy mô, chủ thể trong quan hệ tín dụng Ngân hàng là
những người chuyên kinh doanh tiền tệ, tín dụng. Họ có khả năng thu hút khối lượng vốn
lớn về tiền tệ để cho vay. Tín dụng Ngân hàng không hoàn toàn hạn chế về mặt thời gian
vì khối lượng vốn lớn, Ngân hàng có thể cho vay với thời gian dài.


- Vốn tín dụng Ngân hàng là vốn tiền tệ cho nên Ngân hàng có thể đầu tư cho bất
kỳ ngành kinh tế nào trên cơ sở đảm bảo các điều kiện vay vốn. Kinh doanh tiền tệ là
hoạt động mua bán tiền tệ. Sản phẩm của Ngân hàng cũng là tiền tệ, một khi tiền đã được
đem bán thì khách hàng được toàn quyền sử dụng nó. Song khác với thứ hàng hóa thông
thường là ở chỗ quyền sở hữu tiền vẫn thuộc về phía Ngân hàng. Vì vậy sự rủi ro thất
thoát trong hoạt động tín dụng vẫn là nguy cơ thường xuyên, thường trực. Khi Ngân hàng
bỏ vốn ra vay nhưng chưa thu hồi vốn về đúng hạn cần thấy rõ đặc điểm này trong hoạt
động kinh doanh Ngân hàng thì mới hiểu được vị trí vai trò của tín dụng Ngân hàng trong
cơ chế thị trường với chức năng là đi vay để cho vay. Do vậy phải có môi trường đồng bộ

về mọi nặt kinh tế - chính trị - xã hội, pháp luật, kỹ thuật hành chính để Ngân hàng phát
huy đúng vai trò (bù đỡ) thúc đẩy nền kinh tế thị trường hiện nay ngày càng phát triển.

II/. Vai trò, nhiệm vụ của kế toán cho vay :
Tín dụng là một trong những nghiệp vụ cơ bản trong hoạt động kinh doanh Ngân
hàng nhằm bổ xung vốn cho các đơn vị, các tổ chức kinh tế, các doanh nghiệp, các cá
nhân thiếu vốn trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Xét về mặt quan hệ pháp lý thì toàn bộ số tiền của Ngân hàng , các tổ chức tín
dụng đối với khách hàng phản ánh số nợ mà người vay nhận nợ với khách hàng và hoàn
trả trong thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng gồm cả gốc và lãi. Tính pháp lý
của những khoản nợ này được thể hiện trên chứng từ kế toán cho vay đã được pháp luật
thừa nhận.
Kế toán cho vay là công việc tính toán và ghi chép bằng con số tất cả các nghiệp
vụ cho vay, thu nợ, thu lãi thuộc hoạt động tín dụng Ngân hàng. Qua đó góp phần nâng
cao hoạt động tín dụng Ngân hàng, tăng thu nhập của Ngân hàng và bảo vệ an toàn tài
sản của Ngân hàng cũng như của xã hội mà Ngân hàng đang chiếm giữ, sử dụng.

1. Vai trò của kế toán cho vay :
Trong toàn bộ nghiệp vụ kế toán Ngân hàng thì kế toán cho vay được xác định là
nghiệp vụ kế toán phức tạp và quan trọng nhất, vì nó được xuất phát từ vị trí vai trò của
công tác tín dụng Ngân hàng. Đây là nghiệp vụ bên có sinh lời chủ yếu chiếm tỉ trọng lớn


nhất trong tổng tài sản có của Ngân hàng.

Hoạt động tín dụng Ngân hàng là một trong những mặt hoạt động cơ bản nhất của
Ngân hàng đi đôi với hoạt động tín dụng kế toán cho vay, nó là bộ phận góp phần bảo vệ
an toàn vốn mà Ngân hàng đã đầu tư cho các thành phần kinh tế, các thành phần kinh tế
được vay vốn thể hiện ở số dư trên tài khoản tiền vay tại Ngân hàng thông qua việc tổ
chức, ghi chép phản ánh một cách đầy đủ chính xác, kịp thời các khoản cho vay, thu nợ,

