Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

LUẬN VĂN: Giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng tín dụng xuất nhập khẩu tại NHNT Hà Nội ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (613.79 KB, 64 trang )
















LUẬN VĂN:

Giải pháp và kiến nghị nhằm mở
rộng tín dụng xuất nhập khẩu tại
NHNT Hà Nội








Chương I: Một số vấn đề cơ bản về tài trợ cho xuất nhập khẩu của ngân hàng
thương mại.
1.1. Một số vấn đề cơ bản về hoạt động xuất nhập khẩu


1.1.1. Sự cần thiết của hoạt động xuất nhập khẩu .
Bất cứ một quốc gia nào muốn phát triển kinh tế không thể chỉ dựa vào nền sản
xuất trong nước mà còn phải quan hệ với các nước bên ngoài. Do có sự khác nhau về
điều kiện tự nhiên như tài nguyên, khí hậu mà mỗi quốc gia có thế mạnh trong việc
sản xuất một số mặt hàng nhất định.
Để đạt được hiệu quả kinh tế đồng thời đáp ứng được nhu cầu ngày càng đa dạng
ở trong nước, các quốc gia đều mong muốn có được những sản phẩm chất lượng cao
với giá rẻ hơn từ các nước khác đồng thời mở rộng được thị trường tiêu thụ đối với các
sản phẩm thế mạnh của mình. Chính từ mong muốn đó đã làm nảy sinh hoạt động
thương mại quốc tế.
Hoạt động thương mại quốc tế thông qua mối quan hệ rộng rãi vượt ra ngoài biên
giới quốc gia sẽ là cầu nối giữa nền kinh tế trong nước với nền kinh tế bên ngoài, đồng
thời tạo ra động lực thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế ở mỗi khu vực và trên toàn thế
giới.
Thương mại quốc tế được cấu thành bởi hai bộ phận cơ bản xuất khẩu và nhập
khẩu. Do vậy, xác định được vai trò quan trọng cũng như có sự quan tâm thích đáng
đến hoạt động xuất nhập khẩu là nhiệm vụ hàng đầu của hoạt động thương mại quốc tế.
Đối với Việt Nam, ngoài những đặc điểm nêu trên chúng ta còn có những nét đặc
thù riêng đó là nền kinh tế có xuất phát điểm thấp, cơ sở hạ tầng kĩ thuật lạc hậu, công
nghệ thủ công đang rất cần được đổi mới, bên cạnh đó tiềm lực xuất khẩu lại lớn
nhưng chưa được khai thác hiệu quả. Tất cả những điều này cho thấy hoạt động xuất
nhập khẩu đối với nước ta càng quan trọng hơn.
Vai trò của xuất nhập khẩu đối với sự phát triển kinh tế được thể hiện qua một số
khía cạnh cơ bản sau:





* Xuất khẩu

- Xuất khẩu đem lại nguồn thu ngoại tệ chủ yếu cho đất nước tạo điều kiện đẩy
nhanh quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước.
- Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Thông qua việc đẩy mạnh xuất khẩu, Nhà nước sẽ khuyến khích các ngành, nghề phát
triển bởi họ phần nào có được thị trường tiêu thụ ổn định và mở rộng hơn. Đồng thời,
sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường quốc tế sẽ tạo cho các nhà sản xuất sự năng động
và sáng tạo trong kinh doanh, sự quan tâm đúng đắn đến việc nâng cao hiệu quả quản lí,
đổi mới công nghệ cũng như nâng cao chất lượng của sản phẩm.
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho việc nhập khẩu có thể diễn ra thuận lợi hơn nhờ
nguồn ngoại tệ thu được và mối quan hệ quốc tế mà nó tạo ra.
* Nhập khẩu
Song song với hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu cũng đóng một vai trò vô cùng
quan trọng trong nền kinh tế. Cụ thể:
- Nhập khẩu tạo ra hàng hoá bổ sung cho hàng hoá thiếu hụt trong nước và thay
thế những sản phẩm trong nước không sản xuất được hay sản xuất với chi phí cao hơn
để đáp ứng nhu cầu sản xuất tiêu dùng nội địa một cách tốt nhất, từ đó tạo sự ổn định về
cung-cầu trong nước và cao hơn là sự ổn định kinh tế vĩ mô.
- Nhập khẩu có tác động đẩy nhanh quá trình xây dựng cơ sở hạ tầng kĩ thuật, đổi
mới công nghệ tạo tiền đề thuận lợi cho sản xuất.
- Ngoài ra, nhập khẩu còn có vai trò thúc đẩy xuất khẩu thông qua việc cung cấp
các nguyên vật liệu, máy móc thiết bị đầu vào cho xuất khẩu cũng như góp phần định
hướng sản phẩm, định hướng thị trường cho xuất khẩu.
Cuối cùng, một vai trò hết sức quan trọng của cả xuất và nhập khẩu đối với sự
phát triển kinh tế-xã hội đó là tạo công ăn việc làm, cải thiện đời sống nhân dân
và mở rộng hợp tác quốc tế.
1.1.2. Nhu cầu tài trợ xuất nhập khẩu.
Như đã nói trên, trong nền kinh tế mở các doanh nghiệp luôn phải đối đầu với sự
cạnh tranh gay gắt. Họ không chỉ phải cạnh tranh với các nhà sản xuất trong nước mà




còn phải cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài. Để chiến thắng trong cạnh tranh, ngoài
việc cần thiết phải có sự hỗ trợ của Nhà nước như sự ưu đãi về thuế, sự điều chỉnh tỉ giá
hối đoái phù hợp các doanh nghiệp còn cần phải có một tiềm lực tài chính mạnh để
thực hiện các hoạt động như đổi mới dây chuyền công nghệ, mua sắm máy móc hiện
đại, mua sắm nguyên vật liệu, cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành
Song trên thực tế do khả năng tài chính có hạn nên hầu hết các doanh nghiệp đều cần có
sự hỗ trợ từ bên ngoài.
Nhu cầu tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu nảy sinh từ những đòi hỏi đó và nó
gắn liền với các giai đoạn của hoạt động này.
Do hoạt động thương mại quốc tế hiện nay là rất đa dạng và vì thế cũng hết sức
phức tạp (nó bao gồm nhiều mối quan hệ như: thương mại giữa các nước phát triển,
thương mại giữa các nước đang phát triển, thương mại giữa các nước phát triển và đang
phát triển ) nên để phù hợp với điều kiện Việt Nam cũng như với đề tài nghiên cứu, ở
đây tôi chỉ xin đề cập đến hoạt động thương mại quốc tế giữa các nước phát triển và
đang phát triển.
- Xuất khẩu hàng hoá từ các nước phát triển sang các nước đang phát triển chủ yếu
là hàng hoá tư liệu sản xuất như máy móc thiết bị, kỹ thuật, công nghệ. Đây là những
hàng hoá mà để hoàn thành hoạt động xuất khẩu cần phải trải qua nhiều giai đoạn khác
nhau từ phân tích nhu cầu, kí kết hợp đồng, sản xuất cung ứng, lắp ráp chạy thử đến
thanh toán tiền hàng. Nhu cầu tài trợ thường để đáp ứng các chi phí cho quảng cáo, thiết
kế mẫu mã, sản xuất và cung cấp công trình.
- Xuất khẩu hàng hoá từ các nước đang phát triển sang các nước phát triển chủ yếu
là các mặt như nông, lâm, thuỷ hải sản, hàng thô hay mới qua sơ chế Và nhu cầu tài
trợ thường là để thu mua chế biến xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu vốn tạm thời.
Để có cái nhìn tổng quát về nhu cầu tài trợ nảy sinh trong hoạt động xuất nhập
khẩu ta sẽ xem xét nhu cầu tài trợ của các nhà xuất khẩu và nhập khẩu hình thành trong
cùng một hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá máy móc, thiết bị kĩ thuật, công nghệ.
* Nhu cầu tài trợ cho xuất khẩu
Việc thực hiện hoạt động xuất khẩu hàng hoá máy móc thiết bị thường kéo dài từ

nhiều tháng cho tới vài năm, do đó thông thường nhu cầu tài trợ thường nảy sinh ở
nhiều giai đoạn khác nhau. Cụ thể:



