Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

LUẬN VĂN: Tín dụng trung, dài hạn ở Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá - Thực trạng và giải pháp potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (771.75 KB, 86 trang )












LUẬN VĂN:

Tín dụng trung, dài hạn ở Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá - Thực
trạng và giải pháp








Lời nói đầu

Sự đổi mới hoạt động đầu tư và nâng cao hiệu quả của hoạt động này trong thời kỳ
đất nước ta đang tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng, vừa là yêu cầu thực tế khách quan, vừa mang tính cấp bách đảm bảo
cho nền kinh tế nước ta phát triển. Trong chiến lược phát triển kinh tế, Đảng ta đã chỉ rõ
“Chính sách tài chính quốc gia hướng vào lĩnh vực tạo vốn, sử dụng vốn có hiệu quả


trong toàn xã hội, tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân ” Thực hiện chủ
trương đó và nhằm đổi mới cơ chế quản lý trong lĩnh vực đầu tư, năm 1989 Chính phủ đã
có chủ trương về xoá bỏ bao cấp trong đầu tư xây dựng cơ bản, tất cả những dự án sản
xuất kinh doanh có khả năng thu hồi vốn trực tiếp đều phải vay vốn tín dụng để đầu tư
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã được Nhà nước giao cho thực hiện việc cho
vay các công trình xây dựng cơ bản theo kế hoạch Nhà nước (từ năm 1995 đến nay việc
cho vay đầu tư phát triển theo kế hoạch Nhà nước còn có thêm Tổng cục đầu tư và Phát
triển nay là Quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia và các Ngân hàng thương mại khác thực hiện).
Thực hiện hoạt động tín dụng đầu tư đối với các dự án là một trong những mục
tiêu quan trọng hàng đầu trong định hướng hoạt động của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
nói chung, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá nói riêng. Trên cơ sở Nghị định
của Chính phủ và thể lệ tín dụng trung và dài hạn của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển chủ trương cho các doanh nghiệp trong và
ngoài quốc doanh vay vốn tín dụng trung, dài hạn để đầu tư các dự án trong lĩnh vực sản
xuất kinh doanh, dịch vụ theo định hướng phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước, địa
phương trong từng thời kỳ. Từ 1995, ngoài các dự án được giao trong kế hoạch, Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển còn chủ động huy động vốn dài hạn và tìm các dự án có hiệu
quả để đầu tư.
Với chức năng nhiệm vụ được giao, trong những năm qua, Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Thanh Hoá đã và đang tích cực, chủ động, linh hoạt sử dụng các nguồn vốn
khác nhau để xem xét cho vay các dự án trung, dài hạn trên nhiều lĩnh vực thuộc các
ngành kinh tế khác nhau trong tỉnh với khối lượng tín dụng hàng nghìn tỷ đồng. Phần lớn
các dự án được Ngân hàng Đầu tư và Phát triển cho vay, sau khi hoàn thành đi vào hoạt
động đã phát huy có hiệu quả, đáp ứng một phần nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế trong sự
nghịêp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần vào việc tăng trưởng của nền
kinh tế, kiềm chế lạm phát và giải quyết việc làm cho người lao động. Song, cũng có
công trình, dự án khi đi vào hoạt động kém hiệu quả, thậm chí không phát huy được hiệu
quả như dự kiến, dẫn tới nợ quá hạn kéo dài ảnh hưởng tới hoạt động của Ngân hàng và
nền kinh tế. Điều này sẽ dẫn đến làm chậm sự hoà nhập nền kinh tế của Việt Nam với các
nước trong khu vực và trên thế giới.

Vậy, làm như thế nào để hoạt động của tín dụng trung, dài hạn có hiệu quả góp
phần đáp ứng được nhu cầu đỏi hỏi của nền kinh tế và mang lại thu nhập cho Ngân hàng.
Qua tìm hiểu thực tế tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá, với sự hiểu biết của
mình bản luận văn này tôi xin trình bày “Tín dụng trung, dài hạn ở Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Thanh Hoá - Thực trạng và giải pháp” phạm vi đề tài này nghiên cứu
trong thời gian từ năm 1996 đến 2000 và được bố cục theo các nội dung sau :
Chương I: Đầu tư và Tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng đối với nền kinh tế.
Chương II : Thực trạng tín dụng trung , dài hạn của NHĐầu tư và Phát triển Thanh
Hoá.
Chương III: Một số đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao chất lương tín dụng trung, dài
hạn.








trung, dài hạn của Ngân hàng
đối với nền kinh tế

Theo giác độ kinh tế: Đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn và tài nguyên trong
một thời gian tương đối dài nhằm mục đích thu về lợi nhuận và các lợi ích kinh tế xã hội
khác.
Đầu tư có hai dạng: Đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp, ở đây ta nghiên cứu đầu tư
gián tiếp tức là đầu tư bằng phương thức tín dụng. Đầu tư gián tiếp là đầu tư trong đó
người bỏ vốn không trực tiếp tham gia quản lý, điều hành quá trình thực hiện và phân
phối kết quả đầu tư.
I/ Vai trò, đặc trưng của Đầu tư

1- Vai trò của đầu tư :
- Đầu tư cơ bản là nhân tố quan trọng, nó quyết định trình độ phát triển của mỗi nước.
Khi đầu tư đúng hướng, có hiệu quả sẽ làm tăng sản phẩm xã hội, thu nhập quốc dân,
tăng trưởng nền kinh tế. Đầu tư có tác dụng cải biến cơ cấu kinh tế, nó tạo ra một cơ cấu
kinh tế hợp lý, khai thác tiềm năng thế mạnh của các thành phần kinh tế và của từng địa
phương, từng vùng. Thông qua việc đầu tư để xây dựng mới rồi mở rộng qui mô sản xuất,
công suất, ứng dụng, công nghệ mới để không ngừng phát triển, nâng cao TSCĐ. Tạo
điều kiện căn bản để có thể tăng được GDP trong thời kỳ sau. Do đó đầu tư ban đầu cho
hiện tại là quyết định cho việc phát triển ở tương lai.
- Đầu tư là công cụ để Nhà nước điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo ngành. Cơ cấu
kinh tế theo ngành là tỷ trọng GDP của mỗi ngành sản xuất xã hội trong tổng số GDP
toàn quốc. Gồm 3 lĩnh vực chính:
+ Ngành công nghiệp
+ Ngành nông nghiệp
+ Ngành dịch vụ
Năng suất lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ thường cao hơn nhiều so
với ngành nông nghiệp. Do đó nếu tỷ trọng của ngành nông nghiệp chiếm đa số, phần lớn
trong nền kinh tế quốc dân thì GDP sẽ tăng chậm, dẫn đến tình trạng lạc hậu so với các
ngành khác. Vì vậy điều chỉnh cơ cấu kinh tế hiện nay là giảm tỷ trọng nông nghiệp trong
GDP nhưng số tuyệt đối vẫn phải tăng lên. Để thực hiện được điều này thì Nhà nước có
thể sử dụng nhiều công cụ khác nhau như: Công cụ tài chính, chính sách thuế, chính sách
tiền tệ. Lãi suất và đặc biệt là thông qua cơ cấu đầu tư cho từng ngành.
- Đầu tư cơ bản tạo điều kiện mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Đối với mỗi quốc
gia, mỗi khu vực trên thế giới có thế mạnh riêng về vốn, về tài nguyên, về lao động, khoa
học kỹ thuật và công nghệ. Sự phân bố này là khồng đều. Để khai thác thế mạnh mỗi bên
thì hiện nay xu hướng trên thế giới các quốc gia liên kết với nhau trong hoạt động đầu tư
quốc tế, tạo nên những dự án khai thác thế mạnh của mỗi bên. Qua đó các nước giàu có
được tài nguyên để sử dụng, có nơi sử dụng vốn đầu tư với khả năng sinh lợi cao hơn. Có
thể bán hay chuyển giao công nghệ kỹ thuật, có thị trường tiêu thụ sản phẩm rộng lớn.
Đối với những nước nghèo, chậm phát triển thì khai thác được tài nguyên của mình để

