LUẬN VĂN:
Hoàn thiện công nghệ marketing nhập khẩu
nguyên vật liệu phụ sản xuất hàng gia công
xuất khẩu của Công ty Da – Giầy Việt Nam
Lời nói đầu
Hội nhập là xu thế tất yếu của thời đại, quá trình này diễn ra dưới nhiều lĩnh vực và
dưới nhiều hình thức – quốc tế hoá về thương mại, về vốn, về sản xuất và dưới dạng tham
gia nhiều tổ chức kinh tế thế giới. Việt Nam đã là thành viên chính thức của hiệp hội các
nước Đông Nam á (ASEAN), của diễn đàn hợp tác Châu á Thái Bình Dương (APEC), của
tiến trình hợp tác á - Âu (ASEM) và tổ chức thương mại thế giới WTO. Tiến trình hội
nhập quốc tế của Việt Nam sẽ làm tăng sự cạnh tranh, cọ sát giữa các doanh nghiệp Việt
Nam với các doanh nghiệp nước ngoài, từ đó tạo cơ hội để các doanh nghiệp nước ta vươn
lên và tăng cường năng lực cạnh tranh quốc tế. Đồng thời, hội nhập và tự do hoá thương
mại sẽ phát huy được lợi thế so sánh của đất nước, tận dụng được những nguồn lực từ bên
ngoài nhằm thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động này, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra
nhiều chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu. Trọng tâm của
chiến lược phát triển xuất nhập khẩu giai đoạn 2001-2010 là ưu tiên cho xuất khẩu tạo ra
những khâu đột phá với những bước đi vững chắc trong lĩnh vực này. Cùng với xuất khẩu
thì nhập khẩu cũng được định hướng chặt chẽ với mục tiêu là phục vụ cho xuất khẩu, trong
đó chú trọng đến hoạt động nhập khẩu nguyên vật liệu phụ, đặc biệt là những nguyên liệu
mà hiện nay trong nước vẫn chưa cung cấp được, vì nó giúp bảo vệ nguồn tài nguyên trong
nước, bảo vệ môi trường và phục vụ tốt hơn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Ngành công nghiệp da giầy Việt Nam đã có từ lâu đời, là ngành cung cấp các sản
phẩm tiêu dùng cho xã hội, gắn với nhu cầu thiết yếu của con người. Mặc dù có những lúc
thăng trầm trong quá trình phát triển, nhưng Da giầy là ngành có mức tăng trưởng cao, tỷ
trọng kim ngạch xuất khẩu của ngành chiếm bình quân hơn 10% so với kim ngạch xuất
khẩu của cả nước. Đóng góp một phần vào những thành công của ngành Da giầy Việt Nam
là Công ty Da - giầy Việt Nam. Hoạt động kinh doanh chính của Công ty là nhận gia công
giầy dép quốc tế, khách hàng chính của Công ty là các doanh nghiệp ở EU, Mỹ, Nhật
Bản,… khi hoạt động kinh doanh theo hình thức này Công ty không không phải lo đầu ra
cho sản phẩm, không phải lo phần nguyên vật liệu chính để phục vụ cho sản xuất. Những
hoạt động này do bên đặt gia công chịu trách nhiệm. Thông thường Công ty chỉ lo phần
nguyên vật liệu phụ phục vụ cho hoạt động gia công. Phần nguyên vật liệu phụ này sẽ
được Công ty nghiên cứu, xem xét để lựa chọn nhà cung cấp. Với những nguyên vật liệu
mà trong nước có thể đáp ứng được, Công ty sẽ mua ngay trong nước, phần còn lại sẽ
được nhập khẩu ở nước ngoài.
