Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

LUẬN VĂN: Giải pháp quản lý nhằm nâng cao khả năng huy động vốn tại ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh Hải Dương pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (495.22 KB, 55 trang )

















LUẬN VĂN:

Giải pháp quản lý nhằm nâng cao khả năng
huy động vốn tại ngân hàng đầu tư và phát
triển tỉnh Hải Dương







PHẦN MỞ ĐẦU

Sau hơn hai mươi năm năm đổi mới, nền kinh tế nước ta đã gặt hái được khá nhiều


kết quả như tốc độ phát triển kinh tế cao, đời sống tinh thần vật chất người dân được cải
thiện rõ rệt, uy tín của Việt Nam trên thế giới ngày càng được nâng cao. Tuy đã đạt được
thành tựu to lớn đó nhưng quy mô nền kinh tế nước ta còn nhỏ bé, sản xuất nhỏ. Vì xuất
phát điểm của chúng ta quá thấp nên muốn để hoà nhập vào nền kinh tế phát triển của thế
giới, chúng ta cần phải đẩy nhanh sự nghiệp CNH- HĐH đất nước. Như vậy, nhu cầu về
vốn cho sự nghiệp CNH-HĐH sẽ là rất lớn, đặc biệt là Việt Nam đang cần một khối
lượng vốn lớn để đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế, xây dựng các công trình công nghiệp, nền
tảng của tăng trưởng kinh tế dài lâu. Đại hội Đảng IX khẳng định “ Nhà nước có chính
sách động viên các nguồn lực trong nước là chính và tranh thủ tối đa nguồn lực nước
ngoài; mở rộng đầu tư tín dụng, góp phần giải phóng mọi năng lực sản xuất , phát huy
mọi tiềm năng của các thành phần kinh tế ” . Nội dung này lại khẳng định một lần nữa
nhu cầu to lớn về vốn đối với nền kinh tế, đồng thời chỉ rõ tầm quan trọng của nguồn vốn
trong nước và quốc tế.
Là một trung gian tài chính – đi vay để cho vay Ngân hàng đầu tư và phát triển đã
chủ trương tăng cường hoạt động huy động vốn, trước hết là để thực hiện kinh doanh của
đơn vị mình, sau đó góp phần là một trong những kênh huy động vốn tích cực cho nền
kinh tế
Sau khi được tìm hiểu về vấn đề trên, em đã lựa chọn đề tài “ Giải pháp quản lý
nhằm nâng cao khả năng huy động vốn tại ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh Hải Dương
” làm đề tài viết chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Thông qua đề tài em mong
muốn được góp phần nào đó, dù rất nhỏ bé vào việc tăng cường hoạt động huy động vốn
của ngaan hàng đầu tư và phát triển tỉnh Hải Dương.
Đề tài này gồm ba chương :
Chương I : Cơ sở lý luận về huy động vốn.
Chương II : Thực trạng huy động vốn tại ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh Hải Dương.


Chương III : Giải pháp quản lý nhằm nâng cao khả năng huy động vốn tại ngân hàng đầu
tư và phát triển tỉnh Hải Dương.





























CHƯƠNG I : CỞ SỞ LÝ LUẬN VỀ HUY ĐỘNG VỐN
I. Nguồn vốn của NHTM
1. Khái niệm

Nguồn vốn của NHTM là toàn bộ các nguồn tài chính mà NHTM có quyền sử
dụng để tổ chức và thực hiện các hoạt động kinh doanh của mình.
2. Phân loại nguồn vốn
2.1 Vốn chủ sở hữu

Vốn chủ sở hữu là toàn bộ giá trị tiền tệ thuộc sở hữu của các chủ ngân hàng. Vốn chủ
sở hữu này chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng ( 3-4% ) nhưng
nó rất quan trọng vì đó là điều kiện pháp lý bắt buộc để thành lập ngân hàng. Một ngân
hàng phải có một tỷ lệ vốn sở hữu trên tổng nguồn vốn mới được phép tổ chức và hoạt
động, tỷ lệ này phụ thuộc vào mỗi quốc gia. Vốn chủ sở hữu là cở sở ban đầu để các ngân
hàng có được các nguồn vốn khác và thực hiện những hoạt động kinh doanh của mình.

Nguồn hình thành vốn chủ sở hữu bao gồm :
Vốn ban đầu :
Là nguồn vốn do các chủ sở hữu đóng góp và được ghi trong điều lệ của ngân hàng
và nó không được nhỏ hơn vốn pháp định. Nguồn vốn này được hình thành khác nhau
tuỳ vào hình thức sở hữu của ngân hàng. Nếu ngân hàng thuộc sở hữu của nhà nước thì
vốn ban đầu sẽ do nhà nước cấp. Với các ngân hàng là ngân hàng cổ phần thì vốn ban
đầu sẽ do các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ phiếu. Còn ngân hàng liên doanh thì
vốn ban đầu sẽ do các bên liên doanh đóng góp. Ngân hàng tư nhân thì sẽ do chủ sỡ hữu
của ngân hàng đó bỏ tiền của mình ra để làm vốn ban đầu.
Vốn bổ sung :
Để mở rộng quy mô hoạt động kinh doanh các ngân hàng sẽ tăng số vốn chủ sở hữu
lên từ các nguồn là :
Vốn từ lợi nhuận :


Nguồn này chỉ trích ra khi lãi ròng của các ngân hàng lớn hơn 0. Và tỉ lệ nguồn vốn
này được trích ra lại tuỳ thuộc vào từng chủ sở hữu ngân hàng, dựa trên cơ sở giữa lọi ích
tiêu dùng và lợi ích tiêu dùng.

Vốn thu từ việc phát hành thêm cổ phiếu và trái phiếu :

Các NHTM sẽ thực hiện việc này khi vốn chủ sở hữu và quy mô hoạt động chưa đảm
bảo, tích tụ lợi nhuận thu được chưa đủ lớn. Nguồn thu nhập này lại phụ thuộc vào quy
định chặt chẽ và sự quản lý của nhà nước về việc phát hành cổ phiếu và trái phiếu, do vậy
nguồn vốn này không thu nhập thường xuyên.