phát triển kinh tế tạo ra được nhiều việc làm. học tập được các kỹ thuật, công nghệ tiên
tiến và kinh nghiệm quản lý theo cơ chế thị trường
Đối với nước ta là một trong số các nước chậm phát triển trên thế giới, sản xuất
nông nghiệp là chủ yếu, cơ sở hạ tầng yếu kém, trình độ sản xuất, quản lý còn lạc hậu, cơ
cấu kinh tế chưa hợp lý để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước vai trò của
đầu tư có vị trí rất quan trọng. Nó tạo nên sự phát triển của đất nước, tạo được việc làm
cho người lao động, tăng thu nhập quốc dân v.v Qua đầu tư giúp cho các doanh nghiệp
có trách nhiệm hơn trong sản xuất kinh doanh, từng bước nâng cao trình độ quản lý, tiếp
thu công nghệ, khoa học kỹ thuật tiên tiến và phải tìm mọi biện pháp xây dựng phương
án kinh doanh có hiệu quả. Phải tìm đối tác, khách hàng và có chiến lược phát triển đúng
hướng để giải quyết được 3 vấn đề căn bản của thị trường là: Sản xuất cái gì, số lượng và
chất lượng sản phẩm như thế nào, và bán ở đâu? Nói tóm lại qua đầu tư các doanh nghiệp
phải xác định và thực hiện các biện pháp, phương án kinh doanh có hiệu quả.
2- Đặc trưng của đầu tư:
- Tính sinh lời là đặc trưng hàng đầu của mọi hoạt động đầu tư, nhất là đầu tư
trong sản xuất kinh doanh.
- Đầu tư diễn ra trong thời gian dài, gồm nhiều giai đoạn, nhiều bước. Do vậy nó
làm cho một khối lượng đầu tư bị ứ đọng trong công trình và chưa phát huy được hiệu
quả khi công trình chưa đi vào sử dụng.
- Đầu tư mang tính rủi ro cao.
- Đầu tư đòi hỏi khối lượng vốn rất lớn, thời gian thực hiện đầu tư lại kéo dài cho
nên tiềm ẩn rất nhiều các rủi ro như:
+ Rủi ro do các yếu tố tự nhiên
+ Rủi ro do các yếu tố về kinh tế thị trường như: Lạm phát, suy thoái kinh tế, sự
cạnh tranh quá mạnh trên thị trường.
+ Rủi ro do thanh toán quốc tế như tỷ giá đồng tiền thay đổi.
Trong bài viết này tôi xin phép đi sâu vào tín dụng đầu tư của Ngân hàng.
II/ Tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng thương mại đối với nền kih tế
1- Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế thị trường:
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu,

thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng và cho khách hàng vay vốn để sản xuất
kinh doanh. Mục đích hoạt động của Ngân hàng thương mại là để thu lợi nhuận.
Từ các hoạt động Ngân hàng truyền thống đến các hoạt động Ngân hàng hiện đại, từ
hoạt động chủ yếu nằm trong bảng tổng kết tài sản nội bảng đến việc mở rộng các hoạt
động ra ngoài bảng tổng kết tài sản tất cả đều diễn ra trong một môi trường cạnh tranh
ngày càng sâu sắc và khốc liệt, không phải trong phạm vi từng nước, từng khu vực mà
còn trải rộng ra một không gian rộng lớn hơn nhiều. Ngân hàng thương mại làm nhiệm vụ
bơm vốn từ người cho vay sang người đi vay. ở đây Ngân hàng thương mại không chỉ
huy động vốn phần lớn dưới hình thức ngấn hạn và cho vay ngấn hạn, mà do thị trường
tiền tệ ngày càng phát triển các Ngân hàng thương mại đi vào kinh doanh tổng hợp, đa
năng, làm cả nghiệp vụ huy động vốn và cho vay trung, dài hạn và làm tất cả các nghiệp
vụ và dịch vụ ngân hàng. Với sự toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế, cùng với quá
trình đổi mới và mở cửa của nền kinh tế nước ta với thế giới bên ngoài đã và đang đặt ra
yêu cầu thích ứng của các Ngân hàng thương mại trong quá trình hoạt động trong điều
kiện hiện tại và định hướng phát triển trong tương lai, góp phần tích cực vào việc thực
hiện thành công sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Tuy nhiên mỗi Ngân hàng đều có
những định hướng chủ yếu trong hoạt động của mình.
2- Tín dụng và các vấn đề có liên quan đến hoạt động tín dụng của các Ngân hàng
thương mại :
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu nó sang
người sử dụng nó, sau một thời gian nhất định được quay về với người sở hữu nó với một
lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu (bao gồm cả gốc và lãi)
Trong nền kinh tế thị trường, do yêu cầu của nền kinh tế về việc xây dựng cơ sở
vật chất để phát triển nền kinh tế trong khi đó ngân sách Nhà nước không phải là vô hạn,
muốn đáp ứng nhu cầu xây dựng cơ sở vật chất cho nền kinh tế phát triển nhanh, nhất
thiết phải có hoạt động tín dụng để nó tập trung vốn tiền tệ nhàn rỗi để trợ giúp cho ngân
sách Nhà nước. Thông qua hoạt động tín dụng góp phần kiểm tra kiểm soát nền kinh tế.
Trong đó thực hiện hình thức tín dụng Ngân hàng có vị trí hết sức quan trọng, bởi vì hình
thức tín dụng Ngân hàng có mối quan hệ rất rộng rãi ở trong nền kinh tế, chủ thể của nó
là Ngân hàng, khách thể của nó là tất cả các thành phần kinh tế của nền kinh tế. Đồng thời