+ Giai đoạn phân tích nhu cầu, thiết kế, tìm kiếm khách hàng, đại diện tại các
hội chợ, đàm phán sơ bộ, lập kế hoạch: Để hoàn thành tốt giai đoạn này các chuyên
gia phải thực hiện các chuyến đi dài ngày và tiến hành nhiều cuộc đàm phán, phải làm
ra hàng mẫu và mô hình để trưng bày, giới thiệu. Sau đó họ còn phải hoàn tất các tài
liệu thiết kế và tính toán chính xác cho đàm phán hợp đồng. Chi phí cho những hoạt
động này không phải nhỏ, đặc biệt với các cơ sở kinh doanh tiềm lực tài chính còn hạn
hẹp.
+ Giai đoạn ký kết hợp đồng: Trong trường hợp nhà xuất khẩu chưa có uy tín cao
ở nước ngoài, đối tác có thể yêu cầu một bảo đảm giao hàng hoặc bảo đảm hoàn thành
công trình. Đảm bảo này sẽ có hiệu lực nếu việc giao hàng hoặc hoàn thành công trình
không đúng như thoả thuận.
Trường hợp khác, nếu nhà xuất khẩu cần tiền đặt cọc mà nhà nhập khẩu là người
nước ngoài đang gặp khó khăn về tài chính, nhà xuất khẩu có thể đề nghị ngân hàng của
mình cung cấp tín dụng tương đương với số tiền đặt cọc và nhà nhập khẩu có nghĩa vụ
chi trả cho khoản tín dụng đó
+ Giai đoạn chuẩn bị sản xuất: Sau khi đã kí hợp đồng, nhà xuất khẩu sẽ tiến
hành chuẩn bị sản xuất. Nhất là việc xây dựng các công trình lớn như, nhà máy, xí
nghiệp việc này thường đi kèm với chi phí lớn vượt quá mức đặt cọc.
+ Giai đoạn sản xuất: Mặc dù đã có những thoả thuận về việc thanh toán tiếp
theo của người mua, trong thời gian này thường nảy sinh các nhu cầu tài chính cao về
vật tư và chi phí liên quan khác vượt qua các khoản thanh toán giữa chừng.
+ Giai đoạn cung ứng: Ngay cả trong giai đoạn cung ứng cũng có thể nảy sinh
các chi phí cần được tài trợ như chi phí vận tải, bảo hiểm tuỳ theo điều kiện cung ứng.
+ Giai đoạn lắp ráp, chạy thử, bàn giao công trình: Sau khi hàng hoá được giao
tới địa điểm qui định, nhà xuất khẩu còn cần chi phí cho lắp ráp chạy thử cho tới khi

được người mua thu nhận và chấp nhận thanh toán.
+ Giai đoạn bảo hành: Trong giai đoạn này người mua có quyền yêu cầu được
bảo hành ở ngân hàng của nhà xuất khẩu trước khi thanh toán.
+Giai đoạn thanh toán: Hiện nay, để việc cung cấp hàng hoá xuất khẩu được
thuận lợi người xuất khẩu thường phải dành cho người mua một ưu đãi thanh toán trong



nhiều năm mà người xuất khẩu và ngân hàng của họ có thể chấp nhận được. Trong thời
gian chờ được thanh toán nhà xuất khẩu thường có nhu cầu được tài trợ để đảm bảo vốn
cho quá trình tái sản xuất tiếp theo.
 Nhu cầu tài trợ nhập khẩu
Với hoạt động nhập khẩu, nếu như nhà xuất khẩu có nhu cầu tài trợ để đẩy mạnh
hoạt động bán hàng thì các nhà nhập khẩu cũng nảy sinh nhu cầu tài trợ để mua hàng
khi khả năng tài chính không đáp ứng được. Vì vậy về phía nhà nhập khẩu cũng hình
thành nhu cầu tài trợ trên nhiều mặt.
- Giai đoạn trước khi kí kết hợp đồng: ở giai đoạn này các nhà nhập khẩu cần có
những chi phí cho việc thuê các chuyên gia phân tích chính xác nhu cầu của mình để
tiến hành đấu thầu một cách phù hợp.
-Giai đoạn sau khi kí kết hợp đồng: Sau khi kí kết được hợp đồng, nhà nhập khẩu
cần được tài trợ để đặt cọc, tạm ứng cho nhà xuất khẩu
-Giai đoạn sản xuất và hoàn thành công trình: Trong giai đoạn này nhà nhập
khẩu có thể phải thực hiện những khoản thanh toán giữa chừng cho nhà xuất khẩu hay
tài trợ cho các công việc ở điạ phương để chuẩn bị cho đầu tư.
- Giai đoạn cung ứng và vận chuyển hàng hoá: Tuỳ theo điều kiện cung ứng
hàng hoá có thể nảy sinh nhiều phí tổn về vận chuyển và bảo hiểm đối với các nhà nhập
khẩu.
- Nhận hàng hoá: Nếu tiến hành thanh toán cung ứng hàng hoá khi xuất trình
chứng từ (có thư tín dụng kèm theo hoặc theo điều kiện D/P) thì thường nhà nhập khẩu
chỉ có thể nhận được hàng khi giá trị trên hoá đơn đã ghi rõ hoặc có thể tài trợ được.

- Xử lí tiếp, bán tiếp, tài trợ tiêu thụ: Đối với hàng hoá chủ định bán tiếp thì nhà
nhập khẩu còn có nhu cầu tài trợ giữa chừng cho khoảng thời gian từ khi nhập hàng về
tới khi hàng hoá được tiêu thụ.
Nếu sản phẩm là những dây chuyền công nghệ để sản xuất thì nhà nhập khẩu sẽ có
nhu cầu được tài trợ cho giai đoạn từ khi sản xuất sản phẩm mới tới khi tiêu thụ được
các sản phẩm làm ra và thu được tiền hàng.



Qua việc xem xét nhu cầu tài trợ cho xuất nhập khẩu ở trên ta có thể khẳng định
rằng hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có một nhu cầu tài trợ rất lớn. Vậy thì để đáp
ứng cho nhu cầu đó có những nguồn tài trợ nào. Dưới đây là một số nguồn tài trợ
thường dùng cho xuất nhập khẩu.
1.1.3. Các nguồn tài trợ cho hoạt động xuất nhập khẩu.
Hoạt động xuất nhập khẩu là một trong những hoạt động kinh tế cơ bản, do vậy nó
cũng được tài trợ từ rất nhiều nguồn khác nhau. Trong đó, những nguồn tài trợ thường
được sử dụng là:
 Tín dụng thương mại (hay tín dụng nhà cung cấp): là nguồn tài trợ được thực
hiện thông qua hình thức mua bán chịu hàng hoá, dịch vụ với các công cụ chủ yêú là kỳ
phiếu và hối phiếu. Đây là nguồn tài trợ ngắn hạn được ưa dùng vì dễ thực hiện, khả
năng chuyển thành tiền mặt cao (thông qua chiết khấu tại các ngân hàng), linh hoạt về
thời hạn. Tuy nhiên, các công cụ như hối phiếu thường được sử dụng trên cơ sở có ngân
hàng đứng ra chấp nhận hay bảo đảm.
 Vốn tự có: Tuỳ theo loại hình doanh nghiệp khác nhau mà vốn tự có có thể là
vốn Ngân sách cấp, vốn cổ phần của các sáng lập viên công ty cổ phần hay vốn của chủ
doanh nghiệp tư nhân.
Vốn tự có chủ yếu bao gồm vốn khi thành lập doanh nghiệp như nói trên và phần
lợi nhuận để lại + khấu hao. Sử dụng vốn tự có doanh nghiệp có thể giảm được hệ số
nợ, tạo sự chủ động trong kinh doanh. Tuy vậy, nguồn tài trợ này có hạn chế là qui mô
không lớn và nhiều khi chi phí cơ hội của việc giữ lại lợi nhuận cao.