Các quỹ : Quỹ dự phòng tổn thất, quỹ phúc lợi, quỹ thặng dư,…

2.2 Vốn tiền gửi
Là những giá trị tiền tệ mà ngân hàng huy động được từ các cá nhân trong và các tổ
chức kinh tế trong xã hội thông qua các quá trình thực hiện các nghiệp vụ tín dụng, thanh
toán và các nghiệp vụ kinh doanh khác được dùng làm vốn kinh doanh.
Vốn tiên gửi này đóng vai trò vô cùng quan trọng đối với các ngân hàng. Vì qui
mô của nó lớn hơn rất nhiều so với các nguồn vốn khác, thông thường nó chiếm khoảng
50% tổng nguồn vốn.
Đặc điểm của nguồn vốn này là chúng được thanh toán khi khách yêu cầu ngay kể
cả khi chưa đến hạn. Sự thay đổi, đặc biệt là tiền gửi ngắn hạn làm thay đổi cầu thanh
khoản của ngân hàng. Do sự biến động của nó nên các ngân hàng sẽ không sử dụng hết
nguồn vốn này vào kinh doanh mà phải dự trữ bắt buộc một tỉ lệ hợp lý để đảm bảo cho
việc thanh toán.
Lãi suất, tỷ giá, thu nhập cá nhân, chu kỳ tiêu dùng có ảnh hưởng lớn đến loại
nguồn vốn này. Lãi suất cao là một nhân tố kích thích các doanh nghiệp, dân cư gửi và
cho vay. Địa điểm ngân hàng, mạng lưới chi nhánh và quầy tiết kiệm, các loại hình huy
động đa dạng đều ảnh hưởng đến tới qui mô và cấu trúc của nguồn tiền. Chu kỳ chi tiêu
ảnh hưởng tới qui mô và tính ổn định của nguồn tiền. Cuối năm lễ tết dân chúng và các


doanh nghiệp cần rất nhiều tiền mặt để chi tiêu, vì thế nguồn tiền này co xu hướng giảm.
Ở những nơi có thu nhập cao như các thành phố dân cư đông hình thành nguồn tiền gửi

lớn. Thu nhập gia tăng là điều kiên để gia tăng qui mô và thay đổi kì hạn của nguồn tiền.
Khi ngân hàng mở rộng cho vay, tiền gửi của các doanh nghiệp và cá nhân cũng gia tăng.
Các nguồn gửi thanh toán thường biến động mạnh ( kém ổn định ) hơn tiền gửi tiết kiệm.

2.3 Vốn đi vay
Là số vốn mà NHTM vay của NHTW và các tổ chức tín dụng khác trong trường
hợp cần thiết cho thanh toán. Nguồn vốn này thường có thời hạn và qui mô xác định
trước, do vậy tạo được sự ổn định cho ngân hàng. Nguồn vốn này có thể không phải chịu
dự trữ bắt buộc và bảo hiểm tiền gửi. Tuy nhiên do rủi ro lớn nên lãi suất cho vay thường
lớn hơn lãi suất tiền gửi với cùng kỳ hạn. Các NHTM vay NHTW dưới hai hình thức
vay: thanh toán và tái cấp vốn. Việc NHTW cho các NHTM vay dưới hình thức chiết
khấu và tái chiết khấu các giấy tờ có giá trước kia mà NHTM đã mua trên thị trường sơ
cấp. Ngoài ra NHTW còn cho các NHTM vay theo sơ đồ tín dụng.
Các nhân tố ảnh hưởng quan trọng nhất là thu nhập của dân cư và sự ổn định vĩ mô
sau đến là các kĩ thuật nhiệp vụ của ngân hàng nhằm tạo tính thanh khoản của các giấy
nợ và thuận tiện đối với người cho vay. Mặc dù lãi suất thường xuyên cao hơn các nguồn
khác, song ngân hàng vẫn phải sử dụng phát hành giấy tờ nợ trung và dài hạn khi tiền gửi
khong đáp ứng được những yêu cầu như ổn định, qui mô đủ lớn trong khoảng thời gian
xác định.

2.4 Các nguồn vốn khác
Bao gồm nguồn uỷ thác, nguồn trong thanh toán
Nguồn uỷ thác
NHTM thực hiện các dịch vụ ủy thác cho vay, ủy thác đầu tư, ủy thác cấp phát, uỷ
thác giải ngân và thu hộ. Các hoạt động này tạo nên nguồn ủy thác tại ngân hàng.Cùng
với sự phát triển các mối quan hệ đa phương, rất nhiều tổ chức kinh tế xã hội có cùng


mục tiêu như ngân hàng, có nguồn tài chính, đã sử dụng mạnh lưới ngân hàng như kênh
dẫn vốn tới các mục tiêu. Kết quả là hình thành nguồn ủy thác, làm gia tăng nguồn vốn

của ngân hàng.
Nguồn trong thanh toán
Các hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt có thể hình thành nguồn thanh toán
( séc trong quá trình chi trả, tiền ký quĩ để mở L/C ) Những ngân hàng là ngân hàng đầu
mối trong đồng tài trợ có kết số dư từ tiền gửi của ngân hàng các thành viên chuyển về để
thực hiện.

II. Huy động vốn của ngân hàng thương mại
1. Khái niệm
Huy động vốn là một nghiệp vụ cơ bản của NHTM nhằm thu hút vốn từ bên ngoài để
phục vụ cho kinh doanh của mình.
2. Các hình thức huy động vốn
Các hình thức huy động vốn có thể được phân loại theo tiêu thức phổ biến : theo thời
gian huy động, theo đối tượng huy động, theo loại động tiền huy động và theo công cụ
huy động.

Phân loại theo thời gian huy động
Cách huy động này gồm ba hình thức :
Huy động ngắn hạn
Là hình thức huy động vốn với thời gian từ 12 thánh trở xuống. Vốn ngắn hạn luôn
chiêm một tỷ trọng lớn trong cơ cấu vốn huy động của các NHTM và được hình thành
chủ yếu từ tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế, tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền
thu được từ việc phát hành kỳ phiếu ngân hàng.
Do thời gian huy động ngắn nên độ rủi ro trong hình thức huy động này thấp hơn các
hình thức huy động vốn dài hạn. Vì vậy lãi suất huy động ngắn hạn bao giờ cũng thấp
hơn lãi suất trung và dài hạn.


Huy động trung hạn
Là hình thức huy động vốn trong thời gian từ 1-5 năm. Vốn trung hạn được hình thành

chủ yếu từ tiền gửi tiết kiệm trung hạn của dân cư, vốn uỷ thác, vốn thu được do phát
hành trái phiếu trung hạn của ngân hàng. NTHM thường sử dụng nguồn vốn này và một
tỷ lệ thích hợp vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn như cho vay các dự án sản xuất
kinh doanh, cho vay tiêu dùng.
Huy động vốn dài hạn
Là hình thức huy động vốn trong thời gian lớn hơn 5 năm. Nguồn cung cấp cho hình
thức huy động vốn này thường nhỏ hơn nhiều lần so với hình thức huy động vốn ngắn
hạn hơn và nó chủ yếu bao gồm vốn thu được do phát hành trái phiếu ngân hàng, vốn uỷ
thác. Ngoài ra, tiền gửi tiết kiệm dài hạn thông thường, tiết kiệm hưu trí, tiết kiệm cho
các kế hoạch chi tiêu trong tương lai của cư cũng như đóng góp một tỷ lệ không nhỏ.
Ở nước ta, vốn huy động trong thời hạn dưới 1 năm được gọi là ngắn hạn, từ 1-3
năm gọi là vốn trung hạn và từ 3 năm trở lên gọi là vốn dài hạn