đối tượng hoạt động của tín dụng Ngân hàng là tiền, vì vậy tín dụng Ngân hàng có ưu
điểm đặc biệt của nó. Hiện nay tín dụng Ngân hàng là hoạt động chủ yếu của các Ngân
hàng thương mại, nó tạo ra thu nhập cho Ngân hàng, cho Nhà nước, cho xã hội.
Nội dung chủ yếu của hoạt động tín dụng tại các Ngân hàng thương mại bao
gồm:
2.1. Qui mô tín dụng:
Qui mô tín dụng của một Ngân hàng thương mại (khả năng cung cấp tín dụng) thể
hiện qua tỷ trọng tín dụng trong tài sản có của Ngân hàng thương mại đó. Một tỷ trọng tín
dụng cao trong tài sản có của Ngân hàng thương mại sẽ cho phép Ngân hàng thương mại
thu được lợi nhuận cao, vì hiện nay tín dụng vẫn là nghiệp vụ mang lại từ 70-80% thu
nhập cho các Ngân hàng thương mại Việt Nam.
2.2. Giới hạn tín dụng:
Giới hạn tín dụng tức là định ra các mức độ tham gia vốn tín dụng của Ngân hàng
thương mại vào một dự án nào đó, thương vụ nào đó hay vào một hoạt động kinh doanh
nào đó của một doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân ở trong nền kinh tế. Giới hạn tín dụng
thường lệ thuộc vào các yếu tố sau đây: khối lượng vốn mà Ngân hàng thương mại huy
động được. Sự ổn định hay bất ổn định của nền kinh tế. Uy tín và tình trạng tài chính của
người vay vốn. Nhu cầu vay vốn của người vay. Mức độ hạn chế hoặc khả năng giúp đỡ
của Ngân hàng Trung ương.
2.3. Các loại hình tín dụng:
Một Ngân hàng có thể chọn một hoặc nhiều loại hình tín dụng thích hợp, tuỳ theo
khả năng về nhân lực và tính chất ổn định của nguồn vốn và tình hình của nền kinh tế,
đồng thời Ngân hàng thương mại cũng cần phải nghiên cứu tình hình thực tiễn trên địa
bàn để chọn một loại hình tín dụng làm mũi nhọn tài trợ chủ yếu hoặc thực hiện phân tán
tín dụng trên nhiều loại tín dụng khác nhau. Hiện nay ta thấy có một số loại hình tín dụng
sau: Căn cứ theo thời gian vay vốn là tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung và dài hạn. Căn
cứ theo phương thức hoàn trả là tín dụng luân chuyển, tín dụng theo món ngoài ra còn căn
cứ mục đích vay như tín dụng chứng từ, tín dụng thuê mua, tín dụng tiêu dùng
2.4. Các lĩnh vực tài trợ của tín dụng:
Lĩnh vực tài trợ của tín dụng chính là việc các Ngân hàng chọn lựa và tiến hành

chuyên môn hoá việc tài trợ tín dụng cho một ngành sản xuất hay một lĩnh vực chuyên
môn nào đó hoặc phân tán tín dụng trên nhiều ngành, nhiều đơn vị doanh nghiệp khác
nhau. Tiến hành chuyên môn hoá như vậy sẽ có lợi cho Ngân hàng trong quá trình kinh
doanh vì dễ dàng nắm bắt các nhu cầu về tín dụng của lĩnh vực tài trợ, kiểm soát được rủi
ro và có thể đưa ra được những sản phẩm thích ứng cả về qui mô và chất lượng phục vụ
của Ngân hàng. Trên thực tế hiện nay các Ngân hàng thương mại thường tìm cách đa
dạng hoá các lĩnh vực tài trợ, nhưng cũng lựa chọn một lĩnh vực tài trợ nhất định làm thế
mạnh để cạnh tranh với các Ngân hàng khác, việc tài trợ có thể sử dụng hình thức tài trợ
khép kín cả ngắn, trung và dài hạn.
2.5. Chọn lựa kỳ hạn tín dụng:
Kỳ hạn tín dụng dài hay ngắn nó sẽ ảnh hưởng tới thanh khoản và sự rủi ro của
kinh doanh tín dụng. Kỳ hạn tín dụng càng dài, mức độ rủi ro càng cao và thanh khoản
càng khó khăn. Kỳ hạn tín dụng hoàn toàn phụ thuộc vào chu kỳ sản xuất, khả năng trả
nợ của người vay, song chính Ngân hàng cũng phải định ra một kỳ hạn thế nào đó vừa
đảm bảo lợi ích của Ngân hàng (ít rủi ro) vừa hấp dẫn người vay. Tính chất của nguồn
vốn huy động được với thời gian dài hay ngắn, lãi suất cao hay thấp cũng quyết định việc
chọn lựa kỳ hạn tín dụng của Ngân hàng thương mại.
2.6. Rủi ro tín dụng:
Rủi ro trong tín dụng có thể do phía khách hàng đem lại, có thể do chính chủ quan
của Ngân hàng hoặc có thể do thay đổi về chính sách vĩ mô. Một chính sách tín dụng
đúng là một chính sách tín dụng an toàn, ít rủi ro. Sự rủi ro tín dụng có thể dẫn đến tình
trạng như: lạm phát, suy thoái kinh tế Vì vậy trong hoạt động tín dụng các Ngân hàng
cần phải xây dựng các biện pháp an toàn, phòng ngừa rủi ro và thực hiện tốt qui trình
công nghệ tín dụng.
2.7. Giá cả tín dụng (lãi suất):
Lãi suất là tỷ lệ % theo số tiền vay, mà người vay phải tính ra để trả cho Ngân
hàng cho vay. Lãi suất thường được tính theo tháng hoặc năm. Lãi suất tín dụng chịu ảnh
hưởng của các yếu tố như: lãi phải trả cho người gửi, chi phí quản lý của Ngân hàng, rủi
ro tín dụng, chi phí cơ hội để có thể đầu tư vào các khoản khác, sự cạnh tranh của các
Ngân hàng khác, quan hệ giữa Ngân hàng với người vay. Có các loại lãi suất như lã suất