Qua quá trình học tập tại trường Đại học Thương Mại và thời gian thực tập tại Công
ty Da – Giầy Việt Nam, nhận thức được tầm quan trọng của việc hoàn thiện công nghệ
marketing nhập khẩu nguyên vật liệu phụ sản xuất hàng gia công xuất khẩu, được sự
hướng dẫn tận tình của thầy Lê Hữu Châu cùng toàn thể các cô, các chú cán bộ, nhân viên
tại Công ty Da – Giầy Việt Nam, em đã mạnh dạn chọn đề tài: “Hoàn thiện công nghệ
marketing nhập khẩu nguyên vật liệu phụ sản xuất hàng gia công xuất khẩu của
Công ty Da – Giầy Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp.
- Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích, đánh giá công nghệ marketing nhập
khẩu nguyên vật liệu phụ sản xuất hàng gia công xuất khẩu của Công ty Da – Giầy Việt
Nam, từ đó chỉ ra những ưu, nhược điểm của hoạt động nhập khẩu của Công ty. Trên cơ sở
đó đề ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện công nghệ nhập khẩu của Công ty.
- Phạm vi, nội dung nghiên cứu: đề tài được nghiên cứu dưới góc độ tiếp cận môn
học marketing thương mại và marketing thương mại quốc tế.
- Phương pháp nghiên cứu: trong bài luận văn tốt nghiệp này em sử dụng phương
pháp duy vật biện chứng. Ngoài ra, em còn sử dụng phương pháp quan sát, phân tích,
thống kê, so sánh…
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết cầu của bài luận văn
được chia làm ba phần:
Chương I: cơ sở lý luận về công nghệ marketing nhập khẩu nguyên vật liệu phụ sản
xuất hàng gia công xuất khẩu của công ty kinh doanh trong xu thế hội nhập.
Chương II: phân tích tình hình xác lập, thực hiện công nghệ marketing nhập khẩu
nguyên vật liệu phụ sản xuất tại Công ty Da – Giầy Việt Nam.
Chương III: đề xuất hoàn thiện công nghệ marketing nhập khẩu nguyên vật liệu phụ
sản xuất hàng gia công xuất khẩu của Công ty Da – Giầy Việt Nam.
Chương I
cơ sở lý luận về công nghệ marketing nhập khẩu nguyên vật liệu phụ sản xuất hàng
gia công xuất khẩu của công ty kinh doanh trong xu thế hội nhập.
I. Tiến trình hội nhập và vai trò của công nghệ marketing nhập khẩu nguyên vật
liệu phụ sản xuất hàng gia công xuất khẩu của công ty kinh doanh việt Nam.
1. Tiến trình hội nhập kinh tế thế giới của Việt Nam.
1.1. Chủ trương của Đảng về tiến trình hội nhập.
Chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đặt ra từ Đại hội VI (năm
1986 ) trên cơ sở đường lối đổi mới và “mở cửa” nền kinh tế và trên cơ sở chính sách, quan
hệ đối ngoại của Việt Nam với phương châm đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế.
Hội nghị Ban chấp hành TW 3 (khoá VI) chỉ rõ: Việt Nam sẵn sàng mở rộng quan hệ
hợp tác với tất cả các nước, các công ty nước ngoài trên cơ sở cùng có lợi và không có điều
kiện chính trị ràng buộc, hạn chế đến mức thấp nhất các giá phải trả.
Đại hội VII (năm 1991 ) đã thông qua cương lĩnh của Đảng và chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 10 năm, đồng thời cũng nêu ra tư tưởng hội nhập kinh tế quốc tế là: Việt
Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc
lập và phát triển.
Cụ thể hoá đường lối Đại hội VII, Hội nghị Ban Chấp hành TW 3 (khoá VII) đã ra
chuyên đề Chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá mà Đại hội VII nêu ra, đánh dấu bước
khởi đầu của tiến trình hội nhập của Việt Nam.
Đại hội VIII (năm 1996) đã khẳng định chủ trương hội nhập kinh tế quốc tế, đó là xây
dựng một nền kinh tế mở và đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
Hội nghị Ban chấp hành TW4 (khoá VIII) đã nêu nhiệm vụ cụ thể cho quá trình này
là tích cực chủ động xâm nhập và mở rộng vào thị trường vững chắc, tích cực, khẩn trương
đàm phán với Mỹ, gia nhập diễn đàn hợp tác Châu á- Thái Bình Dương (APEC) và Tổ
chức thương mại thế giới (WTO). Có kế hoạch cụ thể chủ động cam kết gia nhập khu vực
mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Như vậy, Đại hội VIII và các Nghị quyết TW khoá này
đã chỉ đạo tiến trình hội nhập khẩn trương hơn.