2.2 Phân loại theo đối tượng huy động
Theo cách phân loại này, huy động vốn có thể chia ra làm 4 nhóm sau :
Dân cư
Đây là nguồn có nhiều tiềm năng nhất, cung cấp cho ngân hàng một nguồn vốn có
qui mô lớn và tính ổn định cao. Dân cư có thu nhập và tích trữ nhưng một bộ phận lại
không có khả năng hoặc điều kiện trực tiếp đầu tư vào sản xuất kinh doanh. Nhu cầu sinh
lợi đã khiến cho bộ phận này tiến hành đầu tư gián tiếp thông qua việc gửi vào ngân
hàng, ủy thác vốn cho ngân hàng, nắm giữ các chứng khoán mua bảo hiểm. Lý do khác
khiến người dân gửi tiêng vào ngân hàng là do nhu cầu đảm bảo an toàn vốn của họ hoặc
giúp họ thực hiện các chương trình tiết kiệm cho tương lai hoặc vì những tiện ích mà các
sản phẩm của ngân hàng mang lại.
Tổ chức kinh tế


Ngày nay, hầu hết các tổ chức kinh tế đều mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại
ngân hàng để thuận tiện cho việc giao dịch của mình. Số dư trên mỗi tài khoản này
thường xuyên biến động : doanh thu các tổ chức kinh tế nộp vào làm tăng số dư có tài

khoản này, ngược lại các khoản thanh toán hoặc rút tiền mặt sẽ làm giảm số dư này. Tuy
nhiên, xét trên tổng thể các tài khoản này đã đem lại cho ngân hàng một lượng vốn khá
ổn định, đặc biệt là đối với các NHTM có số lượng khách hàng là các tổ chức kinh tế.
Phát triển và quản lý tốt tài khoản này cho phép ngân hàng có được một nguồn vốn đáng
kể với chi phí thấp.
Các NHTM và các tổ chức tín dụng khác.
Đây là đối tượng huy động vốn khá thường xuyên của các NHTM. NHTM huy động
vốn từ các đối tượng này dưới hình thức vay ngắn trên thị trường liên ngân hàng nhằm
mục đích đảm bảo khả năng thanh toán, bù đắp thiếu hụt tạm thời. Các NHTM và tổ chức
tín dụng khi có dự trữ vượt quá yêu cầu ( do có sự gia tăng bất ngờ về các khoản huy
động hoặc giảm cho vay ) họ sẵn sàng cho vay ngắn hạn các khoản tiền tạm thời nhàn rỗi
này để thu lợi nhuận.
Ngoài ra, việc một NHTM này mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại một NHTM
khác cho phép NHTM giữ tài khoản một lượng vốn nhất định, mặc dù nguồn vốn này có
tính ổn định rất thấp.
Ngân hàng Trung ương
NHTM vay vốn của NHTW khi không còn huy động được nguồn nào khác, và chỉ
vay bù đắp thiếu hụt tạm thời hoặc đảm bảo khả năng thanh toán.NHTW cho NHTM vay
chủ yếu dưới hình thức tái chiết khấu hoặc cầm cố các thương phiếu mà NHTM nắm giữ.
NHTW thực hiện những khoản cho vay trên chủ yếu nhằm mục đích thực thi chính
sách tiền tệ của mình,giữ cho hệ thống thanh toán vận hành được trôi chảy hoặc để đảm
bảo an toàn hê thống ngân hàng. NHTW do vậy có qui định rất chặt chẽ trong việc cho
vay này nhằm buộc các NHTM phải quản lý nguồn vốn của mình một cáhc có hiệu quả,
đảm bảo cho các nhu cầu sử dụng và khả năng thanh toán của mình, đồng thời cũng buộc
các NHTM phải năng động và nỗ lực tìm kiếm các nguồn khác trên thị trường tài chính
trước khi nghĩ đến việc vay từ NHTW.



2.3 Phân loại theo loại đồng tiền huy động

Tuỳ thuộc vào nhu cầu sử dụng của bản thân và khả năng cung cấp của thị trường
mà NHTM có thể huy động vốn bằng các loại tiền tệ khác nhau. Huy động vốn bằng
đồng ngoại tệ, các ngân hàng phải cân nhắc đến rủi ro hối đoái, lạm phát, lãi suất tương
ứng trên thị trường quốc tế để có lãi suất, kỳ hạn, qui mô huy động cho phù hợp đảm bảo
kế hoạch huy động và hiệu quả.
Theo tiêu thức phân loại này, huy động vốn chia làm hai loại :
+ Huy động vốn bằng đồng bản tệ
+ Huy động vốn bằng đồng ngoại tệ
Ở Việt Nam hiện nay, USD và EUR là đồng ngoại tệ chủ yếu được NHTM tổ chức
huy động và nó trở thành một nguồn vốn quan trọng, chiếm một tỉ trọng không nhỏ trong
tổng nguồn vốn huy động của NHTM.

2.4 Phân loại theo công cụ huy động
Huy động bằng nghiệp vụ nhận tiền gửi
NHTM thực hiện nghiệp vụ nhận tiền gửi từ các đối tượng khác nhau như : dân cư,
các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội ,các ngân hàng, chúng ta có thể phân các món tiền gửi
này theo các nhóm
Tiền gửi thanh toán là tiền gửi không kỳ hạn trước hết được sử dụng để tiến hành
thanh toán chi trả các hoạt động hàng hoá, dịch vụ và các chi phi phát sinh khác trong
quá trình kinh doanh hoạt động một cách thưòng xuyên, an toàn và thuận tiện. Tiền gửi
thanh toán thường dược bảo quản ở ngân hàng trên hai loại tài khoản : tài khoản tiền gửi
thanh toán và tiền gửi vãng lai. Đối với tài khoản tiền gửi thanh toán, việc rút tiền hoặc
chi trả cho bên thứ ba thường được thực hiện bằng séc hay chuyển khoản. Khách hàng
mở tài khoản này nhằm mục đich đảm bảo thế năng và sử dụng dễ dàng thuận lợi đồng
vốn của mình khi cần. Tài khoản vãng lai là tài khoản có lúc dư nợ có lúc dư có. Với tài


khoản này, khách hàng còn có thể được ngân hàng đáp ứng nhu cầu tín dụng trong một
khoảng thời gian nhất định.
Về phía ngân hàng, mặc dù tiền gửi thanh toán nếu xét trên từng món là nguồn vốn