cố định, lãi suất thay đổi.
Việc áp dụng lãi suất nào do người vay và Ngân hàng thoả thuận theo hướng dẫn
của Ngân hàng Nhà nước và được ký kết trong hợp đồng tín dụng. ở nước ta hiện nay
theo qui định mới nhất thì: mức lãi suất cho vay do tổ chức tín dụng và khách hàng thoả
thuận nhưng phải phù hợp với qui định của Ngân hàng Nhà nước về lãi suất cho vay tại
thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng.
Mức lãi suất cơ bản làm cơ sở cho tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay đối với
khách hàng được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố hàng tháng cộng
với biên độ dương đối với từng loại cho vay của tổ chức tín dụng.
3- Tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng thương mạI đối với nền kinh tế:
Để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, đồng thời để đổi
mới cơ chế quản lý trong lĩnh vực đầu tư và XDCB, từng bước xoá bỏ bao cấp trong đầu
tư, nâng cao hiệu quả đầu tư trong các dự án, công trình và hiệu quả đầu tư của toàn nền
kinh tế quốc dân. Trong những năm vừa qua Chính phủ, ngành Ngân hàng và một số
ngành chức năng khác đã ban hành rất nhiều các loại văn bản có liên quan tới lĩnh vực tín
dụng đầu tư của các Ngân hàng thương mại, đặc biệt là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
đối với nền kinh tế. Cho đến nay Chính phủ và ngành Ngân hàng cũng đã nhiều lần sửa
đổi bổ sung hướng dẫn thực hiện cho phù hợp với tình hình thực tế. Những văn bản mới
nhất hiện nay có liên quan đến lĩnh vực này là: NĐ 52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 của
Chính phủ về Quy chế Quản lý đầu tư xây dựng cơ bản; Nghị định số 43/1999/NĐ-CP về
tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, QĐ13/1999/QĐ-TTg ngày 4/2/1999 về công tác
tín dụng đầu tư năm 1999; NĐ178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ về đảm
bảo tiền vay của các tổ chức tín dụng; TT số 06/2000/TT-NHNN1 ngày4/4/2000 của
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện NĐ số 178/1999/NĐ-CP; QĐ số
284/2000/QĐ-NHNN1 ngày 25/8/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về
Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Song, nội dung chính và chủ
yếu của các văn bản đó là:
- Bên vay: là pháp nhân và cá nhân hoạt động theo pháp luật Việt Nam bao gồm:
Doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty TNHH, HTX, doanh nghiệp tư nhân,
xí nghiệp liên doanh vốn với nước ngoài, xí nghiệp 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam,

cá thể và hộ sản xuất.
- Mục đích cho vay: Cho vay vốn tín dụng trung, dài hạn để đầu tư cho các dự án
xây dựng mới, mở rộng, cải tạo, khôi phục đổi mới kỹ thuật, ứng dụng khoa học kĩ thuật
và công nghệ nhằm mục tiêu khai thác tiềm năng để phát triển kinh tế phù hợp với mục
tiêu chính sách phát triển kinh tế xã hội và pháp luật Nhà nước và lợi nhuận. Các dự án
được đầu tư phải được xác định có hiệu quả kinh tế, trực tiếp tăng sản lượng hàng hoá,
tăng nộp ngân sách, tăng tích luỹ cho doanh nghiệp và thu nhập cho người lao động, hoàn
trả vốn vay gốc và lãi cho Ngân hàng đúng thời gian cam kết, phải có tài sản thế chấp,
cầm cố hoặc người bảo lãnh thứ 3 theo qui chế của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam.
- Cho vay trung, dài hạn: thời hạn cho vay được xác định phù hợp với thời hạn thu
hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất nguồn vốn cho vay
của tổ chức tín dụng. Thời hạn cho vay trung hạn từ 12 tháng đến 60 tháng; Thời hạn cho
vay dài hạn từ trên 60 tháng trở lên nhưng không quá thời hạn hoạt động còn lại theo
Quyết định thành lập hoặc Giấy phép thành lập đối với pháp nhân và không quá 15 năm
đối với các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
4- Vai trò tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng:
Thông qua tín dụng đầu tư của Ngân hàng, trên cơ sở mục tiêu định hướng của
Nhà nước, của địa phương, Ngân hàng xem xét lựa chọn những phương án có hiệu quả để
đầu tư. Đầu tư tín dụng có hiệu quả nó sẽ thúc đẩy mở rộng sản xuất khai thác tiềm năng
thế mạnh của doanh nghiệp, từng vùng kinh tế và của địa phương. Nó sẽ trang bị bổ sung
nhiều thiết bị công nghệ mới hiện đại, kĩ thuật tiên tiến cho các doanh nghiệp nói riêng và
nền kinh tế nói chung. Nó làm tăng thêm sản phẩm cho xã hội, tăng thu ngân sách, tăng
thêm doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp và thu nhập cho người lao động, thu hút
tạo công ăn việc làm cải thiện đời sống cho lực lượng lao động trong xã hội.Từ đó thúc
đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Thông qua việc đầu tư tín dụng nó làm cho các doanh nghiệp nâng cao chất lượng
trong hạch toán kinh tế, làm lành mạnh tài chính doanh nghiệp. Bởi vì thông qua việc đầu
tư tín dụng Ngân hàng cùng với doanh nghiệp xem xét đánh giá tỷ mỷ từng yếu tố, xác
định tính toán từng yếu tố chi phí để có giá thành hợp lý. Từ đó xác định nguồn trả nợ,

thời gian thu hồi vốn, do vậy thông qua việc đầu tư tín dụng giúp cho các doanh nghiệp
xem xét lại tình hình công nợ, phân tích các khoản phải thu, phải trả và tìm biện pháp giải
quyết. Mặt khác nó còn tác động với địa phương, các ngành qua cơ cấu nguồn vốn tham
gia.
Tín dụng đầu tư góp phần lập lại trật tự kỷ cương trong XDCB, nó làm cho chủ
các dự án, chủ công trình phải thực hiện và tuân thủ đúng trình tự XDCB, thực hiện đúng
mục đích của tín dụng đầu tư, tránh tình trạng hồ sơ dự án không đầy đủ cũng được vay
vốn, vốn vay sử dụng sai mục đích đồng thời cũng thông qua đó góp phần nâng cao
trình độ quản lý, trình độ KHKT của cán bộ doanh nghiệp.
Tín dụng trung, dài hạn là nguồn trợ thủ đắc lực của doanh nghiệp trong việc thoả
mãn các cơ hội kinh doanh. Nó linh hoạt hơn các hình thức huy động vốn dài hạn khác
như: trái phiếu, cổ phiếu. Trong điều kiện của nước ta hiện nay cũng như trong thời gian
tới nhu cầu về vốn trung, dài hạn cho đầu tư các công trình SXKD mới, hiện đại hoá các
cơ sở sản xuất, mở rộng các ngành sản xuất đang đòi hỏi có một nguồn vốn lớn. Nhưng
cho dù các nguồn vốn cung cấp từ đâu để đáp ứng yêu cầu đó, thì việc cung cấp tín dụng
thông qua hệ thống các Ngân hàng thương mại nói chung, Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển nói riêng dưới hình thức cho vay trung, dài hạn là rất quan trọng. Bởi vì Ngân hàng
thương mại có kinh nghiệm trong công tác quản lý, kinh doanh tiền tệ, thẩm định dự án
các công trình đầu tư, nắm bắt được thị trường Do vậy các Ngân hàng thương mại tài
trợ vốn trung, dài hạn cho các doanh nghiệp vừa đảm bảo được tính hiệu quả cao trong
công tác quản lý vĩ mô về mặt tốc độ, cơ cấu sản xuất, vừa đảm bảo được lợi ích các
doanh nghiệp.
III.Chất lượng tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng thương mại
1- Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng
thương mại:
Xuất phát từ chức năng nhiệm vụ của Ngân hàng thương mại cũng như vai trò của
tín dụng trung, dài hạn đã trình bày ở phần trên có thể tóm tắt là:
Hoạt động của ngân hàng thương mại gắn bó mật thiết với hệ thống lưu thông tiền
tệ và hệ thống thanh toán trong nước, đồng thời có mối liên hệ quốc tế rộng rãi. Hoạt
động của ngân hàng thương mại đa dạng, phong phú và có phạm vi rộng lớn, trong khi