chuyển nợ quá hạn. Đồng thời theo dõi giám sát chặt chẽ dư nợ đảm bảo an toàn vốn.
Kế toán cho vay phục vụ đắc lực trong việc chỉ đạo chấp hành chính sách tiền tệ
tín dụng của Đảng và Nhà nước trong nền kinh tế thị trường với cơ chế tiền tệ tín dụng
như hiện nay. Ngân hàng là cơ quan chuyên môn được giao nhiệm vụ tổ chức thực hiện
như Ngân hàng đã áp dụng mức lãi suất đối với các thành phần kinh tế có vốn hoạt động
phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh được kịp thời. Kế toán cho vay làm tham mưu
đắc lực cho công tác tín dụng để tín dụng thực sự trở thành đòn bẩy kinh tế cũng như
Giám đốc bằng tiền với toàn bộ hoạt động nền kinh tế quốc dân.

Xuất phát từ vị trí vai trò quan trọng của kế toán cho vay, kế toán cho vay đã sử
dụng các công cụ khác nhau để ghi chép phân loại, kế toán cho vay có vị trí quan trọng
không những đối với công tác tín dụng mà còn có quan hệ mật thiết với các hoạt động
khác của Ngân hàng. Vì vậy để đáp ứng yêu cầu tín dụng trong giai đoạn hiện nay thì kế
toán cho vay là một nghiệp vụ không thể thiếu được.

2. Nhiệm vụ của kế toán cho vay :
Kế toán cho vay là một nghiệp vụ phong phú đa dạng và phức tạp, đòi hỏi kế toán
cho vay phải phù hợp với loại nghiệp vụ này để hoạt động được diễn ra một cách thường
xuyên liên tục và có hiệu quả. Đồng thời để đảm bảo được việc sử dụng hợp lý tiền vốn,
việc cho vay thu nợ đúng chế độ, chấp hành nghiêm túc kỷ luật tài chính.
Kế toán cho vay là công cụ tính toán ghi chép phản ánh đầy đủ, kịp thời, chính xác
các nghiệp vụ kinh tế phát sinh về cho vay thu nợ thuộc nghiệp vụ tín dụng của Ngân
hàng theo thứ tự thời gian từng đối tượng cho vay bằng giá trị tiền tệ. Qua đó phản ánh


tình hình huy động vốn và sử dụng vốn nhằm giúp cho các mặt hoạt động đó thực hiện
có hiệu quả. Vì vậy, đảm bảo cho nghiệp vụ kế toán cho vay được thường xuyên liên tục,
đảm bảo an toàn tài sản và hiệu quả cao thì kế toán cho vay phải thực hiện tốt các nhiệm
vụ sau :
* Phải kiểm soát chặt chẽ hồ sơ chứng từ cho vay, đảm bảo đầy đủ tính pháp lý

của khoản vay, đảm bảo khoản vay cho phù hợp với tỉ lệ tín dụng nhằm bảo vệ an toàn
vốn cho vay, bảo đảm khả năng thu hồi đầy đủ cả vốn và lãi ngay từ khâu phát tiền vay.
* Ghi chép phản ánh kịp thời, đầy đủ, chính xác nghiệp vụ kinh tế phát


sinh trong quá trình cho vay thu nợ, theo dõi chặt chẽ kỳ hạn trả nợ để thông báo nợ đến
hạn, phối hợp với cán bộ tín dụng thu nợ đến hạn, thu lãi kịp thời đầy đủ và chính xác thu
lãi theo đúng mức lãi suất đã được ghi trên hồ sơ vay trên cơ sở đảm bảo an toàn vốn.

* Theo dõi thu hồi các khoản nợ đến hạn, chuyển trả nợ quá hạn kịp thời đối với
các khoản nợ đến hạn mà khách hàng chưa trả và không được gia hạn.
* Quản lý hồ sơ vay vốn chặt chẽ, sắp xếp hồ sơ phải khoa học, ngăn nắp, dễ tìm,
dễ thấy, dễ lấy. Cuối tháng sao kê khế ước đối chiếu với số dư trên tài khoản phải khớp
đúng giữa sao kê với số dư trên sổ phụ nếu có sai sót thì phải tìm nguyên nhân và chỉnh
sửa ngay.

Như vậy, nghiệp vụ kế toán cho vay cùng với các nghiệp vụ kế toán Ngân hàng
khác thông qua hoạt động của mình giúp Ngân hàng vừa thực hiện chức năng kinh doanh,
vừa cung ứng vốn cho nền kinh tế. Với vai trò quan trọng đó hệ thống kế toán Ngân hàng
phải được hoàn thiện hơn nữa để đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của Ngân hàng nói riêng và
toàn bộ nền kinh tế nói chung.