không ổn định, ngân hàng có nghĩa vụ thanh toán nó tại bất kỳ thời điểm nào theo yêu
cầu của chủ tài khoản. Nhưng nếu xét trên tổng thể các khoản tiền gửi với qui mô khá ổn
định. Quản lý và dự báo tốt tình hình biện động tiền gửi thanh toán sẽ giúp ngân hàng có
một nguồn vốn không nhỏ với chi phí thấp phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình,
đặc biệt các hoạt động vay ngắn hạn, các hoạt động nắm giữ các tài sản sinh lời có tính
lỏng cao như tín phiếu kho bạc.
Bên cạnh đó, ngân hàng còn có thu nhập từ thu phí dịch vụ thanh toán. Tiền gửi thanh
toán là một nguồn vốn quan trọng đem lại nhiều lợi ích cho ngân hàng. Vì vậy, các ngân
hàng luôn cố gắng huy động ngày càng nhiều loại tiền này.
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền mà cá nhân, tổ chức gửi vào ngân hàng với mục
đích hưởng lãi là chính, bên cạnh mục đích an toàn hoặc để thực hiện các chương trình
tiết kiệm cho tương lai. Khách hàng không thể trực tiếp sử dụng tiền trong tài khoản tiết
kiệm để thanh toán qua ngân hàng. Tiền gửi tiết kiệm có thể có kỳ hạn hoặc không có kỳ
hạn. Sử dụng hình thức gửi tiết kiệm không kỳ hạn, khách hàng có quyền rút tiền ra bất
cứ lúc nào họ muốn. Tuy nhiên, lãi suất cho hình thức này thấp hơn lãi suất cho hình thức
gửi tiết kiệm có kỳ hạn. Sử dụng hình thức gửi tiết kiệm có kỳ hạn, khách hàng cũng có
thể rút tiền trước kỳ hạn khi họ muốn. Trong trường hợp này thì khách hàng sẽ chỉ được
nhận với lãi suất bằng lãi suất gửi tiết kiệm không kỳ hạn.
Tiền gửi tiết kiệm, đặc biệt là loại có kỳ hạn được đánh giá là nguồn vốn quan trọng
đối với các NHTM bởi tính ổn định và khả naeng cung ứng cực lớn của thị trường mặc
dù chi phí huy động tương đối cao. Nắm giữ nguồn vốn này trong tay, các NHTM vó thể
tiến hành cjo vay trung và dài hạn nhiều hơn với độ rủi ro thanh khoản thấp.
Các NHTM ở nước ta hiện nay đang thiếu vốn để cho vay trung và dài hạn. Trong tình
hình nhu cầu của nền kinh tế về loại vốn này không ngừng gia tăng, tăng cường huy động
tiền gửi tiết kiệm của dân cư đang là nhiệm vụ trọng tâm của nhiều ngân hàng.
Phát hành kỳ phiếu và trái phiếu


Để phục vụ cho các hoạt động kinh doanh của mình, đặc biệt là việc cho vay trung và
dài hạn, NHTM chủ động huy động vốn bằng việc phát hành kỳ phiếu và trái phiếu trên

thị trường tái chính.
Kỳ phiếu và trái phiếu ngân hàng đều là các giấy tờ nhận nợ của ngân hàng, trong đó
ngân hàng cam kết thực hiện nghĩa vụ thanh toán đầy đủ cả gốc và lãi cho người nắm giữ
nó. Kỳ hạn huy động là điểm khác nhau cơ bản giữa hai công cụ ghi nợ trên: kỳ phiếu
ngân hàng dùng để huy động vốn ngắn hạn ; trái phiếu ngân hàng dùng để huy động vốn
trung và dài hạn. Kỳ phiếu có thời gian ngắn hơn, tính lỏng hơn trái phiếu nên được thị
trường ưa thích hơn. Vì vậy, các NHTM phát hành kỳ phiếu thường xuyên hơn phát hành
trái phiếu. Trái phiếu thường được các ngân hàng phát hành để chuẩn bị tài trợ cho những
dự án cụ thể có vốn đầu tư lớn, thời hạn dài.
Huy động vốn qua nghiệp vụ uỷ thác
NHTM thực hiện các nghiệp vụ ủy thác như : ủy thác cho vay. ủy thác đầu tư, ủy thác
giải ngân, ủy thác thu hộ. Theo đó ngân hàng thực hiện các hoạt động cho vay, đầu tư
giải ngân cho khách hàng của mình bằng nguồn vốn của họ. Nhưng cũng thực hiện hoạt
động thu hộ cho khách hàng khi họ yêu cầu. Thực hiện nghiệp vụ ủy thác, bên cạnh lợi
ích từ việc thu phí dịch vụ ngân hàng còn được nắm giữ vốn ủy thác của khách hàng và
có thể sử dụng nguồn vốn không phải trả lãi này trong những khoảng thời nhất định.
Các ngân hàng thường nhận được ủy thác cho vay, ủy thác giải ngân của khách hàng
lớn như chính phủ, các tổ chức kinh tế lớn, các tổ chức kinh tế và chính phủ nước ngoài.
Do vậy vốn ủy thác thường có qui mô lớn.
Vốn ủy thác là một nguồn vốn chi phí thấp, qui mô lớn và việc sử dụng nó thường
nằm trong kế hoạch nên giúp ngân hàng chủ động trong sử dụng. Do vậy các NHTM luôn
cố gắng mở rộng nguồn vốn này.

III - Các yếu tố ảnh hưởng tới khả năng huy động vốn của ngân hàng thương mại.

1. Các yếu tố bên ngoài



Thực trạng nền kinh tế

Sự ảnh hưởng của nền kinh tế đến hoạt động huy động vốn của hệ thồng NHTM dưới
2 giác độ :
Khi nền kinh tế đang trong tăng thời kỳ tăng trưởng sẽ tạo ra hàng loạt các điều kiện
thuận lợi cho công tác huy động vốn như sự tích luỹ của nền kinh tế cao, các doanh
nghiệp muốn mở rộng quy mô sản xuất, nhu cầu đầu tư cao. Các dịch vụ của ngân hàng
được sử dụng nhiều hơn tạo ra các nguồn vốn cho ngân hàng.
Ngược lại khi nền kinh tế đang trong thời kỳ suy thoái thì sản xuất kinh doanh của mọi
thành phần kinh tế đình đốn, vật tư hàng hoá ứ đọng, công nhân thất nghiệp… dẫn đến
thu nhập của các doanh nghiệp và dân chúng bị ảnh hưởng nghiêm trọng, điều đó đồng
nghĩa tích luỹ trong nền kinh tế giảm mạnh. Các nhà đầu tư không muốn đầu tư vào kinh
doanh sản xuất. Và sự lạm phát luôn đi kèm với nền kinh tế suy thoái, làm giá trị đồng
tiền giảm. Tâm lý của dân chúng không muốn gửi tiền vào ngân hàng để tránh bị trượt
giá của đồng tiền, họ chuyển sang cất trữ bằng ngoại tệ hay vàng để đảm bảo an toàn hơn.
Như vậy hoạt động huy động vốn của ngân hàng bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