Đến đại hội IX (năm 2001), tiếp tục khẳng định chủ trương đại hội VIII nêu ra và đã
đưa ra một khẩu hiệu: Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Đồng thời, Đại hội IX nhấn
mạnh: Việt Nam chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối
đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và định hướng xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc dân tộc và bảo vệ
môi trường.
Như vậy, chủ trương hội nhập kinh tế của Việt Nam từng bước được hình thành cùng
với sự phát triển của đất nước.
1.2. Các bước đi trong quá trình hội nhập
Về các bước đi trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta, chúng ta cần
xem xét đến hai mặt.
Đối với bên ngoài: Chúng ta đã thực hiện lần lượt các bước đi cụ thể. Đó là:
+ Năm 1993 đã khai thông quan hệ với Quĩ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới
(WB), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB).
+ Tháng 1/1995 gửi đơn xin gia nhập WTO. Chúng ta đã tiến hành được 10 phiên
đàm phán đa phương và kết thúc đàm phán với 20 đối tác song phương. Tiến trình đàm
phán gia nhập WTO của Việt Nam đã bước vào giai đoạn cuối cùng. Phiên đàm phán đa
phương thứ 10 về việc Việt Nam gia nhập WTO được tiến hành vào ngày 15/9, là phiên rất
quan trọng và có ý nghĩa quyết định đối với quá trình đàm phán của Việt Nam với các đối
tác đa phương. Việc đạt được thoả thuận sớm với các nước EU, một đối tác thương mại lớn
có 25 nước thành viên, đã tác động tích cực đối với quá trình đàm phán của Việt Nam.
Ngày 7/11/2006 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức Thương
mại thế giới.
+ Ngày 25/7/1995 đã chính thức gia nhập hiệp hội các nước Đông Nam á (ASEAN),
đồng thời tham gia vào AFTA và chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung (CEPT)
+ Tháng 3/1996 tham gia diễn đàn á- âu (ASEM) với tư cách là thành viên sáng lập.
+ Ngày 15/6/1996 gửi đơn xin gia nhập APEC. 11/1998 được công nhận là thành viên
của APEC
+ Năm 2000 ký hiệp định thương mại song phương Việt- Mỹ
Đối với trong nước chúng ta đã làm được 3 việc cơ bản: Quốc hội đã thông qua nhiều
đạo luật, văn bản dưới luật tạo hành lang pháp lý phù hợp cho hội nhập. Thực hiện sự
chuyển đổi thể chế kinh tế, đổi mới chính sách và hệ thống kinh tế vĩ mô và cố gắng cải
cách kinh tế, xây dựng cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với
luật pháp và tập quán quốc tế; Để thống nhất việc chỉ đạo quá trình Việt Nam hội nhập
kinh tế quốc tế, ngày 12/2/1998 Thủ tướng chính phủ ra quyết định 31/1998-TTg thành lập
Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế. Uỷ ban này có nhiệm vụ giúp Thủ Tướng chỉ
đạo điều hành các bộ, ban, nghành trong việc tham gia hội nhập quốc tế.
1.3. Những kết quả đạt được trong tiến trình hội nhập
Nước ta triển khai hội nhập kinh tế chưa lâu, kinh nghiệm còn hạn chế nhưng đã
mang lại kết quả bước đầu khá khả quan. Đó là:
Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá và hội
nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 170 nước và có
quan hệ thương mại với trên 160 nước và vùng lãnh thổ, với hầu hết các tổ chức quốc tế,
khu vực quan trọng. Đẩy lùi được chính sách bao vây, cấm vận của các nước, thế lực thù
địch. Tạo được thế thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc, nâng cao vị thế
của Việt Nam trên chính trường quốc tế và thương trường quốc tế.