3. Chứng từ và tài khoản của kế toán cho vay :
Tín dụng là một trong những nghiệp vụ cơ bản trong hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng nhằm bổ sung vốn cho các đơn vị, các tổ chức kinh tế, các Doanh nghiệp, các
cá nhân trong hoạt động sản xuất - kinh doanh.

a. Chứng từ kế toán cho vay :
Xét về mặt quan hệ kinh tế pháp lý thì toàn bộ số tiền của Ngân hàng, các tổ chức
tín dụng cho vay đối với khách hàng phản ánh số nợ mà người vay nhận nợ với Ngân

hàng và phải trả trong những kỳ hạn nhất định gồm cả gốc và lãi. Tính pháp lý của các
khoản nợ này được thể hiện trên các chứng từ của kế toán cho vay đã được pháp luật thừa
nhận, chứng từ làm trong kế toán cho vay là những loại giấy tờ làm đảm bảo về mặt pháp
lý các khoản cho vay của Ngân hàng, mọi sự tranh chấp về các khoản cho vay, thu nợ hay
trả nợ đều được giải quyết trên cơ sở là các chứng từ kế toán cho vay.


* Chứng từ kế toán cho vay có hai loại :
- Chứng từ gốc bao gồm : đơn xin vay, hợp đồng tín dụng, giấy nhận nợ, sổ vay
vốn
- Chứng từ ghi sổ là : những giấy tờ làm căn cứ cho việc hạch toán cho vay, thu
nợ, chuyển nợ gồm có phiếu chi, giấy lĩnh tiền mặt (nếu cho vay bằng tiền mặt), các
chứng từ thanh toán không dùng tiền mặt như : ủy nhiệm thu, ủy nhiệm chi, các bảng kê,
phiếu chuyển khoản
Trong quan hệ tín dụng đòi hỏi phải có đầy đủ tính pháp lý nếu không


quan hệ tín dụng sẽ không còn là quan hệ tín dụng. Tính pháp lý trong quan hệ tín dụng
được thể hiện trong các chứng từ kế toán.

Đơn xin vay là chứng từ đầu tiên thể hiện mối quan hệ tín dụng, loại chứng từ này
không thể hiện tính pháp lý đầy đủ trong quan hệ tín dụng mà còn trong phương thức cho
vay nào đó của Ngân hàng, nó chỉ là chứng từ để theo dõi kế hoạch phát tiền vay giữa
Ngân hàng và người đi vay; kế hoạch phát tiền vay được hoàn thành thì đơn xin vay cũng
hết hiệu lực và không được lưu riêng để theo dõi.

- Hợp đồng tín dụng thường được áp dụng trong phương thức cho vay nào
đó.
- Giấy nhận nợ - khế ước vay tiền thường được áp dụng trong phương thức cho
vay từng lần (từng dự án hoặc từng món).


Hai loại chứng từ gốc này đều mang tính pháp lý trong quan hệ tín dụng.

b. Tài khoản kế toán cho vay :

Tài khoản phản ánh nghiệp vụ cho vay thuộc nhóm tài khoản tài sản có trong bảng
tổng kết tài sản của Ngân hàng (nghiệp vụ bên có) nó dùng để ghi chép, phản ánh toàn bộ
số tiền cho vay của Ngân hàng đối với người đi vay, đồng thời cũng là công cụ dùng để
ghi chép phản ánh số tiền người vay trả nợ Ngân hàng theo những kỳ hạn nhất định. Việc
mở các tài khoản cho vay trong hệ thống các tài khoản kế toán Ngân hàng tới mức độ nào
tùy thuộc vào yêu cầu chỉ đạo các nghiệp vụ tín dụng của từng Ngân hàng, phục vụ kinh
tế từng thời kỳ nhất định.