 Phát hành cổ phiếu: Với các doanh nghiệp trong điều kiện hiện nay họ có thể
phát hành cổ phiếu công ty để huy động nguồn vốn trung và dài hạn. Hình thức này có
ưu điểm là doanh nghiệp có được sự chủ động trong việc huy động và sử dụng vốn,
giảm được nguy cơ phá sản khi gặp khó khăn (vì có thể không phải phân chia lợi tức cổ
phần hoặc có thể hoãn trả lợi tức khi bị lỗ hoặc không có nhiều lãi) hay làm tăng vốn
chủ sở hữu, giảm hệ số nợ của doanh nghiệp Tuy nhiên, chỉ có các doanh nghiệp thỏa
mãn những điều kiện nhất định mới được sử dụng hình thức này. Với nước ta, do thị
trường tài chính còn chưa phát triển nên hình thức tài trợ này còn ít được sử dụng hoặc
nếu có sử dụng thì hiệu quả chưa cao.



 Phát hành trái phiếu công ty: Đây cũng là một hình thức tài trợ khá phổ biến
trong nền kinh tế thị trường gần như cổ phiếu.
Trái phiếu là một giấy chứng nhận nợ của doanh nghiệp. Sử dụng phát hành trái
phiếu doanh nghiệp có thể huy động vốn cho hoạt động kinh doanh mà không dẫn đến
phải chia quyền kiểm soát doanh nghiệp như khi sử dụng cổ phiếu thường. Tuy nhiên,
với trái phiếu doanh nghiệp thường phải trả lợi tức cố định cho dù hoạt động kinh
doanh có lãi hay không. Điều này dễ làm tăng khả năng phá sản đối với doanh nghiệp
khi gặp khó khăn về tài chính. Ngoài ra, với thị trường tài chính chưa phát triển như đã
nói trên thì hình thức này cũng khó phát huy tốt được ưu thế của nó.
 Tín dụng ngân hàng: Ngân hàng có thể tài trợ cho các doanh nghiệp thông
qua nhiều hình thức và với những mục đích sử dụng khác nhau như: cho vay ngắn hạn
theo hạn mức tín dụng, cho vay theo hợp đồng, cho vay có đảm bảo để thu mua dự
trữ, sản xuất, nhập khẩu nguyên vật liệu, đáp ứng nhu cầu vốn lưu động. Hoặc cho vay
dài hạn để đầu tư dự án, mua sắm máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ Tuỳ vào
từng doanh nghiệp mà Ngân hàng có thể áp dụng những hình thức nhất định sao cho
thuận lợi với cả hai bên. Một đặc điểm khá nổi bật của tín dụng ngân hàng là có khả
năng linh hoạt về lãi suất cũng như thời hạn.
 Các nguồn tài trợ khác: Ngoài các nguồn tài trợ trên các doanh nghiệp xuất

nhập khẩu còn có thể được tài trợ bằng các nguồn như đầu tư nước ngoài, vay nợ viện
trợ của nước ngoài, hỗ trợ của Chính phủ Hiện nay các nguồn này thường cũng được
sử dụng thông qua các Ngân hàng.
Như vậy, nguồn tài trợ cho xuất nhập khẩu rất đa dạng nhưng trong đó nguồn tín
dụng ngân hàng nhờ có những ưu thế riêng nên vẫn nắm giữ một vị trí đặ c biệt đối với
sự phát triễn của đất nước nói chung vá hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng
1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu.
1.2.1. Khái niệm, vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất
nhập khẩu .
1.2.1.1. Khái niệm.
Tín dụng nói chung là một phạm trù kinh tế được rất nhiều nhà kinh tế học đề cập
đến và do đó cũng có nhiều cách hiểu khác nhau về tín dụng.Tuy nhiên, theo cách hiểu



chung nhất thì: tín dụng là một quan hệ xã hội giữa người cho vay và người đi vay, giữa
họ có mối liên hệ với nhau thông qua sự vận động của giá trị vốn tín dụng được biểu
hiện dưới hình thái tiền tệ hoặc hiện vật.
Trên cơ sở đó ta có thể hiểu “ Tín dụng ngân hàng là quan hệ tín dụng bằng tiền
tệ giữa một bên là ngân hàng, một tổ chức chuyên doanh trên lĩnh vực tiền tệ với một
bên là các tổ chức, đơn vị kinh tế-xã hội, các cơ quan Nhà nước và các tầng lớp dân
cư ”.
Tín dụng ngân hàng ra đời và ngày càng phát triển mạnh mẽ, nhờ có khả năng đáp
ứng tốt mọi nhu cầu đa dạng về vốn của nền kinh tế mà nó đã không ngừng được mở
rộng sang tất cả các ngành, lĩnh vực khác nhau trong đó có hoạt đọng xuất nhập khẩu,
nó đã trở thành một nguồn tài trợ không thể thiếu đối với hoạt động xuất nhập khẩu của
các quốc gia. Sự tham gia hỗ trợ của các ngân hàng cho hoạt động xuất nhập khẩu có
tác động tích cực không chỉ về mặt tài chính mà còn về cả việc mở rộng quan hệ hợp
tác quốc tế.
Như vậy,mặc dù tín dụng vô cùng phong phú và đa dạng nhưng chúng đều thể

hiện hai mặt sau:
Thứ nhất: Người sở hữu một số tiền hoặc hàng hoá chuyển giao cho người khác
sử dụng trong một thời gian nhất định.
Thứ hai: Đến thời hạn hai bên thoả thuận, người sử dụng hoàn trả cho người sở
hữu một số tiền lớn hơn. Phần tăng thêm được gọi là lợi tức hay tiền lãi.
Theo khái niệm của C.Mác "Tín dụng dưới các hình thức biểu hiện đơn giản nhất
là sự tín nhiệm ít nhiều có căn cứ khiến cho một người này giao cho người khác một số
tư bản nào đó. Số tiền này được trả trong một thời gian nhất định Khi tư bản được cho
vay người ta tăng số tiền phải hoàn trả lên thêm một tỷ lệ phần trăm nhất định coi là
quyền sử dụng tư bản".
Theo kinh tế học hiện đại, quan điểm về tín dụng là hoàn toàn thống nhất với
quan điểm trên của Mác nhưng nhấn mạnh thêm cơ sở để thiết lập một quan hệ tín dụng
đó là "lòng tin" và cụ thể hoá thêm những nhân tố hướng tới quan hệ tín dụng.
Cụ thể, trong kinh tế học khẳng định rằng: Người ta chỉ sẵn sàng giao phó tiền
bạc hoặc tài sản của mình cho người nào mà người ta tin tưởng, hiểu rộng ra đây là sự
giao phó niềm tin, trao cho nhau niềm tin.