Khắc phục được tình trạng khủng hoảng thị trường do hệ thống xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ, khủng hoảng khu vực năm 1996, đồng thời cũng đã
mở rộng thị trường xuất khẩu. Năm 2004, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của cả nước
đạt 26,003 tỷ USD, tăng 28,9 % so với năm 2003 và là mức tăng cao nhất trong bốn năm
trở lại đây. Đây là một trong những thành tựu nổi bật của nền kinh tế nước ta. Tính riêng
trong tháng 8 năm nay, kim ngạch xuất khẩu của cả nước đạt 2,8 tỷ USD, nâng kim ngạch
xuất khẩu trong 8 tháng qua lên hơn 20,3 tỷ USD, tăng gần 19% so với cùng kỳ năm trước,
đã chứng tỏ đường lối đổi mới và hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước đã được
thực tiễn khẳng định.
Thu hút được nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và tranh thủ được nguồn
vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA) ngày càng lớn và giảm đáng kể nợ nước ngoài.
Doanh thu của khu vực đầu tư nứơc ngoài trong năm 2004 đạt khoảng 18 tỷ USD, tăng
20% so với năm 2003. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã tạo thêm việc làm cho
7,4 vạn lao động, đưa tổng số lao động trực tiếp lên khoảng 74 vạn người.
Tiếp thu được nhiều thành tựu mới về khoa học, công nghệ và kỹ năng quản lý. Nhiều
ngành kinh tế mới đã xuất hiện dựa trên cơ sở tăng cao hàm lượng chất xám trong sản
xuất- kinh doanh. Các ngành cơ khí chế tạo, đóng tàu, từng bước được nâng lên tầm cao
mới, sản phẩm ngày càng tạo được uy tín trên thị trường trong và ngoài nước. Cơ cầu kinh
tế chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hoá- hiện đại hoá.
Giữ vững ổn định về kinh tế. Điều này thể hiện ở nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng
liên tục khá cao và tương đối ổn định. Từ năm 1991 đến năm 2000, GDP tăng liên tục qua
các năm với nhịp tăng bình quân hàng năm 7,5 %. So với năm 1990, năm 2000 GDP tăng
gấp 2,07 lần. Tuy xảy ra cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực năm 1997, nhưng từ năm
2001 đến năm 2004, GDP của Việt Nam vẫn có nhịp tăng trưởng bình quân hàng năm
7,25$. Trong năm 2005, tốc độ tăng trưởng GDP quý I đạt 7,23%, 6 tháng đầu năm đạt
7,63%. Đặc biệt, tỷ lệ nghèo đói ở Việt Nam giảm mạnh, từ 58% ( năm 1993) xuống
24,1% (năm 2001) ( theo chuẩn nghèo 1USD/ngày).
Bước đầu chúng ta đã đạt được kết quả đáng khích lệ, nhưng vẫn còn những mặt hạn
chế, yếu kém nhất định. Cụ thể là: nhận thức về hội nhập của cán bộ và nhân dân chưa
được nhất trí cao. Chưa có một kế hoạch tổng thể và dài hạn để hội nhập kinh tế quốc tế;
hệ thống chính sách, luật pháp quản lý kinh tế, thương mại chưa hoàn chỉnh, còn có những
chính sách, luật chưa phù hợp với những thông lệ quốc tế; lực lượng sản xuất có nguy cơ
tụt hậu so với trình độ phát triển chung của thế giới, do đó sức cạnh tranh hàng hoá kém,
hiệu quả đầu tư thấp. Trước xu thế nhập khẩu và sức cạnh tranh chưa đủ mạnh có thể dẫn
đến khả năng mất thị trường trong và ngoài nước. Trong thời gian qua, mục tiêu phát triển
kinh tế của nước ta là hướng về xuất khẩu, nhưng thực tế lại có xu hướng thực hiện theo
mô hình công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu. Nền kinh tế đang ở trình độ phát triển chậm,
còn chênh lệch khá nhiều so với các nước trong khu vực; đội ngũ cán bộ quản lý kinh tế
còn thiếu, yếu, đặc biệt là đội ngũ cán bộ làm trong lĩnh vực kinh tế đối ngoại; bản sắc văn
hoá đang bị đe doạ, đặt biệt là lối sống của lớp trẻ.