các tổ chức tài chính khác thường hoạt động trên một vài lĩnh vực hẹp và theo hướng
chuyên sâu.
Ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh
tế, Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế: vốn được tạo ra từ quá trình tích luỹ,
tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp trong nền kinh tế, vậy muốn có nhiều vốn phải
tăng thu nhập quốc dân và giảm nhịp độ tiêu dùng. Để tăng thu nhập quốc dân tức là để
mở rộng quy mô chiều rộng lẫn chiều sâu của sản xuất và lưu thông hàng hoá, đẩy mạnh
sự phát triển của các ngành kinh tế cần thiết phải có vốn, ngược lại khi nền kinh tế càng
phát triển sẽ tạo ra nhiều vốn. Ngân hàng thương mại là chủ thể đáp ứng nhu cầu vốn cho
sản xuất kinh doanh; nhờ có hoạt đông của hệ thống ngân hàng thương mại và đặc biệt là
hoạt động tín dụng trung, dài hạn khách hàng có điều kiện hoạt động mở rộng sản xuất,
cải tiến may móc công nghệ, tăng năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế.
Để có thể đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của thị trường, khách hàng không những
cần nâng cao chất lượng lao động, củng cố và hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, chế độ
hạch toán kế toán mà còn phải không ngừng cải tiến máy móc thiết bị, dây chuyền công
nghệ, tìm tòi sử dụng nguyên vật liệu mới, mở rộng quy mô sản xuất một cách thích hợp.
Những hoạt động này đòi hỏi một khối lượng lớn vốn đầu tư nhiều khi vượt quá khả năng
vốn tự có của doanh nghiệp. Giải quyết khó khăn này, khách hàng có thể tìm đến ngân
hàng để vay vốn thoả mãn nhu cầu đầu tư của mình. Chính vì những lý do trên mà phải
cần thiết nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn.
Để đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn có thể căn cứ vào các chỉ tiêu sau:
2- Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Trung, dài hạn của NHTM:
2.1. Xét trên giác độ Ngân hàng:
2.1.1 về số lượng khách hàng:
Sự gia tăng số lượng khách hàng qua các năm cũng là một chỉ tiêu đánh giá chất
lượng tín dụng trung, dài hạn. Khi số lượng khách hàng ở Ngân hàng tăng lên liên tục và
đồng đều qua các năm là một trong các dấu hiệu cho thấy thể hiện lòng tin của khách
hàng với Ngân hàng vầ chất lượng công tác tín dụng nói chung và tín dụng trung, dài hạn
nói riêng ở Ngân hàng được đảm bảo.
2.1.2. Doanh số cho vay và mức dư nợ:

Doanh số cho vay và mức dư nợ luôn luôn tăng lên năm sau cao hơn năm trước
cho thấy chất lượng tín dụng tín dụng trung, dài hạn được đảm bảo.
- Tổng dư nợ trung, dài hạn so với nguồn vốn huy động so với nguồn vốn cho vay
trung, dài hạn: Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng của đồng vốn huy động
lớn. Chỉ số này so sánh khả năng cho vay của Ngân hàng với vốn huy động.
- Dư nợ hữu hiệu (có khả năng sinh lời)/ Tổng dư nợ: chỉ số này đánh giá chất lượng tín
dụng. Nếu chỉ số càng cao thì chất lượng càng tốt.
- Tổng dư nợ/ Tài sản có: Chỉ số này phản ánh quy mô tín dụng trong tổng tài sản có.
Chỉ số này càng cao chứng tỏ chất lượng công tác tín dụng càng tốt, quy mô hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng lớn.
2.1.3 Nợ quá hạn trên tổng dư nợ:
Đây là chỉ tiêu quan trọng đo lường chất lượng nghiệp vụ tín dụng trung, dài hạn,
các Ngân hàng có chỉ số này thấp đã chứng minh được chất lượng tín dụng cao của mình.
Thường là chỉ tiêu này được so sánh giữa số dư nợ quá hạn trung, dài hạn trên tổng dư nợ
tín dụng trung, dài của Ngân hàng. Nhìn chung hiện nay chỉ tiêu này của một Ngân hàng
dưới dưới mức 2% là hợp lý.
2.1.4 Chỉ tiêu về vòng quay vốn:
Nếu chất lượng tín dụng tốt tức là khách hàng có khả năng trả nợ đúng hạn hoặc có
thể trước thời hạn, qua đó giúp Ngân hàng có thể tăng số vòng quay vốn, đảm bảo hiệu
quả sử dụng vốn của Ngân hàng.
2.1.5 lợi nhuận:
Khoản lợi nhuận thu về từ nghiệp vụ tín dụng trung, dài hạn chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng thu nhập của Ngân hàng cũng là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá chất lượng tín
dụng trung, dài hạn. Bởi vì trong nền kinh tế thị trường, các NHTM đều hoạt động vì mục
tiêu lợi nhuận và các khoản lợi nhuận đạt được đều cho thấy trình độ tổ chức, quản lý và
chất lượng hiệu quả của nghiệp vụ tín dụng trung, dài hạn.
Ngoài các chỉ tiêu trên thì việc đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn còn có
thể sử dụng một số chỉ tiêu định tính như: Sự tôn trọng và chấp hành các quy chế tín dụng
do NHNN và Ngân hàng cấp trên đề ra trong suốt quá trình thực hiện mối quan hệ tín
dụng giữa NHTM với khách hàng của mình.