1.2 Môi trường kinh tế
Sự phát triển của hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán có ảnh hưởng trực
tiếp đến hoạt động huy động vốn của các NHTM.
Khi hệ thống ngân hàng phát triển mạnh mẽ dẫn đến sự cạnh tranh giữa các ngân hàng
với nhau và với các tổ chức tài chính phi ngân hàng có ảnh hưởng mạnh mẽ trực tiếp đến
hoạt động huy động vốn của các NHTM. Nói chung sự cạnh tranh mà càng gay gắt thì
càng bất lợi cho các ngân hàng, ít nhất là việc gia tăng chi phí đầu vào và thu hẹp giá cả
đầu ra. Tuy nhiên trong cuộc cạnh tranh này thì lại mang cho các ngân hàng những cơ hội
và thách thức, nếu ngân hàng nào biết quản lý và có những chiến lược tốt thì sẽ chiến
thắng. Khi đó ngân hàng sẽ mở rộng được thị phần cả đầu vào và đầu ra của mình; ngược
lại sẽ bị thu hẹp qui mô hoạt động có thể dẫn tới phá sản.


Sự phát triển của thị trường chứng khoán cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến khả năng
huy động vốn của NHTM. Khi thị trường chứng khoán phát triển nó sẽ dễ thu hút được

các nguồn vốn của các nhà đầu tư vì nó có ưu điểm là đầu tư trực tiếp, tinh lỏng cao và
nhiều tiện ích hơn. Tuy nhiên sự phát triển của thị trường chứng khoán không chỉ toàn
những tác động tiêu cực tới hoạt động huy động vốn của NHTM. Nhờ có thị trường
chứng khoán các NHTM sẽ dễ dàng thực hiện trong việc phát hành kỳ phiếu và trái phiếu
hơn và các kỳ phiếu, trái phiếu của ngân hàng sẽ có tính lỏng cao. Như vậy, việc huy
động vốn bằng phát hành công cụ nợ sẽ có hiệu quả hơn rất nhiều. Ngoài ra, các NHTM
có thể cung cấp cho các khách hàng tham gia vào thị trường chứng khoán hàng loạt các
dịch vụ liên quan như: môi giới chứng khoán, tư vấn chứng khoán, quản lý danh mục đầu
tư chứng khoán. Đây là những dịch vụ đem lại lợi nhuận cho ngân hàng, ngoài ra còn có
một số dịch vụ cho phép ngân hàng nắm giữ và sử dụng tiền vốn của khách hàng.

Cơ chế chính sách nhà nước
Hệ thống ngân hàng có tầm quan trọng đối với nền kinh tế và mức độ rủi ro trong hoạt
động nên phải chịu sự điền chỉnh rất chặt chẽ của một hệ thống các văn bản pháp luật,
chịu sự quản lý sát sao của các cơ quan chức năng có thẩm quyền. Hoạt động huy động
vốn là một trong các hoạt động ngân hàngchịu sự điều tiết khắt khe của qui định pháp
luật. Như tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu sẽ giới hạn quy mô huy động của mỗi NHTM trên cơ
sở căn cứ vào vốn chủ sở hữu, các qui định liên quan tới hoạt động nhận gửi tiền ; tới
việc vay vốn tại NHNN ; việc phát hành các công cụ nợ ; và các qui định liên quan đến
việc sử dụng vốn. Các qui định nhìn chung đều nhằm mục đích đảm bảo cho ngân hàng
hoạt động an toàn, hiệu quả, đồng thời bảo vệ quyền lợi cho người gửi tiền. Tuy nhiên,
khi sự điều tiết này là bất hợp lý, nó sẽ gây ra các tác động ngược lại với mong muốn.
Chính sách tiền tệ cung là yếu tố ảnh hưởng rất mạnh đến hoạt động huy động vốn
của NHTM. Lãi suất chiếu khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở là những
công cụ chủ yếu để NHTW thực hiện chính sách này, ngoài ra lãi suất tín dụng do
NHTW áp đặt đối với các NHTM cũng là công cụ cua chính sách tiền tệ của một số quốc
gia. Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt, NHTW sẽ lựa chọn một hoặc một số biện


pháp sau : tăng lãi suất chiết khấu, bán ra thị trường mở các giấy tờ có giá ngắn hạn, tăng

tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Tất cả những động thái này sẽ dẫn đến sự giảm mức cung tiền trong
nền kinh tế, lãi suất gia tăng…NHTM vì thế rất khó khăn trong hoạt động huy động vốn
nói riêng và các hoạt động kinh doanh khác nói chung. Ngược lại một chính sách tiền tệ
nới lỏng sẽ tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho hoạt động huy động vốn của NHTM.

Tập quán tiêu dùng, cất trữ và yếu tố tâm lý của khách hàng
Những thói quen thanh toán hoặc cất trữ bằng tiền mặt của một bộ phận dân cư ở
nước ta vẫn rất lớn, thậm chí có cả một số bộ phận tổ chức kinh tế xã hội ( vì nhiều lí do
khác nhau như tính bí mật, hoạt động ngầm….) đã làm hạn chế khả năng huy động vốn
của các NHTM. Dân cư nắm trong tay một vốn lớn, và nếu tập lập cho họ được thói quen
sử dụng các dịch vụ ngân hàng thì ngân hàng sẽ huy động được một nguồn vốn vô cùng
tiềm năng này.
Tâm lý của khách hàng cũng ảnh hưởng nhiều đến huy động vốn của ngân hàng. Khi
muốn gửi tiền vào ngân hàng thì tâm lý chung của khách hàng muốn gửi vào ngân hàng
nào có bề thế, uy tín cao, có lãi suất huy động vốn hấp dẫn, thủ tục gửi vào rút ra thuận
tiện, đặc biệt là phải giữ được bí mật về việc gửi tiền của họ. Ngân hàng nào thoả mãn
được các yếu tố trên của khách hàng thì ngân hàng đó sẽ được khách hàng lựa chọn.

2. Những yếu tố bên trong
Trong tình hình cạnh tranh rất gay gắt như hiện nay thì khả năng và hiệu quả huy
động vốn phụ thuộc vào năng lực cạnh tranh của các NHTM. Năng lực cạnh tranh đó chủ
yếu được thể hiện qua chính sách lãi suất, chính sách sản phẩm, chính sách ưu đãi và
chăm sóc khách hàng.