Với những thành công bước đầu về hội nhập kinh tế mà Đảng và nhà nước ta đã xác
định trong thời gian qua, chúng ta tin tưởng rằng đến năm 2020, nước ta cơ bản sẽ trở
thành một nước công nghiệp, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
2. Gia công quốc tế và vai trò của nó đối với các công ty kinh doanh Việt Nam.
2.1. Khái niệm gia công quốc tế
Có nhiều khái niệm về hoạt động gia công quốc tế:
- Khái niệm 1: gia công hàng hoá là phương thức sản xuất hàng hoá, trong đó người
đặt gia công sẽ cung cấp toàn bộ tư liệu sản xuất cùng nguyên vật liệu và nhận về sản phẩm
hoàn chỉnh. Người nhận gia công sẽ sản xuất sản phẩm theo mẫu, giao sản phẩm đó cho
người đặt gia công và nhận tiền gia công trên số lượng sản phẩm làm ra.
- Khái niệm 2: gia công hàng hoá là một phương thức sản xuất hàng hoá trong đó
người đặt gia công sẽ cung cấp nguyên phụ liệu, có khi cung cấp luôn cả nguyên phụ liệu
máy móc, bán thành phẩm và nhận lại sản phẩm hoàn chỉnh. Người nhận gia công tự tổ
chức quá trình sản xuất, làm ra sản phẩm theo mẫu của khách, giao toàn bộ cho người đặt
gia công và nhận tiền gia công.
- Khái niệm 3: gia công hàng hoá là một phương thức sản xuất theo đơn đặt hàng và
mẫu của người đặt gia công. Người nhận gia công tổ chức quá trình sản xuất theo mẫu và
bán những sản phẩm làm ra cho người đặt gia công hoặc người nào đó mà bên đặt gia công
chỉ định theo giá cả hai bên thoả thuận.
Tóm lại, có thể hiểu gia công quốc tế là một hình thức chuyên môn hoá sản xuất theo
quá trình phân công lao động quốc tế, thể hiện mối quan hệ giữa hai bên, trong đó: bên đặt
gia công là những đơn vị có đủ những yếu tố vật chất để sản xuất; muốn tìm kiếm thị
trường có lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, nguồn nguyên liệu tự nhiên sẵn có
để sản xuất sản phẩm với mức giá thành sản phẩm thấp nhất. Bên nhận gia công là các
doanh nghiệp không đủ điều kiện về vốn đầu tư cho công nghệ mới, thiếu thị trường tiêu
thụ sản phẩm, hoặc yếu về khả năng thiết kế mẫu mã, trình độ kỹ thuật chưa cao… nên
nhận sản xuất, chế biến hàng hoá cho bên đặt gia công nhằm duy trì sự tồn tại của doanh
nghiệp và từng bước tiếp cận với thị trường nước ngoài, tiếp thu kinh nghiệm quản lý, công
nghệ kỹ thuật mới, tạo tiền đề vươn ra thị trường bên ngoài. Toàn bộ sản phẩm làm ra
người nhận gia công sẽ giao lại cho người đặt gia công để nhận tiền công.
Trong điều kiện kinh tế thế giới hiện nay, gia công hàng xuất khẩu giữ một vai trò
quan trọng cho việc tăng thu nhập cho người lao động cho những nước nghèo. Kinh
nghiệm các nước trong thời kỳ đầu phát triển: đầu tư vào công nghiệp nhẹ, công nghiệp
chế biến để nhận gia công cho nước ngoài cũng là một cách tăng thu ngoại tệ, đồng thời
giải quyết được nạn thất nghiệp trong nước.