Người ta chỉ cho vay một khi người ta tin rằng người sử dụng số tiền đó sẽ thu
được lợi nhuận lớn hơn (có hiệu quả) sau một thời gian nhất định và do đó có khả năng
trả được nợ (thực hiện nghĩa vụ trả nợ của mình).
Tuy nhiên, trong thực tế không phải mọi việc lúc nào cũng đều trôi chảy, mà
không hiếm trường hợp người ta vay không thực hiện được nghĩa vụ của mình đối với
chủ nợ do những nguyên nhân khách quan hoặc chủ quan gây ra. Những trường hợp
này thường dẫn đến tổn thất cho người cho vay, người ta nói rằng đó là rủi ro trong kinh
doanh tín dụng.
Vì vậy, để ngăn chặn những tổn thất có thể xảy ra hay để hạn chế thấp nhất
những rủi ro trong kinh doanh tiền tệ - tín dụng, người ta phải đặc biệt quan tâm đến
khả năng trả nợ của người đi vay và từ đó có những biện pháp hữu hiệu bảo đảm cho tài

sản của mình đem cho vay.
Trên cơ sở nhận thức đó, người ta có thể có nhiều cách gọi tên khác nhau (định
nghĩa tín dụng khác nhau) nhưng dù cách nào chúng đều thống nhất với ở ba điểm chủ
yếu về tính chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị, tính thời hạn và tính hoàn trả.
Vậy tóm lại, tín dụng là quan hệ kinh tế giữa người cho vay và người đi vay,
giữa họ có mối quan hệ thông qua vận động của giá trị vốn tín dụng, được biểu hiện
dưới hình thức tiền tệ hoặc hàng hoá.
1.2.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu .
Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu được thể hiện
qua các mặt sau:
- Thứ nhất, giống như các nguồn tài trợ khác tín dụng ngân hàng là một nguồn vốn
quan trọng đối với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu để thu mua dự trữ, sản xuất, tiêu
thụ hàng hoá, mua sắm máy móc thiết bị phục vụ cho quá trình sản xuất cũng như tái
sản xuất của doanh nghiệp.
- Thứ hai, tín dụng ngân hàng góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp trên thị trường .
Kinh doanh có hiệu quả là yêu cầu của hạch toán kinh tế đồng thời cũng là một
trong những điều kiện cung cấp tín dụng của ngân hàng. Do đó, tín dụng ngân hàng
thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm hơn đến hiệu quả kinh doanh, nâng cao mức doanh
lợi. Bên cạnh đó, với khả năng linh hoạt về thời hạn và lãi suất của tín dụng ngân hàng



sẽ khuyến khích sự chủ động và sáng tạo của các doanh nghiệp trong việc sử dụng vốn
sao cho phù hợp với nhu cầu về vốn trong mỗi thời kỳ khác nhau.
Thứ ba, tín dụng ngân hàng thúc đẩy hoạt dộng xuất nhập khẩu diễn ra thuận lợi
và nhanh chóng hơn.
Thứ tư, xuất phát từ tính rủi ro trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cao và
do việc thiếu hiểu biết lẫn nhau giữa người mua và người bán sự có mặt của ngân hàng
sẽ là một đảm bảo cho cả hai bên, nhà xuất khẩu sẽ hạn chế được những rủi ro không

thanh toán khi ngân hàng đứng ra đảm bảo cung cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu và
ngược lại nhờ nguồn tín dụng của ngân hàng nhà nhập khẩu thực hiện được những nhập
khẩu quan trọng trong khi khả năng tài chính của họ chưa đáp ứng được.
Thứ năm, ngân hàng là một đầu mối tiếp nhận các nguồn tài trợ của nước ngoài
cho hoạt động xuất nhập khẩu. Bởi vì hiện nay phần lớn các nguồn tài trợ của các tổ
chức tài chính- tiền tệ quốc tế cho một quốc gia nào đó được thực hiện qua các ngân
hàng nước sở tại.
Vai trò của tín dụng ngân hàng đối với hoạt động xuất nhập khẩu càng có ý nghĩa
hơn khi ngân hàng thực hiện các chính sách của Nhà nước, trong đó có chính sách
hướng về xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. Ngân hàng sẽ cung cấp cho các nhà xuất
nhập khẩu những khoản tín dụng lớn với lãi xuất ưu đãi mà nhờ đó họ có thể giải quyết
vấn đề thiếu vốn trong hoạt động kinh doanh của mình.

1.2.2. Các hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân hàng thương mại.
Thương mại quốc tế bao gồm những mối quan hệ rất đa dạng,phức tạp. Với tư
cách là trung gian tài chính,ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo cho
hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra liên tục nhanh chóng,thuận lợi cho cả nhà xuất khẩu
và nhà nhập khẩu.Dựa trên các tiêu chí ta có thể chia tín dụng xuất nhập khẩu ra thành
các hình thức như sau:
1.2.2.1. Căn cứ vào phương thức thanh toán:
a) cho vay trong khuôn khổ thanh toán bằng L/C.



Thư tín dụng (L/C) là một văn bản pháp lý trong đó một ngân hàng cam kết sẽ
trả một số tiền nhất định cho nhà xuất khẩu hoặc chấp nhận hối phiếu do người này ký
phát trong phạm vi số tiền đó khi người này xuất trình cho ngân hàng một bộ chứng từ
thanh toán phù hợp với quy định đề ra trong thư tín dụng.
 Đối với L/C trong thanh toán hàng nhập khẩu:
+Cho vay ký quỹ L/C

Ký quỹ là một quy định của ngân hàng phát sinh trong trường hợp khách hàng
xin được bảo lãnh,khách sẽ phải nộp một khoản tiền nhất định vào tài khoản của họ tại
ngân hàng mà họ xin được bảo lãnh và khoản tiền đó se được phong toả cho đến khi
nghiệp vụ bảo lãnh của ngân hàng chấm dứt.Thông thường khoản tiền này được tính tỷ
lệ với giá trị hợp đồng mà khách hàng xin được bảo lãnh.Trong trường hợp thiếu sự tin
cậy hoặc thương vụ tiềm ẩn rủi ro cao ngân hàng có thể yêu cầu khách hàng ký quỹ
100% giá trị hợp đồng.Đối với những khách hàng đáng tin cậy hoặc có quan hệ thường
xuyên thì ngân hàng có thể chấp nhận mức ký quỹ thấp hơn so với giá trị họp đồng.
Thông thường mức ký quỹ L/C phụ thuộc vào các yếu tố sau.
-Khả năng thanh toán của khách hàng.
-Đối tượng khách hàng
-Loại L/C: L/C trả chậm thì mức ký quỹ thấp,loại L/C trả ngay thì bắt buộc mức ký quỹ
cao hơn.
-Loại hàng hoá nhập khẩu,khả năng tiêu thụ.
Trên cơ sở các yếu tố trên,ngân hàng sẽ quyết định mức ký quỹ,nếu như khách
hàng không có đủ số dư trên tài khoản thì phải tiến hành làm đơn xin vay ngoại tệ ký
quỹ L/C.
+ Cho vay thanh toán hàng nhập khẩu hoặc tài trợ thanh toán toàn bộ chứng từ
giao hàng.
Theo hình thức này khách hàng phải lập phương án sản xuất kinh doanh mang
tính khả thi cho lô hàng nhập về phục vụ sản xuất kinh doanh .Đồng thời khách hàng
phải lên kế hoách tài chính nhằm xác định khả năng thanh toán khi đến thời điểm thanh
toán dự kiến,xác định khoản thiếu hụt với ngân hàng tài trợ. Trên cơ sở xem xét và phân