2.1 Chính sách lãi suất
Chính sách lãi suất ( lãi suất đầu vào và lãi suất đầu ra ) có tác động mạnh mẽ đến
khả năng huy động vốn của ngân hàng. Lãi suất đầu ra cao sẽ cho phép lãi suất đầu vào


nhích lên mà vẫn đảm bảo lợi ích của ngân hàng. Lãi suất đầu vào phải có tính cạnh tranh

đối thủ mới cho phép ngân hàng đạt kết quả huy động vốn như mong muốn. Tuy nhiên,
ngân hàng cũng xó thể cạnh tranh thông qua các chính sách nâng cao chất lượng dịch vụ.

2.2 Chính sách sản phẩm
Sự đa dạng hoá về sản phẩm ảnh hưởng nhiều đến huy động vốn. Các ngân hàng
luôn phải làm sao cung cấp nhiều loại hình sản phẩm để làm thoả mán nhu cầu đa dạng
của khách hàng. Để thực hiện được điều này, ngân hàng phải có một bộ phận chuyên thu
nhập thông tin, nghiên cứu về khách hàng, về thị trường, từ đó rút ra được các sản phẩm
có nhiều tiện ích nhất. Như về hoạt động huy động vốn thì việc đưa ra các hình thức khác
nhau về công cụ huy động, thời gian huy động, hình thức trả lãi, khả năng hoàn trả khi
khách hàng có nhu cầu rút đột xuất. Cùng với việc đa dạng hoá sản phẩm là việc nâng
cao chất lượng phục vụ của ngân hàng, các tiện ích mà sản phẩm đem lại cho khách hàng,
độ an toàn của sản phẩm.

2.3 Chính sách ưu đãi và chăm sóc khách hàng
Đối với một số khách hàng đặc biệt các ngân hàng tạo cho họ một số ưu đãi đặc biệt
về một số dịch vụ của ngân hàng. Và dịch vụ chăm sóc khách hàng có tính chất rất quan
trọng đối với sự lựa chọn của khách hàng. Chính sách này thực hiện có hỉệu quả sẽ đảm
bảo chí phí vốn huy động hợp lý và đem lại nhiều lợi ích cho ngân hàng trong việc thu
phí dịch vụ.
Năng lực cạnh tranh cao cộng với một bề dày thành tích hoạt động làm nên uy tín
của một ngân hàng. Đay là yếu tố quyết địng đến kết quả kinh doanh nói chung và hoạt
động huy động vốn nói riêng của một ngân hàng.












CHƯƠNG II THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ
PHÁT TRIỂN TỈNH HẢI DƯƠNG
I. Khái quát tình hình hoạt động của ngân hàng

1. Lịch sử hình thành và phát triển
Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam được thành lập theo quyết định số 177/
TTg ngày 26/04/1957 của Thủ tướng chính phủ với tên gọi Ngân hàng Kiến thiết Việt
Nam trực thuộc bộ tài chính, có nhiệm vụ quản lý cấp phát vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
Là một thành viên của Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, chi nhánh Hải Dương
cũng được thành lập từ rất sớm ngay từ những ngày đầu của sự nghiệp khôi phục và phát
triển kinh tế. Với số lượng cán bộ có 9 đồng chí: - Đ/c Đặng Huy Sách giữ chức vụ
trưởng chi nhánh , có 2 bộ phận cấp phát và kế toán. Ngân hàng Đầu tư và phát triển tỉnh
Hải Dương đã trưởng thành gắn liền với sự nghiệp cách mạng, sự chuyển mình của đất
nước, của ngành và của địa phương với các tên gọi :
Ngân hàng kiến thiết Hải Dương ( 26/4/1957)
Ngân hàng Đầu tư và xây dựng Hải Hưng (1981) trực thuộc Ngân hàng nhà nước
Việt Nam
Ngân hàng Đầu tư và phát triển Hải Hưng (1991)
Ngân hàng Đầu tư và phát triển Hải Dương (12/1996)
Đến nay Ngân hàng Đầu tư và phát triên tỉnh Hải Dương đã trở thành một ngân
hàng lớn có tổng tài sản hàng ngàn tỷ đồng, còn có 2 phòng giao dịch tại 2 khu vực công
nghiệp quan trọng của tỉnh là Hoàng Thạch ( Kinh Môn) và Tiền Trung (Nam Sách), 2
điểm giao dịch, 12 phòng nghiệp vụ, tổng số 120 cán bộ công nhân viên.


Cùng với quá trình xây dựng, trưởng thành và phát triển cảu toàn hệ thống. Bằng sự

cố gắng, nỗ lực, năng động, sáng tạo, Ngân hàng Đầu tư và phát triển tỉnh Hải Dương đã
vượt qua mọi khó khăn, thách thức và trưởng thành một ngân hàng chủ lực phục vụ đầu
tư phát triển, huy động vốn, cho vay dài hạn, trung hạn, ngắn hạn cho các thành phần
kinh tế, có nhiều kinh nghiệm đầu tư các dự án trọng điểm. Đóng góp xứng đáng vào sự
nghiệp CNH- HĐH đât nước và phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
Chi nhánh đã trưởng thành và đạt được những thành tích rất quan trọng trong việc lo
vốn đầu tư phát triển bằng nhiều biện pháp huy động : Tiền gửi của tổ chức kinh tế, tiền
gửi tiết kiệm, phát hành trái phiếu, kỳ phiếu, tiết kiệm cho vay xây dựng nhà… năm 1990
tổng số vốn đầu tư huy động đạt 1tỷ 665 triệu đồng, đến năm 2006 đạt 1.107 tỷ đồng, gấp
664 lần. Dư nợ cho vay năm 1990 đạt 6tỷ 492 triệu đồng đến 31/12/2006 đạt 801tỷ đồng,
gấp 123,3 lần.
Lượng khách hàng tăng bình quân hàng năm 3-4 lần. Từ chỗ không có khách hàng
là dân cư, tư nhân, cá thể gửi tiền, đến nay ngân hàng đã có gần 50.000 khách hàng.
Nguồn vốn huy động của chi nhánh luôn luôn tăng trưởng, năm sau cao hơn năm
trước. Do vậy, chi nhánh luôn đáp ứng ddủ nhu cầu vốn vay của khách hàng, tập trung
vốn cho những dự án đầu tư, sử dụng vốn có hiệu quả, không để ứng đọng vốn, đảm bảo
khả năng thanh toán kịp thời mọi trường hợp và an toàn vốn toàn hệ thống.
Dư nợ tín dụng tăng trưởng, doanh số hoạt động lớn. Cùng với tăng trưởng là việc
nâng cao chất lượng tín dụng, nợ quá hạn thông thường qua các năm bình quân chỉ chiếm
1% tổng dư nợ, đặc biệt là cuối năm 2000, 2001 không có nợ quá hạn. Thị phần tín dụng
chiếm trên 20% trên địa bàn. Ngân hàng Đầu tư và phát triển tỉnh Hải Dương tham gia
đầu tư có hiệu quả cao vào các công trình dự án mũi nhọn của tỉnh và đất nước như: Kinh
Môn, Thành phố Hải Dương, công trình nông nghiệp và nông thôn, xây dựng cở sở hạ
tầng, văn hoá xã hội.
Công nghệ ngân hàng ngày càng phát triển, từ chỗ lao động thủ công đến nay chi
nhánh đã thiết bị dàn hệ thống vi tính hiện đại, ứng dụng nhiều tiến bộ kĩ thuật công nghệ
vào hoạt động kinh doanh và điều hành, các chương trình phần mền phục vụ công tác:
quản trị điều hành, kế toán, nguồn vốn, tín dụng, thanh toán quốc tế, ngân quỹ, tiền