ở Việt Nam,việc nhận gia công cho nước ngoài đã có từ lâu với các mặt hàng truyền
thống như may mặc, giầy dép, hàng thủ công mỹ nghệ…với khách hàng chủ yếu là Liên
Xô (cũ) và các nước Đông Âu.
Hiện nay, chính sách mở cửa kinh tế và sự biến động trong nhận thức của người lao
động Việt Nam, đã giúp cho gia công quốc tế ngày càng phát huy tác dụng của nó; trong
đó gia công hàng dệt - da - may mặc góp một phần không nhỏ trong việc thúc đẩy ngoại
thương Việt Nam phát triển, gia tăng nguồn thu ngoại tệ cho đất nước, góp phần cải thiện
cán cân thanh toán. Hơn nữa, những mặt hàng nhận gia công lại cần một số lượng lao động
lớn, góp phần giải quyết nạn thất nghiệp của Việt Nam.
2.2. Các loại gia công quốc tế
* Nếu xét theo nguồn cung cấp các yếu tố vật chất sản xuất: có 4 hình thức:
- Bên nhận gia công có sẵn thiết bị; bên kia cung cấp 100% nguyên phụ liệu:
+ Bên đặt gia công cung cấp toàn bộ số nguyên phụ liệu cần thiết để hoàn thành sản
phẩm cho bên đặt gia công.
+ Bên nhận gia công có trách nhiệm tổ chức quy trình sản xuất theo đúng điều kiện
hợp đồng và tái xuất thành phẩm cho bên đặt gia công.
+ Mỗi lần giao hàng cả hai bên đều phải ký xác nhận trên bảng kê chi tiết số lượng
nguyên phụ liệu đã sử dụng.
- Bên nhận gia công có sẵn thiết bị; bên đặt gia công hoàn toàn không cung cấp
nguyên phụ liệu:
Bên đặt gia công giao phần ngoại tệ tạm tính cho bên nhận gia công để họ tự tìm và
mua nguyên phụ liệu trên thị trường theo giá quy định do hai bên thoả thuận trước.
- Bên đặt gia công cung cấp nguyên phụ liệu chính theo định mức hợp đồng: phần
phụ liệu còn thiếu sẽ do bên nhận gia công tự tìm kiếm trên thị trường để bổ sung. Các chi
tiết bổ sung được kê khai đầy đủ và theo sự đồng ý của hai bên.
- Trường hợp bên nhận gia công không có máy móc thiết bị: bên đặt gia công sẽ cung
cấp máy móc thiết bị và 100% nguyên phụ liệu cần thiết để hoàn thành sản phẩm. ( bên
nhận gia công coi như chỉ làm thuê).
* Theo hình thức thanh toán tiền gia công: có 3 hình thức:
- Hợp đồng khoán: hai bên xác định chi phí, thù lao định mức cho mỗi sản phẩm và
thanh toán theo định mức đó bất kể chi phí thực tế thực hiện hợp đồng là bao nhiêu.
- Hợp đồng thanh toán thực tế: hai bên xác định chi phí thực tế khi thực hiện hợp
đồng và thoả thuận thù lao theo mức giá của thị trường.
- Ngoài hai hình thức trên, hợp đông gia công quốc tế còn có thể xem xét theo tiêu chí
mua đứt, bán đoạn (bên đặt gia công bán nguyên phụ liệu và mua lại thành phẩm).
* Theo đối tượng tham gia hợp đồng: có 2 loại gia công:
- Gia công trực tiếp: bên đặt gia công và bên nhận gia công kí kết hợp đồng gia công
trực tiếp với nhau.
- Gia công chuyển tiếp (còn gọi là xuất khẩu tại chỗ): bên đặt gia công và bên nhận
gia công kí kết hợp đồng gia công trực tiếp với nhau. Sau đó bên nhận gia công kí kết hợp
đồng gia công chuyển tiếp với các cơ sở gia công khác trong nước. Có hai hình thức:
+ Hình thức thư nhất:
Theo điều 17 Nghị định 57/1998/NĐ-CP qui định chi tiết thi hành Luật thương mại về
hoạt động xuất nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài (ban hành
ngày 31/7/1998) thì:
Gia công chuyển tiếp là hình thức gia công mà sản phẩm gia công của hợp đồng này
được sử dụng làm nguyên liệu gia công cho hợp đồng gia công khác. Sản phẩm gia công
của hợp đồng gia công công đoạn trước được giao theo chỉ định của bên đặt gia công cho
hợp đồng gia công công đoạn tiếp theo.