tích kế hoạch và phản ánh của khách hàng,ngân hàng sẽ ra quyết định tài trợ và xác
định mức ngân hàng chấp nhận tài trợ.
 Đối với L/C trong thanh toán hàng xuất khẩu
+ Cho vay thực hiện hàng xuất khẩu theo L/C đã mở trên cơ sở L/C đã được

chấp nhận do ngân hàng mở L/C phát hành theo yêu cầu của nhà nhập khẩu .Ngân hàng
có thể cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu để tiêu thụ sản phẩm và có thể thực hiện nghĩa
vụ hợp đồng.
+Cho vay chiết khấu hoặc ứng trước tiền hàng xuất khẩu :
Để đáp ứng nhu cầu vốn,nhà xuất khẩu sau khi giao hàng xong có thể thương
lượng với ngân hàng thực hiện chiết khấu bộ chứng từ hoặc ứng trước tiền cho mình
trước khi bộ chứng từ được thanh toán.
b) Cho vay trong khuôn khổ phương thức nhờ thu kèm chứng từ.
+Nhờ thu đi trong thanh toán hàng xuất khẩu:Ngân hàng cho vay thu mua,sản
xuất hàng xuất khẩu,chiết khấu hoặc ứng trước bộ chứng từ hàng xuất khẩu.
+Nhờ thu đến trong thanh toán hàng nhập khẩu :Ngân hàng tiếp nhận chứng từ
từ ngân hàng nước ngoài,xuất trình hối phiếu đòi tiền nhà nhập khẩu.Nếu nhà nhập
khẩu không đủ khả năng thanh toán,thì cần phải có sự tài trợ của ngân hàng cho vay
thanh toán hàng nhập khẩu .
c) Cho vay trên cơ sở hối phiếu:
Trong kinh doanh ngoại thương hối phiếu đóng vai trò rất quan trọng,trên cơ sở
hối phiếu ngân hàng có các hình thức cho vay sau:
+ Chiết khấu hối phiếu:
Chiết khấu hối phiếu là một loại tín dụng ngân hàng cung cấp cho khách hàng
dưới hình thức mua lại hối phiếu trước khi nó đến hạn thanh toán,tức là ngân hàng mua
lại khoản nợ phải đòi.Chiết khấu hối phiếu tạo điều kiện cho nhà xuất khẩu nhận được
tiền sớm hơn nhằm đáp ứng được nhu cầu về vốn đối với khoản tín dụng cung ứng hàng
mà anh ta cấp cho nhà nhập khẩu.



Cơ sở để xác định khối lượng tín dụng này là giá trị của hối phiếu sau khi đã trừ
đi giá trị chiết khấu và lệ phí nhờ thu mà ngân hàng chiết khấu hưởng.Các ngân hàng sẽ
xác định khối lượng tín dụng cấp ra(giá trị chiết khấu) theo công thức sau:
Tck=M(1-Lck*t/3600)-P

Trong đó:
Tck :Giá trị chiết khấu
M :Mệnh giá hối phiếu
Lck : Lãi suất chiết khấu
t :Thời hạn chiết khấu(ngày)
P : lệ phí
Có 2 hình thức chiết khấu:
-Chiết khấu miễn truy đòi:
Ngân hàng mua lại bộ chứng từ của người xuất khẩu,giá mua sẽ thấp hơn giá trị
bộ chứng từ,do ngân hàng tính trừ lại chi phí chiết khấu và thời gian cần thiết trung bình
để đòi tiền nhà nhạap khẩu nước ngoài.Chiết khấu miễn truy đòi có nghĩa là người xuất
khẩu bán hãn bộ chứng từ cho ngân hàng,nhạn tiền và không còn trách nhiệm hoàn
trả,trách nhiệm thu tiền và quyền sữ dụng số tiền thu được hoàn toàn thuộc về ngân
hàng. ở Việt Nam các ngân hàng ít sữ dụng hình thức chiết khấu này vì nó tiềm ẩn
nhiều rủi ro cho ngân hàng.
-Chiết khấu được phép truy đòi:
Cũng tương tự như hình thức trên nhưng trách nhiệm thanh toán hối phiếu vẩn
còn đối với người chiết khấu hối phiếu(nhà xuất khẩu ) và giá trị chiết khấu cao hơn.
+Chấp nhận hối phiếu:
Tín dụng chấp nhận hối phiếu là khoản tín dụng mà ngân hàng ký chấp nhận hối
phiếu. Người vay khoản tín dụng này chính là nhà nhập khẩu và khoản vay chỉ là một
hình thức, một sự đảm bảo về tài chính. Thực chất ngân hàng chưa phải xuất tiền thực
sự cho người vay. Tuy nhiên khi đến hạn, nếu nhà nhập khẩu không đủ khả năng thanh



toán thì người cho vay (ngân hàng) - người đứng ra chấp nhận hối phiếu phải trả nợ
thay.
Tín dụng chấp nhận hối phiếu xảy ra trong trường hợp bên bán thiếu tin tưởng
khả năng thanh toán của bên mua. Họ có thể đề nghị bên mua yêu cầu một ngân hàng

đứng ra chấp nhận trả tiền hối phiếu do bên bán ký phát. Nếu ngân hàng đồng ý, điều đó
cũng có nghĩa là ngân hàng đã chấp nhận một khoản tín dụng cho bên mua để họ thanh
toán cho bên bán khi hối phiếu đến hạn.
Đối với ngân hàng, kể từ khi ký chấp nhận trả tiền hối phiếu cũng chính là thời
điểm bắt đầu gánh chịu rủi ro nếu như bên mua không có tiền thanh toán cho bên bán
khi hối phiếu đến hạn thanh toán.
Đương nhiên nếu đến hạn thanh toán hối phiếu, bên mua có đủ tiền thì ngân
hàng thực sự không phải ứng tiền ra. Như vậy, khoản tín dụng này chỉ là hình thức, là
một sự đảm bảo về tài chính. Trong trường hợp này, ngân hàng sẽ chỉ nhận được một
khoản phí chấp nhận, khoản tiền bù đắp cho chi phí gánh chịu rủi ro tín dụng mà thôi.
1.2.2.2. Căn cứ vào thời hạn cho vay:
a)-Tín dụng ngấn hạn:
Tín dụng ngấn hạn là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm,thường được sử
dụng cho vay bổ sung vốn lưư động phục vụ sản xuất kinh doanh của các đơn vị,chiếm
tỷ trọng lớn tại ngân hàng,cho vay để nhập khẩu nguyên liệu,vật tư,máy móc thiết bị,để
thu mua chế biến hàng xuất khẩu
b)-Tín dụng trung và dài hạn
Thời hạn của tín dụng trung và dài hạn tuỳ theo quy định của mổi nước,ở Việt
Nam tín dụng trung hạn có thời hạn từ 1-5 năm,tín dụng dài hạn từ 5 năm trở lên.Hình
thức tín dụng này được cung cấp để đầu tư mua sắm tài sản cố định,xây dựng mới,cải
tạo mở rộng,khôi phục,cải tiến thiết bị
1.2.2.3. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng:
a)-Tín dụng có bảo đảm:
Đây là hình thức tín dụng nhằm đảm bảo an toàn vốn cho vay của ngân hàng.Các
doanh nghiệp muốn được vay vốn của ngân hàng phải có vật tư tài sản cầm cố,thế