Tài khoản kế toán cho vay theo hệ thống tài khoản kế toán các tổ chức tín dụng ban
hành theo Quyết định số : 435/1998/QĐ.NHNN ngày 25/12/1998 bao gồm các tài khoản cấp
một và tài khoản cấp hai sau :



Tài khoản 20 : tín dụng với các tổ chức tín dụng trong nước
Tài khoản 21 : cho vay các tổ chức kinh tế và các cá nhân trong nước
Tài khoản 211 : cho vay ngắn hạn bằng VND
Tài khoản 212 : cho vay trung hạn bằng VND
Tài khoản 213 : cho vay dài hạn bằng VND
Tài khoản 214 : cho vay ngắn hạn bằng ngoại tệ

* Tính chất kết cấu của tài khoản cho vay :
Bên nợ : - ghi số tiền Ngân hàng cho khách hàng vay.



Bên có : - ghi số tiền Ngân hàng thu nợ
- Số tiền chuyển vào tài khoản thích hợp xử lý (đối với tài khoản không
thu hồi được).
Dư nợ : phản ánh số tiền người vay còn nợ Ngân hàng đến một thời điểm nào đó.

Trong quan hệ tín dụng giữa người vay và Ngân hàng không phải bao giờ người
vay cũng trả nợ Ngân hàng đúng kỳ hạn. Trường hợp đến hạn trả nợ người vay không đủ
khả năng trả và cũng không được Ngân hàng cho gia hạn nợ thì số nợ đó phải chuyển
sang tài khoản nợ quá hạn để theo dõi thu hồi với mức lãi suất cao hơn lãi suất cho vay
bình thường.

* Tính chất kết cấu của tài khoản nợ quá hạn : là mở theo loại nợ quá hạn và thời
gian quá hạn.

- Tài khoản nợ quá hạn tới 180 ngày
- Tài khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày
- Tài khoản nợ khó đòi

Bên nợ : - ghi số tiền chuyển nợ quá hạn (từ tài khoản tiền vay)
Bên có : - ghi số tiền thu nợ quá hạn.
- số tiền được điều chỉnh lại kỳ hạn (chuyển sang tài khoản cho vay).
Dư nợ : phản ánh số nợ quá hạn mà khách hàng chưa trả.

Mỗi đơn vị hay cá nhân có nợ quá hạn Ngân hàng mở một tài khoản phân tích để
theo dõi, thu hồi.

Ngoài ra nghiệp vụ kế toán cho vay còn mở thêm một tài khoản ngoại bảng (sổ
theo dõi) để theo dõi các chứng từ có giá trị như : hồ sơ tài sản thế chấp, cầm cố, theo dõi
các khoản nợ không thu hồi được đã được xử lý nhưng phải theo dõi để thu hồi khi có
khả năng và theo dõi lãi vay chưa thu.




III/. Kế toán các phương thức cho vay :

1. Các phương thức cho vay theo quyết định 248của NH Nhà nước :

Quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng với các tổ chức kinh tế, các tư nhân bao gồm :
tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung hạn và tín dụng dài hạn.

Tín dụng ngắn hạn nhằm bổ xung vốn lưu động cho các đơn vị, các tổ chức kinh tế
có đủ vốn cần thiết để thực hiện kế hoạch sản xuất - kinh doanh với thời hạn dưới 1 năm.
Tín dụng trung hạn và tín dụng dài hạn cung cấp vốn đầu tư cơ bản hoặc cải tiến
kỹ thuật, nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh cho các đơn vị.

Mỗi loại tín dụng có nội dung kinh tế và yêu cầu kỹ thuật nghiệp vụ riêng,
từ đó việc tổ chức hạch toán kế toán cho vay cũng phải có kỹ thuật nghiệp vụ thích
hợp. Cho vay đối với các tổ chức kinh tế tư nhân hiện nay theo Quyết định :
248/2000/QĐ.NHNN1 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ngày
25/08/2000 về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách
hàng áp dụng 8 phương thức cho vay. Tùy mỗi phương thức mà người ta có cách
sử dụng từng loại tài khoản phản ánh nghiệp vụ cho vay riêng để theo dõi các món
vay.

* Cụ thể của 8 phương thức là :
 Phương thức cho vay từng lần
 Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng
 Phương thức cho vay theo dự án đầu tư
 Phương thức cho vay hợp vốn
 Phương thức cho vay trả góp

 Phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng
 Phương thức cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng


 Các phương thức cho vay khác phù hợp với quy chế này và các quyết định
khác của Ngân hàng Nhà nước .
Mỗi phương thức cho vay đều có đặc điểm riêng phù hợp với từng đối
tượng và nội dụng nhất định trong quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng và khách hàng.
Tuy nhiên cũng như các Ngân hàng Thương mại khác, hiện nay Ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn cũng áp dụng chủ yếu phương thức cho vay
từng lần và phương thức cho vay theo hạn mức tín dụng.