+ Hình thức thứ hai:
Biểu hình 1.1 :
Hình thức gia công chuyển tiếp
Giải thích:
- Bên nước ngoài và bênViệt Nam ký hợp đồng gia công quốc tế.
- Bên Việt Nam nhận trách nhiệm gia công cho nước ngoài, sau đó kí tiếp hợp đồng
trong nước với bên nhận gia công khác.
Trong trường hợp này người nhận gia công quốc tế (người nhận gia công và đặt gia
công chuyển tiếp) là người trung gian ăn hoa hồng gia công.
2.3. Quyền và nghĩa vụ của bên nhận gia công
2.3.1. Quyền của bên nhận gia công
Bên nhận gia công có các quyền sau:
- Yêu cầu bên đặt gia công giao nguyên vật liệu đúng chất lượng, số lượng, thời hạn
và địa điểm đã thoả thuận.
- Từ chối sự chỉ dẫn không hợp lý của bên đặt gia công, nếu thấy chỉ dẫn đó có thể
làm giảm chất lượng sản phẩm, nhưng phải báo ngày cho bên đặt gia công.
- Yêu cầu bên đặt gia công trả đủ tiền công theo đúng thời hạn và phương thức đã
thoả thuận.
2.3.2 Nghĩa vụ của bên nhận gia công
Bên nhận gia công có nghĩa vụ sau:
- Bảo quản nguyên vật liệu do bên đặt gia công cung cấp.
- Báo cho bên đặt gia công biết để đổi nguyên vật liệu khác, nếu nguyên vật liệu
không đảm bảo chất lượng, từ chối thực hiện gia công, nếu việc sử dụng nguyên vật liệu có
Nội địa nước nhận gia công
(Việt Nam)
Người đặt
hàng gia
công (bên
nư
ớc ngoà
i)
Người nhận
GC và đặt
GC chuyển
ti
ếp
Người nhận
gia công
chuyển tiếp
thể tạo ra sản phẩm nguy hại cho xã hội. Nếu không báo hoặc không từ chối thì phải chịu
trách nhiệm về sản phẩm tạo ra.
- Giao sản phẩm cho bên đặt gia công đúng chất lượng, số lượng, phương thức, thời
hạn và địa điểm đã thoả thuận.
- Giữ bí mật các thông tin về quy trình gia công và sản phẩm tạo ra.
- Chịu trách nhiệm về chất lượng sản phẩm nếu thực hiện công việc bằng nguyên vật
liệu của mình.
- Hoàn trả nguyên vật liệu còn lại cho bên đặt gia công sau khi hoàn thành hợp đồng.
2.4. Xác định chi phí gia công:
Thông thường với bất cứ hình thức gia công nào chi phí gia công gồm:
+ Tiền gia công: tiền gia công là tổng số tiền mà bên đặt gia công trả cho bên nhận gia
công căn cứ vào số lượng sản phẩm gia công và chi phí gia công bình quân cho một đơn vị
sản phẩm. Chi phí gia công bình quân cho một đơn vị sản phẩm do hai bên thống nhất trên
cơ sở xem xét đến tiền công lao động, khấu hao, chi phí quản lý, thuế, lợi nhuận của bên
nhận gia công.
+ Giá cả nguyên phụ liệu: nguyên phụ liệu là một phần của các yếu tố đầu vào của
quá trình gia công, nó thuộc sở hữu của bên nhận gia công. Thông thường bên đặt gia công
để bên nhận gia công mua những nguyên vật liệu phụ này. Do vậy, việc xác định giá cả
nguyên vật liệu phụ do hai bên căn cứ vào mức giá nguyên vật liệu phụ đó ở nước của bên
nhận gia công.