chấp,bảo lãnh của người thứ 3 đối với khoản vay.Những tài sản này là cơ sở đảm bảo
cho ngân hàng có khả năng thu hồi vốn cho vay trong trường hợp doanh nghiệp không

có khả năng trả được nợ.
b)-Tín dụng không có đảm bảo.
Đây là hình thức ngân hàng cho vay mà không cần tài sản thế chấp cầm cố hoặc
bảo lãnh của người thứ ba.Cơ sở để cho vay mà không cần đảm bảo là dựa vào uy
tín,quy mô,hiệu quả kinh doanh,phương án trả nợ.
1.2.2.4. Một số hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu khác
 Bao thanh toán toàn phần và bao thanh toán từng phần
* Bao thanh toán toàn phần (factoring): là một hình thức tài trợ chính trong
hoạt động xuất khẩu. Đó là hoạt động mua bán những khoản thanh toán chưa tới hạn và
ngắn hạn từ những hoạt động xuất khẩu, cung ứng hàng hoá dịch vụ.
Khác với hoạt động mua bán lại chứng từ thanh toán ở phần trên, hoạt động
factoring chỉ sử dụng cho những hoạt động xuất khẩu thường xuyên theo định kỳ, theo
hợp đồng ngắn hạn và cho nhiều nhà xuất khẩu khác nhau trong cùng một nước hoặc
nhiều nước trong cùng một thời điểm. Chỉ có những khoản thanh toán đáp ứng những
điều kiện sau mới được phép mua bán:
- Những khoản mua bán phải tồn tại một cách hợp pháp, phải có đủ tư cách pháp
lý độc lập với quyền một người thứ ba.
- Hàng hoá đã được cung ứng đầy đủ và đảm bảo chất lượng cho những khoản
thanh toán này.
- Thời hạn thanh toán này tối đa là 180 ngày.
- Không có quyền cấm chuyển nhượng các khoản thanh toán này của người nhập
khẩu hoặc nước nhập khẩu.
* Bao thanh toán từng phần (forfaiting): cũng là nghiệp vụ mua bán những khoản
thanh toán chưa tới thời hạn như factaring nhưng khác ở một số điểm sau:
- Forfaiting chỉ bao những khoản thanh toán cụ thể riêng lẻ trong toàn bộ quá
trình XNK dài hạn và cho từng đối tượng nhập khẩu riêng.
- Thời hạn thanh toán của factoring tối đa là 6 tháng trong khi thời hạn đối với
forfaiting là 6 tháng đến 10 năm. Forfaiting được coi là hình thức tín dụng trung và dài
hạn.




- Factaring phục vụ cho những hoạt động XNK không sử dụng tới tín dụng
chứng từ còn forfaiting lại dựa vào chúng và sự bảo đảm của ngân hàng.
 Tín dụng thuê mua
Thuê mua là hình thức tài trợ vốn, ra đời ở Mỹ vào năm 1952, sau đó nhanh
chóng thâm nhập vào Châu Âu đầu những năm 1960 và dần dần hiện nay đang được
các nước trên thế giới áp dụng.
Thuê mua là hình thức thuê tài sản dài hạn mà trong thời gian đó người cho thuê
chuyển giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho người đi thuê sử dụng. Người thuê có
trách nhiệm thanh toán tiền thuê trong suốt thời gian thuê và khi kết thúc thời hạn họ có
thể được quyền sở hữu tài sản thuê hoặc được mua lại tài sản thuê hay là được quyền
thuê tiếp. Điều này tuỳ thuộc vào thoả thuận của hai bên khi ký hợp đồng thuê. Có hai
loại hình thức thuê mua. Đó là: cho thuê vận hành và cho thuê tài chính.
- Cho thuê tai chính: là hoạt động tín dụng trung và dài hạn thông qua việc cho
thuê máy móc, thiết bị và các động sản khác. Bên đi thuê được chuyển quyền sở hữu
hoặc tiếp tục thuê khi kết thúc thời hạn thuê.
- Cho thuê vận hành: bên đi thuê thuê máy móc, thiết bị trong thời gian ngắn để
sử dụng vào mục đích tạm thời. Mọi rủi ro và lợi ích đem lại đối với quyền sở hữu tài
sản cho thuê vẫn thuộc người cho thuê.
So với hình thức cho vay truyền thống, hình thức thuê mua này có những ưu
điểm sau:
+ Các doanh nghiệp sẽ không phải bỏ tiền mua thiết bị ngay lập tức mà trả tiền
thuê thiết bị theo định kỳ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chủ động hơn về vốn để
tập trung cho sản xuất. Hình thức này có ý nghĩa nhất đối với doanh nghiệp không đủ
vốn nhưng vẫn có thể đi thuê thiết bị thiết bị để sản xuất và dùng một phần lợi thu được
từ sản xuất để trả tiền thuê định kỳ.
+ So với đi vay ngân hàng, việc thế chấp để được thuê máy móc thiết bị đơn giản
hơn nhiều do thiết bị thuê thuộc quyền sở hữu của bên cho thuê trong suốt thừoi gian
thuê, nên khi bên thuê không trả được nợ, bên cho thuê có thể lấy lại toàn bộ tài sản cho

thuê. Ngày nay các ngân hàng thường lập công ty tài chính riêng để hỗ trợ vốn cho các
doanh nghiệp và làm phong phú thêm hoạt động của mình.
 Tài trợ bảo lãnh và tái bảo lãnh



Trong thương mại quốc tế, rủi ro là một yếu tố luôn luôn xuất hiện trong các
thương vụ khác nhau (rủi ro thanh toán, rủi ro không thực hiện hợp đồng). Từ đó nảy
sinh nhu cầu bảo lãnh để hạn chế rủi ro.
Trong mua bán quốc tế, đôi khi nhà xuất khẩu không nắm chắc được khả năng
tài chính để thanh toán và mức độ tín nhiệm của nhà nhập khẩu. Do vậy, nhà xuất khẩu
sẽ yêu cầu nhà nhập khẩu phải có một tổ chức thường là ngân hàng đứng ra bảo lãnh
thanh toán. Ngược lại, do không biết rõ hoặc không tin tưởng nhau, nhà nhập khẩu có
thể yêu cầu nhà xuất khẩu có ngân hàng đứng ra bảo lãnh giao hàng hoặc bảo lãnh thực
hiện hợp đồng.
Ngân hàng nhận bảo lãnh theo yêu cầu của khách hàng, dùng để vay vốn nước
ngoài dưới hình thức tín dụng thương mại hoặc tín dụng tài chính. Trách nhiệm của
ngân hàng bảo lãnh là đảm bảo thi hành đúng cam kết với nước ngoài trong trường hợp
người xin bảo lãnh không thực hiện đủ nghiệp vụ nào đó với nước bên ngoài.
Bảo lãnh cũng có nhiều hình thức khác nhau:
+ Mở thư tín đụng trả chậm
+ Ký bảo lãnh hay ký chấp nhận trên các hối phiếu
+ Phát hành thư bảo lãnh với người nước ngoài
+ Lập giấy cam kết trả nợ với nước ngoài
Các lợi thế của các bên liên quan trong nghiệp vụ này
- Đối với nhà nhập khẩu (bên được bảo lãnh): được hưởng một khoản vốn của
bên xuất khẩu mà không phải trả lãi (thực chất có thể giá bán đã tính lãi rồi) chi trả một
khoản phí cho người bảo lãnh.
- Đối với nhà xuất khẩu: hoàn toàn yên tâm rằng đến hạn sẽ được thanh toán nợ.
Nếu cần tiền, nhà xuất khẩu cũng có thể đem bộ chứng từ chiết khấu tại một ngân hàng