2.2. Xét trên giác độ nền kinh tế mà cụ thể là từ các khách hàng:
Muốn đánh giá chất lượng của tín dụng trung, dài hạn từ phía người sử dụng vốn,
thì ngoài việc phân tích tình hình tài chính khách hàng trước khi cho vay thì sau khi dự án
đã được đưa vào sản xuất, sử dụng điều trước tiên cần làm là: Thực hiện phân tích tình
hình kinh tế, tài chính của khách hàng. Quá trình phân tích đó ta sẽ có được các chỉ tiêu
về kết quả SXKD của khách hàng như: Sự gia tăng về số lượng sản phẩm sản xuất ra,
mức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường, mức lợi nhuận thu được từ sản phẩm đó,
đây là tiền đề là cơ sở cho việc thu hồi vốn đầu tư nói chung và nợ vay trung, dài hạn.
Các chỉ tiêu khác có liên quan để đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn đó là
vốn tự có của khách hàng (như mức độ và tốc độ gia tăng vốn tự có, vòng quay của vốn
tự có), vòng quay vốn tín dụng, hiệu quả sử dụng vốn cũng như về tình hình và khả
năng thanh toán của khách hàng. Nếu một khách hàng có thu nhập thường xuyên và ổn
định từ dự án đầu tư bằng nguồn vốn vay trung, dài hạn của Ngân hàng chứng tỏ nguồn
vốn tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng đã được sử dụng có hiệu quả và khoản tín
dụng đó chắc chắn sẽ được hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi, tức là chất lượng công tác tín
dụng tín dụng trung, dài của Ngân hàng được đảm bảo.
Ngoài ra xét trên giác độ kinh tế thì chất lượng của công tác tín dụng trung, dài hạn
còn thể hiện sử dụng vốn vay Ngân hàng của khách hàng sử dụng khoản tiền vay có đúng
mục đích và đối tượng như đã đề ra khi xin vay hay không, khoản vay có vượt quá hạn
mức quy định hay không. Mặt khác, chất lượng tín dụng trung, dài hạn còn được thể hiện
ở việc dự án được đầu tư nó tạo ra một khối lượng công ăn việc làm cho người lao động
trong xã hội, bởi vì việc đầu tư một dự án bằng nguồn vốn tín dụng trung, dài hạn có hiệu
quả sẽ góp phần mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh của khách hàng đó và sẽ thu hút
thêm nhiều lao động từ mọi tầng lớp trong xã hội; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
khai thác tiềm năng thế mạnh từng vùng kinh tế góp phần phân bố lại lực lượng lao động.
Đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn không chỉ xem xét đánh giá đơn thuần
mà qua việc đánh giá phải kịp thời, chính xác, phân tích một cách cụ thể là các chứng cứ
quan trọng để trên cơ sở đó Ngân hàng có thể đề ra và thay đổi định hướng, chiến lược
của mình. Nếu công tác tín dụng trung, dài hạn trung, dài hạn đạt chất lượng cao nó sẽ
đem đến những ý nghĩa kinh tế quan trọng không chỉ đối với Ngân hàng và người được

cấp tín dụng mà nó còn có những tác động to lớn đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
3- Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung, dài hạn
3.1. Sự phát triển kinh tế của một quốc gia:
Hoạt động của Ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng trung, dài hạn nói riêng
đạt hiệu quả cao hay thấp, rủi ro ít hay nhiều đều có quan hệ hữu cơ khăng khít tới sự
phát triển kinh tế của một quốc gia.
3.2. Nhân tố luật pháp:
Nhân tố luật pháp có vị trí hết sức quan trọng đối với chất lượng hoạt động Ngân
hàng, mà đặc biệt là hoạt động tín dụng trung, dài hạn. Luật pháp nó tạo môi trường hành
lang pháp lý cho mọi hoạt động của Ngân hàng. Nhân tố luật pháp ở đây bao gồm tính
đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính đầy đủ và thống nhất của các văn bản dưới luật đồng
thời gắn liền với nó là quá trình chấp hành luật pháp và trình độ dân trí trong xã hội.
3.3. Năng lực chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách hàng:
Các yếu tố của khách hàng có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung, dài hạn là:
- Năng lực về vốn, về tài sản của khách hàng có đủ mức vốn tự có của mình để
tham gia vào dự án hay không, tiếp đó là nguồn vốn chủ sở hữu tham gia vào quá trình
SXKD của đơn vị có đủ hay không và nếu có thì ở mức độ nào.
- Chất lượng hoạt động SXKD của khách hàng tốt hay xấu.
- Tương lai phát triển của khách hàng ở mức độ nào; dự án, phương án SXKD của
khách hàng có đủ khả năng để tồn tại và phát triển trong sự cạnh tranh quyết liệt của cơ
chế thị trường được hay không.
- Mức độ chuyển biến về nhận thức, quan điểm, tâm lý của lãnh đạo doanh nghiệp
trong điều kiện cơ chế thị trường ở mức độ nào? Họ đã có đầy đủ ý thức vay trả chưa hay
vẫn mang nặng tư tưởng bao cấp, trông chờ nguồn vốn được cấp, được vay ưu đãi.
- Trình độ quản trị điều hành, uy tín của người đứng đầu của doanh nghiệp ở mức
độ nào, đã đáp ứng được mực độ nào trong nền kinh tế thị trường.
3.4. Nhân tố thuộc chủ quan NHTM:
3.4.1. Chính sách tín dụng;
Chính sách tín dụng của Ngân hàng phải phù hợp với đường lối phát triển kinh tế
của Đảng và Nhà nuức đồng thời đảm bảo kết hợp hài hoà giữa quyền lợi của khách hàng

và của Ngân hàng. Đối với NHTM một chính sách tín dụng đúng đắn phải đảm bảo khả
năng sinh lời của hoạt động tín dụng trên cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ luật pháp và
đường lối chính sách của Đảng, đảm bảo công bằng xã hội. Muốn vậy, chính sách tín
dụng phải được xây dựng một cách đúng đắn trên cơ sở các căn cứ khoa học.
3.4.2. Công tác tổ chức quản lý của Ngân hàng:
Tổ chức quản lý của Ngân hàng cần được cụ thể hoá và xắp xếp một cách khoa
học, có tính linh hoạt trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tín dụng đã được quy định cả về
huy động vốn cũng như cho vay và quản lý được cơ cấu tài sản nợ, tài sản có của Ngân
hàng. Đây chính là những cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh. Do hoạt
động tín dụng có khả năng rủi ro lớn hơn tất cả các loại hình kinh doanh khác nên cần có
sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban, bộ phận trong từng Ngân hàng,
trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng cũng như giữa các Ngân hàng với các cơ quan khác
như: Tài chính, pháp lý thiết lập mối quan hệ giữa các bộ phận trên sẽ tạo điều kiện cho
việc quản lý có hiệu quả các khoản vốn tín dụng, phát hiện và giải quyết kịp thời các
khoản tín dụng khi cần thiết.
3.4.3. Chất lượng cán bộ tín dụng:
Chất lượng cán bộ là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý vốn tín dụng
nói riêng và đến hoạt động của Ngân hàng nói chung, nghiệp vụ hoạt động Ngân hàng
ngày càng phát triển đòi hỏi chất lượng cán bộ ngày càng cao để đáp ứng với sự phát triển
nghiệp vụ. Việc tuyển chọn cán bộ tín dụng phải đảm bảo cả về đạo đức và trình độ
chuyên môn và có kinh nghiệm.
3.4.4. Thông tin tín dụng:
Là yếu tố cơ bản trong quản lý tín dụng của Ngân hàng. Trong nền kinh tế thị
trường ai nắm bắt được nhiều thông tin kịp thời, chính xác hơn, người đó xẽ chiến thắng
trong cạnh tranh. Nhờ có thông tin tín dụng mà người quản lý có thể đưa ra những quyết
định cần thiết có liên quan đến cho vay, theo dõi và quản lý tài khoản cho vay. Thông tin
tín dụng càng nhanh nhạy, chính xác và toàn diện thì khả năng phòng ngừa rủi ro trong
hoạt động kinh doanh của Ngân hàng càng lớn. Đáng chú ý là việc thu thập thông tin,
phân tích các báo cáo về tình hình tài chính của doanh nghiệp và tổ chức kinh tế sẽ đầy đủ
và chính xác thì khả năng rủi ro càng giảm.