2. Khái quát cơ chế kế toán cho vay :

2.1. Hồ sơ chứng từ kế toán cho vay :
Trong Quyết định 248/2000/QĐ.NHNN1 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với
khách hàng đã quy định rõ như sau :
* Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng phải gửi cho tổ chức tín dụng các
giấy tờ sau :
- Giấy đề nghị vay vốn : giấy này phải có đầy đủ các nội dung cơ bản sau
+ Tên khách hàng vay



+ Địa chỉ khách hàng vay
+ Số tiền khách hàng cần vay
+ Mục đích khách hàng vay vốn
+ Các cam kết sử dụng tiền vay
+ Trả nợ vay

+ Trả lãi và các cam kết khác
- Các tài liệu cần thiết chứng minh đủ điều kiện vay vốn như :
+ Năng lực pháp luật .
+ Năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của
pháp luật .
+ Có khả năng đảm bảo tài chính để trả nợ trong thời hạn cam kết
+ Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp
Khách hàng phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác và hợp
pháp của các tài liệu gửi cho tổ chức tín dụng.

* Tổ chức tín dụng quy định cụ thể các loại tài liệu khách hàng cần gửi phù
hợp với đặc điểm cụ thể loại cho vay theo quy định tại khoản 1.1 (trên).
Tùy theo từng loại hình khách hàng và phương thức cho vay thì một bộ hồ
sơ bao gồm :

a. Hồ sơ do khách hàng cùng Ngân hàng lập : đó là
- Hợp đồng tín dụng, sổ vay vốn
- Hợp đồng đảm bảo tiền vay

* Hồ sơ do khách hàng cung cấp : khi có nhu cầu vay vốn thì khách hàng
gửi đến Ngân hàng nơi cho vay các giấy tờ sau :

Đối với pháp nhân và tư nhân :
- Hồ sơ pháp lý : (khi thiết lập quan hệ vay vốn)


Tùy theo từng loại hình pháp nhân. Doanh nghiệp tư nhân, lĩnh vực ngành
nghề kinh doanh có các giấy tờ sau :
+ Quyết định hoặc giấy phép thành lập Doanh nghiệp
+ Điều lệ Doanh nghiệp (trừ Doanh nghiệp tư nhân)

+ QĐ bổ nhiệm Tổng Giám đốc (Giám đốc), kế toán trưởng
+ Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
+ Giấy phép hành nghề
+ Giấy phép tư nhân (đối với Doanh nghiệp liên doanh)
+ Quyết định vay vốn và các văn bản bàn giao tài sản và các tài sản Nhà
nước tại Doanh nghiệp (nếu là Doanh nghiệp Nhà nước).
+ Biên bản góp vốn, danh sách thành viên sáng lập (đối với công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn).
+ Hồ sơ dự án đối với cho vay trung hạn và dài hạn.
+ Các giấy tờ khác cần thiết theo quy định của NH như :
. Đăng ký mẫu dấu.
. Chữ ký của chủ tài khoản hoặc người được ủy quyền.
. Đăng ký chữ ký của cán bộ giao dịch với NH .
. Đăng ký chữ ký mở tài khoản tiền gửi (nếu chưa mở).
- Hồ sơ kinh tế bao gồm :
+ Kế hoạch sản xuất - kinh doanh trong kỳ.
+ Bảng cân đối kế toán, kết quả kinh doanh kỳ trước (liền kề)
+ Báo cáo thực hiện kế hoạch sản xuất - kinh doanh kỳ trước (liền kề)
- Hồ sơ vay vốn : (cho mỗi lần vay hoặc một hợp đồng tín dụng) bao gồm :
+ Giấy đề nghị vay vốn
+ Dự án, phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ đời sống
+ Bản sao hợp đồng mua hàng hoặc báo giá
+ Phiếu nhập kho, các chứng từ thanh toán (nếu có)
Đối với khách hàng vay vốn lần đầu, từ lần vay thứ hai chỉ cần bổ sung các
tài liệu thay đổi.

×