lương, quản lý hồ sơ… Do vậy việc hoạch toán, thanh toán, chuyển tiền kịp thời, chính
xác, phục vụ khách hàng thuận tiện, nhanh chóng.
Trong quá trình hội nhập và phát triển, để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của
khách hàng, Ngân hàng Đầu tư và phát triển tỉnh Hải Dương đã phát triển và mở rộng các
dịch vụ thanh toán trong nước, thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ, bảo lãnh, đại lý
uỷ thác đầu tư… nhằm khai thác tiềm năng, thế mạnh trên địa bàn như xuất khẩu các sản
phẩm nông sản, các sản phẩm công nghiệp nhẹ của ngành giầy, may và các sản phẩm thủ
công mỹ nghệ khác ra thị trường thế giới, tạo nhiều thuận lợi cho các doanh nghiệp trong
thanh toán…
Ngân hàng đã nhiều năm liền đạt danh hiệu đơn vị xuất sắc trong toàn bộ hệ thống
ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam, lá cờ đầu ngành ngân hàng trên địa bàn tỉnh.
Được chủ tịch nước tặng huân chương lao động hạng ba, huân chương lao động hạng nhì.
Thủ tướng chính phủ, Thống đốc ngân hàng nhà nước, chủ tịch UBND tỉnh Hải Dương,
tổng giám đốc ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam và các cấp ngành tặng nhiều
bằng khen, giấy khen cho tập thể và cá nhân cán bộ công nhân viên chức. Đản bộ đạt
danh hiệu đảng bộ trong sạch vững mạnh. Các tổ chức đoàn thể vững mạnh xứng đáng là
thành viên “Đơn vị anh hùng lao động trong thời kỳ đổi mới”
Sơ đồ bộ máy quản lý của Ngân hàng Đầu tư và phát triển tỉnh Hải Dương







































2. Kết quả hoạt động kinh doanh
* Biểu thực hiện các chỉ tiêu KHKD



Stt

Chỉ tiêu TH
2006
KH
2006
TH năm 2007
31/12/07

%TT
so 2006

% HT
KH
I Chỉ tiêu chính
1
Chênh lệch thu-chi 18,7 60,0 70,6 299% 118%
2
Thu nợ HTNB( gốc
và lãi)
- 33 42,9 130%
3
Thu dịch vụ ròng 3,5 5,0 5,602 59,6% 112%
4
Tỷ lệ nợ xấu 16,77% 7% 4,6%
5
Giới hạn dư nợ tín
dụng cuối kỳ
801 1.300 1.286 60,5% 98,9%
6 Dư nợ cao nhất trong

kỳ kế hoạch
801 1.350 1.286
7 Doanh thu khác thác
phi Bh
0,085 1,26 1,798 2.015% 142,7%

II Chỉ tiêu tham chiếu
8 Trích DPRR 15,0 20,0 24,0 60,0% 120%
9 Tỷ lệ giảm dư lãi treo
với cuối 2006
- -76% -51.3%
10 Tỷ trọng dư nợ TDH 33,8% 60% 45,3%
11 Tỷ trọng dư nợ NQD 72% 50% 69%
12 Tỷ trọng dư nợ có
TSĐB
62% 60% 66%
13 Định biên lao động 112 125 125 11,6% 100%
14 Chênh lệch T-CBQ
cán bộ
0,033 0,216 0,268 712% 124%
III Chỉ tiêu phục vụ


qu
ản trị
đi
ều hành

15 HĐV cuối kỳ 1.107 1.599 44,4%


16 HĐV bình quân 1.010 1.457 45,7%

17 Dư nợ tín dụng bình
quân
636 850 33,6%

18 tỷ lệ nợ quá hạn 0,52% 0,24%

19 Lợi nhuận trước thuế 3,6 33 817%


Trước những khó khăn và thử thách, nhận thức rõ yêu cầu nhiệm vụ năm 2007, ngay từ
đầu năm ngân hàng đã ổn định tổ chức , quyết tâm, nỗ lực triển khai thực hiện đồng bộ
nhiều giải pháp, nội bộ đoàn kết, thống nhất, năng động trong chỉ đạo điều hành và triển
khai thực hiện. Do vậy đã hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch kinh doanh và thực
hiện tốt các nhiệm vụ đề ra. Tuy nhiên có nhiều tổ chức tín dụng ngoài quốc doanh hoạt
động mới trên địa bàn nên thị phần hoạt động bị giảm so với trước.
- Tổng tài sản :
Tổng tài sản 31/12/2007 đạt 1.671 tỷ đồng, tăng trưởng 34% so năm trước. Cơ cấu tài
sản có : Dư nợ cho vay chiếm 80%, dự trữ chiếm 0,8%, tổng tài sản khác chiếm 19,2%.
- Huy động vốn:
Ngân hàng đã đẩy mạnh thực hiện chính sách khách hàng, chăm sóc, củng cố và phát
triển mối quan hệ hợp tác với bạn hàng. Tích cực triển khai các sản phẩm huy động vốn,
đa dạng hoá loại hình huy động : Huy động vốn tặng quà, khuyến mại, thể bảo hiểm BIC-
Bảo an, tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm ổ trứng vàng, Đổi mới phaong cách giao dịch,
trang bị cơ sở vật chất hiện đại đảm bảo phục vụ tốt nhất cho khách hàng.
Tổng nguồn vốn huy động tại chỗ đạt 1.599 tỷ đồng, tăng 44,4% so năm trước. Tiền
gửi tổ chức kinh tế đạt 805 tỷ đồng, tăng 153% so năm trước. tiền gửi dân cư đạt794 tỷ
đồng, tăng 0,63% so năm trước, tốc độ tăng dân cư thấp, chủ yếu tăng trong quý I và
giảm dần vào cuối năm.