3.4.5. Kiểm tra kiểm soát nội bộ:
Kiểm tra kiểm soat nội bộ sẽ phát hiện nhanh chóng những thiếu sót trong việc
thực hiện các quy trình tín dụng của cán bộ ngân hàng, qua đó có biện pháp xử lý kịp thời
ngăn chặn những rủi ro xảy ra đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng, nâng cao chất
lượng tín dụng.
Ngoài các nội dung trên thì trong quá trình cho vay bắt đầu từ khi chuẩn bị cho
vay, phát tiền vay, kiểm tra việc sử dụng vốn vay cho đến khi thu hồi được nợ. Quá trình
cho vay, chuẩn bị cho vay rất quan trọng, làm tốt khâu này sẽ tạo điều kiện cho vốn tín
dụng luân chuyển nhanh, đảm bảo chất lượng tín dụng.
iV/ Cơ chế chính sách có liên quan đến việc nâng cao chất lương tín dụng trung,
dài hạn.
1- Những qui định chung về cho vay trung, dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển:
1.1. Nguyên tắc:
- Vốn vay phải sử dụng đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
- Phải hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng.
- Việc đảm bảo tiền vay phải thực hiệ quy định của Chính phủ và của Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước.
1.2. Điều kiện vay vốn:
Bên vay vốn phải có đầy đủ các điều kiện sau đây:
- Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân
sự theo quy định của pháp luật.
- Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
- Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
- Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi, có hiệu quả. Hoặc
có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi kèm theo phương án trả nợ khả thi.
- Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính phủ và
hướng dẫn của thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
1.3. Đối tượng cho vay:
Là các chi phí cấu thành trong tổng mức vốn đầu tư của dự án đầu tư xây dựng

mới, mở rộng, cải tạo, khôi phục, đổi mới kĩ thuật, ứng dụng khoa học công nghệ bao
gồm: giá trị vật tư máy móc, công nghệ chuyển giao, sáng chế và phát minh, chi phí nhân
công, giá thuê và chuyển nhượng đất đai, giá thuê mua các tài sản khác trong khuôn khổ
luật định, chi phí mua bảo hiểm tài sản thuộc dự án đầu tư, chi phí khác
Đối tượng Ngân hàng không cho vay là các dự án không đảm bảo thời gian thi
công, không hoàn thành theo đúng kỳ hạn mà không có nguyên nhân đúng đắn. Các dự án
không đảm bảo hiệu quả kinh tế, các dự án có tính chất thử nghiệm, các khối lượng phát
sinh không có trong dự toán.
1.4. Nguồn vốn cho vay:
Các nguồn vốn Ngân hàng sử dụng cho vay trung, dài hạn (cho vay đầu tư các dự
án) bao gồm:
- Nguồn vốn ngân sách Nhà nước chuyển sang cho vay các dự án, công trình theo
kế hoạch Nhà nước từ năm 1990, thu nợ từ các dự án đã đầu tư trước đây,
- Vốn tự có và quĩ dự trữ.
- Vốn huy động và đi vay trong nước và ngoài nước từ 1 năm trở lên như trái phiếu
ngân hàng, kỳ phiếu
- Một phần vốn huy động trong nước có kỳ hạn dưới 1 năm do Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước qui định (Chủ yếu dùng cho vay trung hạn thời gian ngắn).
- Vốn nhận uỷ thác và vốn tài trợ của các tổ chức kinh tế tài chính, tín dụng, xã hội
ở trong nước và nước ngoài.
- Nguồn vốn từ các Hiệp định khung tài trợ với ngân hàng nước ngoài do ngân
hàng đầu tư và Phát triển Việt nam ký hàng năm.
1.5. Mức cho vay và thời hạn vay:
Tổ chức tín dụng căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng, quy định của chính
phủ tại Nghị định số 178/1999/NĐ-CP về mức cho vay so với giá trị tài sản làm bảo đảm
khả năng hoàn trả nợ của khách hàng vay và khả năng nguồn vốn của mình để quyết định
mức cho vay. Mức cho vay đối với một dự án đầu tư của bên vay bằng tổng mức vốn đầu
tư của dự án trừ đi vốn tự có tham gia, vốn ngân sách cấp, liên doanh và các nguồn vốn
khác đầu tư cho dự án.
Theo qui định mới nhất của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước tại quyết định số

284/2000/QĐ-NHNN1 ngày 25/8/2000 thì: Thời hạn cho vay được xác định phù hợp với
thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính chất của
nguồn vốn cho vay của tổ chức tín dụng.
- Thời hạn cho vay trung hạn từ 12 tháng đến 60 tháng
- Thời hạn cho vay dài hạn từ trên 60 tháng trở lên nhưng không quá thời hạn hoạt
động còn lại theo Quyết định thành lập hoặc Giấy phép thành lập đối với pháp nhân và
không quá 15 năm đối với cho vay các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
1.6. Lãi suất cho vay:
- Mức lãi suất cho vay do Ngân hàng và khách hàng thoả thuận phù hợp với qui định
của Ngân hàng Nhà nước về lãi suất cho vay tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng. ở
nước ta hiện nay theo qui định mới nhất thì: mức lãi suất cho vay do tổ chức tín dụng và
khách hàng thoả thuận nhưng phải phù hợp với qui định của Ngân hàng Nhà nước về lãi
suất cho vay tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng.
Mức lãi suất cơ bản làm cơ sở cho tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho vay đối với
khách hàng được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố hàng tháng cộng
với biên độ dương đối với từng loại cho vay của tổ chức tín dụng.
- Lãi suất cho vay ưu đãi được áp dụng đối với các khách hàng được ưu đãi về lãi
suất theo qui định của Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.
- Trường hợp khoản vay bị chuyển sang nợ quá hạn phải áp dụng lãi suất nợ quá
hạn theo mức qui định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước tại thời điểm ký hợp đồng tín
dụng.
1.7. Giới hạn cho vay:
- Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có
của Ngân hàng cho vay, trừ trường hợp đối với những khoản cho vay từ các nguồn vốn
uỷ thác của Chính phủ, của các tổ chức cá nhân. Trường hợp nhu cầu vốn của khách hàng
vượt quá 15% vốn tự có hoặc khách hàng có nhu cầu huy động vốn từ nhiều nguồn thì
Ngân hàng cho vay hợp vốn theo qui định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Trong trường hợp đặc biệt, Ngân hàng chỉ được cho vay vượt quá mức giới hạn
cho vay theo qui định trên khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép với từng trường hợp
cụ thể.