khác để đáp ứng nhu cầu vốn của mình.
- Đối với ngân hàng bảo lãnh: với bất kì ngân hàng nào, khi tiến hành bảo lãnh,
nghĩa là được sự tín nhiệm, được sự tin tưởng về phía bên xuất khẩu, bên nhập khẩu.
Khi bảo lãnh cho khách hàng, ngân hàng chỉ cho vay trừu tượng nghĩa là ngân hàng
không bỏ ra một khoản vốn nào cả, mà chỉ lấy uy tín, danh dự của ngân hàng ra cho
vay, làm cơ sở cho vay.
Thủ tục bảo lãnh cho vay ngắn hạn theo phương thức cho vay thông thường
nghĩa là khi bảo lãnh cho khách hàng thì khách hàng phải có mục đích xin vay, có khả



năng thanh toán và có tài sản thế chấp. Khi đến hạn, nếu nhà nhập khẩu không có đủ
khả năng thanh toán, thì cần phải làm thủ tục xin vay tại ngân hàng. Như vậy, mục đích
bảo lãnh đã được thực hiện, nghĩa là ngân hàng bảo lãnh muốn khách hàng của mình
vay nhằm thu thêm được một khoản lãi, có khách hàng mới về mặt tín dụng và chi phí
bảo lãnh.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của ngân
hàng thương mại ở Việt Nam
Do việc cho vay có liên quan chặt chẽ đến cả ngân hàng và khách hàng mà nó
phục vụ, các chính sách cho vay phải được phác hoạ một cách cẩn thận sau khi đã xem
xét nhiều yếu tố. Sau đây là một số yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến tín dụng tài
trợ XNK của ngân hàng thương mại.
1/ Chủ trương chính sách phát triển kinh tế xã hội của Nhà nước
Các hoạt động kinh tế nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng chịu tác động rất
lớn bởi chính sách chủ trương đường lối phát triển kinh tế của Nhà nước.
- Về mặt tích cực: chính sách vĩ mô của Nhà nước có thể tạo điều kiện cho vay
XNK của ngân hàng được mở rộng và phát triển. Nếu Nhà nước dùng chính sách tiền tệ
mở rộng thì NHTM được cấp thêm vốn dự trữ, khả năng cho vay của ngân hàng sẽ gia
tăng. Các ngân hàng có thể có chính sách cho vay tự do hơn. Chính sách lãi suất linh
hoạt, lãi suất thực dương luôn là đòn bẩy thúc đẩy hoạt động tín dụng của ngân hàng.

Hoạt động tín dụng tài trợ XNK chủ yếu diễn ra theo hình thức cho vay bằng ngoại tệ.
Vì vậy nếu Nhà nước cho phép tập trung ngoại tệ vào ngân hàng, quản lý ngoại tệ một
cách chặt chẽ thì ngân hàng sẽ có nhiều nguồn ngoại tệ đáp ứng nhu cầu nhập máy móc,
thiết bị, nguyên liệu của nhà nhập khẩu.
- Về mặt tiêu cực: Chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước có thể gây ra nhiều rủi
ro cho hoạt động tín dụng XNK của ngân hàng. Nếu Nhà nước không có chiến lược
hướng về xuất khẩu thì hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp XNK rất hạn chế.
Từ đó dẫn đến hoạt động cho vay của ngân hàng sẽ ít đi lợi nhuận của ngân hàng sẽ
giảm xuống. Khi Nhà nước áp đặt một hàng rào thuế quan, phi thuế quan thì nó sẽ dẫn
đến tăng giá của một số loại hàng nhập khẩu, lượng hàng nhập khẩu giảm dẫn đến nhu
cầu vay vốn giảm.



Ngoài ra, việc thay đổi nhỏ trong chính sách lãi suất, tỷ giá hối đoái cũng tác
động không ít đến hoạt động tín dụng tài trợ XNK của Ngân hàng. Môi trường pháp
không ổn định, cơ chế chính sách hay thay đổi làm ảnh hưởng đến chiến lược kinh
doanh của doanh nghiệp, làm đảo lộn chính sách tín dụng của từng ngân hàng. Đây
chính là nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng cho các NHTM.
2/ Môi trường kinh tế chính trị, xã hội trong và ngoài nước
Đất nước, khu vực mà có nền kinh tế bị rơi vào khủng hoảng hoặc luôn luôn bị
chao đảo, biến động mạnh về kinh tế, chính trị dễ dẫn đến hoạt động tín dụng của Ngân
hàng bị thu hẹp. Ngược lại, nếu kinh tế ổn định sẽ dẫn đến chính sách cho vay tự do
hơn. Thực tiễn cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997 ở khu vực Đông Nam á đã
chứng minh điều đó. Tất cả hoạt động của các ngành các lĩnh vực của các quốc gia
trong khu vực, đặc biệt hoạt động của hệ thống ngân hàng đã bị ảnh hưởng sâu sắc.
Hàng loạt ngân hàng của Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia bị tàn phá do không thu lại
được các khoản nợ, không cho vay được để bù đắp chi phí khi nhu cầu tín dụng của khu
vực giảm.
Tình hình chính trị xã hội chiến tranh cũng như thiên tia, dịch hoạ cũng là một

trong những nguyên nhân gây ra rủi ro bất khả kháng đối với các khoản cho vay của
Ngân hàng.
3/ Khả năng ý thức thanh toán của doanh nghiệp XNK
Nhu cầu tín dụng của ngân hàng là yếu tố quyết định đến hoạt động tín dụng
ngân hàng được mở rộng hay thu hẹp. Song nếu có nhu cầu vay vốn để nhập máy móc
thiết bị từ nước ngoài để sản xuất hàng xuất khẩu nhưng khả năng hoàn trả của doanh
nghiệp không cao thì ngân hàng cũng sẽ không cho vay. Mặt khác, khi ngân hàng cấp
vốn cho vay các doanh nghiệp XNK, nhưng vì một nguyên nhân nào đó các ngân hàng
này gặp rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh (bị huỷ bỏ hợp đồng, hàng bị mất
cắp giảm giá trị ) làm cho họ không thu hồi đủ vốn để trả lại các khoản vay cho ngân
hàng. Đối với ngân hàng khi mà có quá nhiều khách hàng đến hạn trả mà khôn có khả
năng thanh toán hoặc cố ý chây ỳ thiếu ý thức tôn trọng các điều khoản thoả thuận trong
hợp đồng tín dụng thì ngân hàng sẽ mất khả năng thanh toán của mình thậm chí ngân
hàng còn rơi vào tình trạng phá sản.



Tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và của doanh nghiệp
hoạt động XNK nói riêng với thái độ ý thức thanh toán của doanh nghiệp sẽ thúc đẩy
hay kìm hãm hoạt động tín dụng của ngân hàng.
4/ Năng lực cho vay của ngân hàng
Khả năng huy động vốn của năng lực cho vay phụ thuộc vào vốn tự có của ngân
hàng. Do đó nếu doanh nghiệp kinh doanh XNK có nhu cầu vốn lớn, trong khi nguồn
vốn của ngân hàng nhỏ thì sẽ không thoả mãn yêu cầu của doanh nghiệp. Tín dụng
XNK của ngân hàng thương mại gắn liền với nguồn vốn ngoại tệ. Do đó làm thế nào để
huy động đủ ngoại tệ đáp ứng nhu cầu vay của doanh nghiệp nhập khẩu đang là vấn đề
lớn đối với nhiều NHTM.
5/ Các nhân tố khác.
Trình độ quản lý kinh doanh, quản lý vốn cũng như trình độ chuyên môn của đội
ngũ nhân viên tín dụng không phải là không có ý nghĩa đối với hoạt động cho vay XNK

của ngân hàng. Với một đội ngũ nhân viên có kinh nghiệm, có trình độ trong thẩm định
dự án, xem xét đơn vay vốn của khách hàng thì chất lượng tín dụng sẽ cao và ngược lại.
Bên cạnh đó, hoạt động tín dụng tài trợ XNK của NHTM cũng luôn phải đối mặt
với rủi ro lãi suất hay tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái luôn luôn biến động, sự biến động
này có thể diễn ra hàng ngày. Nếu tỷ giá hối đoái hợp lý sẽ khuyến khích cả nhập khẩu
và xuất khẩu, tạo điều kiện cho nền kinh tế nói chung và hoạt động kinh doanh của ngân
hàng nói riêng sẽ phát triển.
Hoạt động cho vay của ngân hàng chịu tác động của nhiều nhân tố khác nhau. Có
nhân tố tác động tích cực khuyến khích mở rộng hoạt động cho vay. Song cũng có
không ít những nhân tố kìm hãm, gây rủi ro cho hoạt động này của ngân hàng. Các
ngân hàng khi cấp tín dụng cho doanh nghiệp XNK phải lường trước mọi rủi ro có thể
xảy ra trong hoạt động ngoại thương để từ đó có những quyết định đúng đắn, kịp thời,
đạt hiệu quả kinh tế cao nhất.
















Chương II: Thực trạng hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu tại NHNT Hà Nội .

2.1. Khái quát về NHNT Hà Nội .
2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của NHNT Hà Nội .
Ngân hàng ngoại thương Việt Nam chi nhánh Hà Nội (gọi tắt là Ngân Hàng Ngoại
Thương Hà Nội) được thành lập theo quyết định số 177.NH.QĐ ngày 22 tháng 12 năm 1984
của Tổng giám đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ( nay là Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam),chính thức đi vào hoạt động từ 01/ 03/1985 theo sự quản lý và phân công của Ngân
hàng ngoại thương Việt Nam .
Ngân hàng ngoại thương Hà Nội là một tổ chức tài chính có tư cách pháp nhân,thực hiện
hạch toán kế toán và kinh tế thống nhất trong hệ thống Ngân hàng ngoại thương Việt Nam,hoạt
động theo nguyên tắc tự chủ về tài chính,đảm bảo và phát triển vốn,tự bù đắp chi phí và tự
chịu rủi ro.
Ngân hàng ngoại thương Hà Nội là ngân hàng trực thuộc và là chi nhánh cấp I trong hệ
thống Ngân hàng ngoại thương Việt Nam,cùng với Ngân hàng ngoại thương TP.Hồ Chí
Minh,Bà Rịa- Vũng Tàu được xếp loại doanh nghiệp hạng I
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của NHNT Hà Nội .
2.1.2.1. Cơ cấu tổ chức:
Hiện nay cơ cấu tổ chức Ngân Hàng Ngoại Thương Hà Nội gồm các bộ phân như sau :



1).Phòng Tín dụng-Tổng hợp.
2).Phòng Kế toán và Tài chính
3).Phòng Thanh toán xuất nhập khẩu
4).Phòng Hành chính – Nhân sự
5).Phòng Ngân quỹ
6).Phòng Tin học
7).Phòng Dịch vụ ngân hàng
8).Phòng Giao dịch số 2 Hàng Bài
9).Tổ Kiểm tra và Kiểm toán nội bộ.
Mỗi phòng do một Trưởng phòng điều hành và có một Phó phòng giúp việc.

Sơ đồ tổ chức Ngân Hàng Ngoại Thương Hà Nội :














Giám Đốc
Phó Giám Đ

c

Phó Giám Đ

c

Phó Giám Đ
ốc

Phòng Tín
Dụng Tổng Hợp
Phòng Thanh

Toán Quốc Tế
Phòng Tin H
ọc

Phòng Kế Toán
-Tài Chính

Phòng Ngân
quỹ

Phòng Dịch Vụ
Khách Hàng


Trụ Sở Chính






















2.1.2.2. Chức năng,nhiêm vụ của các phòng ban:
1). Phòng Tín dụng – Tổng hợp:
- Tham mưu,giúp Ban Giám đốc xây dựng các biện pháp để thực hiện chính sách,chủ
trương của Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam về tiền tệ,tín dụng Ngân Hàng,…
- Nghiên cứu phân tích kinh tế địa phương,giúp Ban giám đốc tham gia dựng chương
trình kế hoạch kinh tế –xã hội của thành phố và Ngân Hàng Ngoại Thương Việt Nam.
- Giúp Ban giám đốc về công tác Pháp chế của chi nhánh và thực hiện nghiệp vụ về hoạt
động thông tin tín dụng.
Phòng Hành
Chính Nhân Sự
Tổ Kiểm Tra
Nội Bộ
Tổ Quan Hệ
Khách Hàng

Chi Nhánh Cấp 2
Chi Nhánh Thành
Công

Chi Nhánh Cầu
Gi

y



Phòng Giao Dịch

Phòng Giao
Dịch Số 1

Phòng Giao
Dịch Số 2

Phòng Giao
Dịch Số 3



- Thực hiện nghiệp vụ cho vay đối với các thành phần kinh tế theo Luật Ngân Hàng và
Luật các tổ chức tín dụng,mở tài khoản cho vay,theo dõi hợp đồng tín dụng và tính lãi theo
định kỳ.
- Thẩm định và xem xét về bảo lãnh đối với những dự án có mức ký quỹ dưới 100%,chịu
trách nhiệm theo dõi quản lý thu hồi vốn,sau đó chuyển cho các phòng nghiệp vụ liên quan để
phát hành thư bảo lãnh trong hoặc ngoài nước.
- Điều hoà vốn ngoại tệ và đồng Việt Nam.
- Phối hợp với các phòng xây dựng kế hoạch vốn theo quý,năm.
- Kinh doanh ngoại tệ và thực hiện nghiệp vụ bán ngoại tệ cho các tổ chức kinh tế.
- Thực hiện một số nhiệm vụ khác do Giám đốc giao.
2). Phòng Kế toán và Tài chính.
a) – Bộ phận “ Xử lý nghiệp vụ chuyển tiền”:
Nhận yêu cầu chuyển tiền từ các giao dịch viên tại FRONT-END,bộ phận này có nhiệm
vụ kiểm tra tính pháp lý và xử lý tiếp các yêu cầu liên quan đến nghiệp vụ chuyển tiền của
khách hàng gồm :
-Về thanh toán: Liên hàng vãng lai nội bộ Vietcombank,bù trừ và liên hàng Ngân hàng

Nhà nước.
- Hạch toán điện đến từ nước ngoài theo MT 100,từ liên hàng nội bộ,từ bù trừ và từ liên
hàng Ngân hàng Nhà nước và chuyển báo có cho Phòng Dịch vụ Ngân hàng để trả cho đơn vị
hưởng hoặc mời khach đến nhận tiền.
- Xử lý các nghiệp vụ nhờ thu: thanh toán nhờ thu đi,đến trong nước và nước ngoài,séc
đích danh.
- Tạo các bảng kê trả lương tự động,thực hiện các giao dịch chuyển tiền tự động
(AFT),các giao dịch đầu tư tự động.
- Đối chiếu liên hàng nội bộ (Online & Ofline).
- Quản lý các báo cáo thuộc phần việc của mình.
b) – Bộ phận “ Quản lý tài khoản “ (Account Management)

×