Nguồn vốn VNĐ chiếm 78% tổng số. Nguồn vốn trung và dài hạn chiếm 47,5% tổng
nguồn tự huy động.
Huy động vốn bình quân đạt 1.457 tỷ đồng, tăng trưởng 45,7% so năm trước.
Thị phần huy động vốn trên địa bàn đạt 15,5%
- Công tác tín dụng
Tổng dư nợ đạt 1.336 tỷ đồng, tăng 66,7% so năm trước, đạt 99%
kế hoạch giới hạn trung ương giao ( kế hoạch < 1.350 tỷ đồng- Bao gồm cả cho vay xuất
nhập khẩu)
Dư nợ cho vay xuất nhập khẩu đạt 50 tỷ đồng, đạt 100% giới hạn trung ương giao .
Dư nợ cho vay ngoại tệ chiếm 31,9% / tổng dư nợ.
Dư nợ cho vay ngắn hạn đạt 731 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng54,7% / tổng dư nợ.
Dư nợ cho vay trung , dài hạn đạt 605 tỷ đồng, chiếm 45,3% tổng dư nợ( kế hoạch
<60% ).
Dư nợ cho vay ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng 69% / tổng dư nợ ( kế hoạch > 50% ).
Dư nợ cho vay có tài sản đặc biệt chiếm tỷ trọng 66% / tổng dư nợ ( kế hoạch > 60%
).
Tỷ trọng cho vay khách hàng nhà nước / tổng dư nợ : 0,22%.
Thị phần dư nợ đạt 12,7% trên địa bàn.
Thường xuyên rà soát kiểm tra, đánh giá giá trị tài sản theo đúng quy định. Phân loại
nợ và trích dự phòng rủi ro theo Điều 7 quyết định 493 của ngân hàng nhà nước.
Thực hiện tốt vai trò và đầu nối giải ngân dây chuyền III xi măng Hoàng Thạch.
Nợ quá hạn 3,21 tỷ đồng, tỷ lệ 0,24% / tổng dư nợ, giảm so năm 2006 là 0,28%.
Nợ xấu còn 61 tỷ đồng, tỷ lệ nợ xấu 4,6% ( hé hoạch 7% ) giảm 73 tỷ đồng, tỷ lệ
giảm 12,1 % so năm trước.
Đôn đốc thu được 42,976 tỷ đồng nợ gốc và lãi ngoại bảng. Đạt 130% kế hoạch năm
Lãi treo còn 3,121 tỷ đồng, giảm 3,239 tỷ đồng, tỷ lệ giảm 51,3% so năm trước.
Số dự phòng rủi ro phải trích là 29 tỷ đồng
- Công tác dịch vụ



Thu dịch vụ ròng đạt 5,6 tỷ đồng, tăng 59,5 % so năm trước, đạt 112% kế hoạch và
chiếm 20% tổng chênh lệch thu chi thực trong năm. Thị phần thu dịch vụ của ngân hàng
chiếm 20,6% trên địa bàn.
Thu dịch vụ bảo lãnh 1.349 triệu đồng, thu KDNT đạt 453 triệu đồng, thu dịch vụ
thanh toán quốc 3.979 triệu đồng, phí phát hành thẻ đạt 225triệu đồng, thu dịch vụ ngân
quỹ đạt 78triệu đồng, thu dịch vụ khác 204 triệu đồng.
Số lượng thẻ ATM phát hành trong năm đạt: 10.717 thẻ, tăng 297% so năm trước,
đạt 153% kế hoạch năm, luỹ kế số thẻ phát hành là 16.049 thẻ.
Dư bảo lãnh đạt 124 tỷ đồng.
Doanh số mua ngoại tệ đạt 52,338 triệu USD, bán 52,432 triệu USD , tăng 94% so
với năm trước.
Doanh số xuất nhập khẩu đạt 66,706 triệu USD, tăng 50,3% so đầu năm, đạt 103%
kế hoạch.
Chi trả kiều hối đạt 2.305 món, số tiền: 3,459 triệu USD. Trong đó số món chuyển
tiền kiều hối WU 508 món, đạt 101,6% kế hoạch.
Số đơn vị chấp nhận thẻ thanh toán: 11.
- Công tác khai thác phí bảo hiểm:
Doanh thu khai thác phí bảo hiểm đạt1,798 tỷ đồng, đạt 142,6% kế hoạch năm.

II. Thực trạng huy động vốn tại ngân hàng đầu tư và phát triển tỉnh Hải Dương.
1. Sơ lược qua về huy động vốn của ngân hàng.
Với phương châm phát huy nội lực, lấy hiệu quả sản xuất kinh doanh của bạn
hàng làm mục tiêu hoạt động. Ngân hàng đã đẩy mạnh nhiều hình thức, giải pháp huy
động vốn và chính sách khuyến khích công tác huy động vốn của mình phải phù hợp với
các quy định của luật ngân hàng; nhằm khơi tăng các nguồn vốn ngắn hạn, trung và dài
hạn trong mọi tầng lớp dân cư, tổ chức kinh tế xã hội… để mở rộng kinh doanh và hoàn
thành các chỉ tiêu kế hoạch mà ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam giao cho.
Các hình thức huy động vốn mà ngân hàng đang thực hiện là:



- Nhận tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, không kỳ hạn của các cá
nhân, tổ chức thuộc mọi thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài bằng
VNĐ và ngoại tệ ( USD và EUR ).
- Phát hành kỳ phiếu và trái phiếu ngân hàng với nhiều kỳ hạn bằng VNĐ và
ngoại tệ.
- Vay vốn trên thị trường liên ngân hàng và ngân hàng nhà nước.
- Tiếp cận các nguồn vốn tài trợ, uỷ thác của chính phủ, các tổ chức kinh tế, cá
nhân trong và ngoài nước.
Giai đoạn 2005- 2007 vừa qua, Ngân hàng đã đổi mới điều hành lãi suất với các
phương thức trả lãi linh hoạt, mở rộng mạng lưới hoạt động và phong cách phục vụ hiện
đại, do vậy đã thực hiện tốt kế hoạch huy động vốn, tạo điều kiện thuận lợi thực hiện các
hoạt động khác, đặc biệt là hoạt động kinh doanh, góp phần đảm bảo hiệu quả hoạt động
của ngân hàng Đầu tư và phát triển tỉnh Hải Dương.


2. Thực trạng huy động vốn tại ngân hàng Đầu tư và phát triển tỉnh Hải Dương

2.1 Quy mô huy động vốn
Giai đoạn 2005- 2007, Ngân hàng Đầu tư và phát triển tỉnh Hải Dương luôn đạt mức tăng
trưởng cao về nguồn vốn huy động, đảm bảo các chỉ tiêu đã đề ra. Sự tăng trưởng nguồn
vốn huy động dược thể hiện ở biểu đồ sau



×