2- Qui trình tín dụng đầu tư tại các chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển:
Qua 10 năm triển khai thực hiện đầu tư phát triển, trên cơ sở vừa làm vừa đúc rút
kinh nghiệm trong công tác quản lý chỉ đạo, điều hành, thẩm định Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển Trung ương đã có nhiều văn bản hướng dẫn và cho đến nay Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển đang thực hiện qui trình tín dụng đầu tư (qui trình công nghệ) bao gồm các
bước như sau:
* Bước 1: Tiếp cận khách hàng và tiếp nhận hồ sơ, gồm:
- Tiếp cận để lựa chọn khách hàng và dự án
- Tìm hiểu khách hàng
- Hướng dẫn lập hồ sơ
* Bước 2: Ký kết hợp đồng tín dụng. Gồm
- Kiểm tra hồ sơ, thẩm định dự án
- Quyết định cho vay.
- Ký kết hợp đồng tín dụng, khế ước vay vốn
* Bước 3: Giải ngân
- Kiểm tra khối lượng XDCB hoàn thành để chuẩn bị giải ngân
- Phát vốn vay
- Kiểm tra sử dụng vốn vay
* Bước 4: Thu nợ, thu lãi tiền vay. Gồm
- Lập sổ theo dõi
- Gửi phiếu báo doanh nghiệp
- Điều chỉnh kỳ hạn nợ nếu đủ điều kiện
* Bước 5: Kết thúc hợp đồng tín dụng
- Tất toán khế ước
- Thanh lý hợp đồng tín dụng
- Rút kinh nghiệm, đánh giá hiệu quả dự án, doanh nghiệp
- Hoàn chỉnh hồ sơ để lưu trữ.
Theo qui trình trên, cán bộ tín dụng là người trực tiếp cho vay thu nợ, thu lãi, có
quyền hạn và trách nhiệm theo phạm vi trách nhiệm được giao, thường xuyên kiểm tra
việc sử dụng vốn vay và yêu cầu doanh nghiệp thực hiện đúng theo hợp đồng tín dụng đã

ký kết. Đối với các đơn vị thành viên phải tuân thủ đúng các qui định của Nhà nước về
quản lý đầu tư XDCB, qui định của Chính phủ, Bộ kế hoạch đầu tư, Ngân hàng Nhà nước
về cơ chế tín dụng đầu tư theo kế hoạch hàng năm; các qui định, qui trình nghiệp vụ của
Ngân hàng đầu tư và phát triển trung ương liên quan tới hoạt động tín dụng đầu tư.
Không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng đầu tư phát triển là nhiệm vụ chung của tất cả
cán bộ các bộ phận trong mối quan hệ chặt chẽ tín dụng - thẩm định - kế toán - phòng
ngừa rủi ro và xuyên xuốt trong quá trình xét duyệt - giải ngân - thu nợ.

Chương II
thực trạng tín dụng đầu tư trung, dài hạn tại
ngân hàng đầu tư và phát triển thanh hoá

I/ Bối cảnh kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh thanh hoá
Thanh Hoá là một tỉnh lớn diện tích tự nhiên là 11,168 km2 trên 3,6 triệu dân. Có
4 vùng kinh tế rõ rệt: Vùng biển, đồng bằng, trung du, miền núi. Giao thông thuận lợi,
80% là sản xuất nông nghiệp. Một số ngành kinh tế phát triển như mía đường, xi măng,
nuôi trồng đánh bắt, chế biến hải sản, công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất
bia, sản xuất giấy các loại, chế biến lâm sản, dịch vụ
Trong những năm qua thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước, hàng
năm kinh tế xã hội của tỉnh luôn luôn phát triển, cơ sở hạ tầng từng bước được nâng cao,
kinh tế tăng trưởng.
1. Những thuận lợi trong thời gian tới :
Qui hoạch tổng thể của tỉnh đến năm 2010 đã được Chính phủ phê duyệt. Xác định
Thanh Hoá có sức thu hút mạnh vốn đầu tư. Các lĩnh vực đầu tư lớn được triển khai như
khu công nghiệp Lễ môn, khu công nghiệp Nghi Sơn, Cảng nước sâu Nghi sơn, Nhà máy
đường Lam Sơn, caỉ tạo nâng cấp Nhà máy xi măng Bỉm sơn, nuôi trồng và đánh bắt chế
biến hải sản. Công nghiệp qui mô vừa và nhỏ cũng được mở rộng sản xuất như sản xuất
giấy, bao bì, thép, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến lâm sản. Một số doanh nghiệp địa
phương liên doanh hoặc gia nhập các công ty Trung ương như cán thép, chế biến lâm sản,
hoá chất, thuốc lá có xu hướng phát triển thu hút được vốn đầu tư, công nghệ mới tiên

tiến mở rộng thị trường và tạo thêm việc làm cho người lao động đường.
- Việc xắp xếp lại doanh nghiệp cổ phần hoá đang được triển khai thực hiện.
- Hạ tầng cơ sở như làm đường, điện, thuỷ lợi, nước sạch, đang được triển khai sôi
động.
2. Khó khăn:
- Tỷ lệ sản xuất nông nghiệp cao lại thường xuyên bị thiên tai. Điểm xuất phát đi
lên thấp, năm 2000 mức tăng trưởng bình quân lại thấp xa hơn so với mức bình quân cả
nước. do vậy nền kinh tế chưa có tích luỹ nhiều, thu ngân sách khó khăn.
- Các doanh nghiệp địa phương làm ăn chưa có hiệu quả, một số doanh nghiệp
quốc doanh còn thua lỗ, chưa có phương án hữu hiệu đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ.
- Việc cổ phần hoá các doanh nghiệp thực hiện còn chậm.
- Các dự án đầu tư liên doanh liên kết thu hút đầu tư chưa được chuẩn bị sẵn sàng.
- Các chủ trương định hướng được thống nhất cao, nhưng việc tổ chức triển khai
còn nhiều vướng mắc. Chưa có cơ chế chính sách để gọi vốn đầu tư xây dựng cơ sở hạ
tầng, khu công nghiệp tập trung. Các chương trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, xây dựng vùng chuyên canh hiệu qủa
chưa cao.
Các doanh nghiệp vốn tự có rất ít, chưa chủ động xây dựng những dự án đầu tư
lớn. Điều này hạn chế rất nhiều đến % vốn tự có tham gia vào dự án.
II/ về tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng Đầu tư và phát triển Thanh
Hoá.
1- Mô hình tổ chức của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá :
Hơn 40 năm hoạt động và trưởng thành, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển nói
chung, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá nói riêng, liên tục có sự thay đổi, bổ
sung về chức năng nhiệm vụ Song, hiện nay về bản chất vẫn là một Ngân hàng thương
mại quốc doanh, với vai trò duy nhất hiện nay là Ngân hàng chủ đạo phục vụ cho sự
nghiệp xây dựng, đầu tư phát triển.
Quá trình hoạt động và trưởng thành của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh
Hoá gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội của địa phương qua
các thời kỳ, các giai đoạn cách mạng. Đặc biệt là từ ngày 01/01/1995 theo quyết định

293/QĐ-NHNN ngày18/11/1994 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển được phép thực hiện các hoạt động của Ngân hàng thương mại.

×