+ Chi phí đào tạo: chi phí đào tạo bao gồm các khoản chi phí đào tạo, hướng dẫn công
nhân lao động, cán bộ kỹ thuật của bên nhận gia công.
+ Chi phí gói, giao nhận, vận chuyển: chi phí này bao gồm các khoản cụ thể sau:
Chi phí đóng gói hàng gia công.
Chi phí nhận nguyên vật liệu gia công.
Chi phí vận chuyển, giao hàng gia công.
Chi phí chứng từ giao hàng gia công, làm thủ tục hải quan.
Xác định chi phí gia công hợp lý không những đảm bảo lợi ích kinh tế của các bên
đặt gia công và bên nhận gia công mà còn góp phần tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa
hai bên, cơ sở để xác định giá bán, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường.
Do vậy, các bên cần căn cứ vào khả năng của mình, hình thức gia công, các chi phí vận tải,
giao nhận, mức tiền công lao động, các loại thuế để xác định chi phí gia công thích hợp.
2.5. Vai trò của gia công đối với các công ty kinh doanh Việt Nam
- Hoạt động nhận gia công quốc tế giúp công ty vẫn có thể thu được lợi nhuận mặc dù
có thể công ty gặp những khó khăn về vốn, máy móc, nguyên vật liệu… nhờ sự giúp đỡ và
cung cấp của bên đặt gia công.
- Giúp các công ty kinh doanh Việt Nam từng bước tiếp cận với thị trường nước
ngoài, tạo tiền đề vươn ra thị trường bên ngoài, thâm nhập vào thị trường quốc tế.
- Các công ty có cơ hội nâng cao trình độ kỹ thuật, mở rộng thị trường tiêu thụ sản
phẩm, tiếp thu công nghệ sản xuất mới, tăng khả năng thiết kế mẫu mã,… thông qua hoạt
động nhận gia công quốc tế.
3. Vai trò của hoạt động nhập khẩu nguyên vật liệu phụ sản xuất hàng gia công
xuất khẩu của công ty kinh doanh Việt Nam.
3.1 Đối với doanh nghiệp.
Cùng với xuất khẩu, thì hoạt động nhập khẩu là hình thức hoạt động chủ yếu của kinh
doanh thương mại quốc tế. Mà thương mại quốc tế là một bộ phận của thương mại, cho nên
trước hết nó phải đảm bảo lợi nhuận mục tiêu của doanh nghiệp. Thông qua nó các doanh
nghiệp có thể tăng năng lực sản xuất.
Kinh doanh thương mại quốc tế nói chung và hoạt động nhập khẩu nói riêng góp phần
nâng cao vị thế của doanh nghiệp, tạo thế và lực cho doanh nghiệp, không những ở thị
trường quốc tế mà cả ở thị trường trong nước, thông qua việc mua bán hàng hóa ở thị
trường trong và ngoài nứơc cũng như việc mở rộng quan hệ với bạn hàng.
Việc nhập khẩu nguyên vật liệu đảm bảo cho việc duy trì và phát triển hoạt động sản
xuất và kinh doanh của doanh nghiệp. Với nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng như hiện nay
không phải lúc nào doanh nghiệp cũng có thể tìm được nguồn nguyên vật liệu trong nước
đáp ứng được nhu cầu sản xuất cả về số lượng và chất lượng. Vì vậy doanh nghiệp cần
nhập khẩu để có thể đáp ứng tốt hơn nhu cầu thị trường. Từ đó tăng khả năng cạnh tranh
của doanh nghiệp.
3.2. Đối với nền kinh tế quốc dân.
Nhập khẩu hàng hoá phục vụ đắc lực trong công cuộc đổi mới kinh tế thông qua việc
sử dụng tốt hơn nguồn lao động và tài nguyên của đất nước. Tăng giá trị ngày công lao
động, tăng thu nhập quốc dân và tăng hiệu quả của hoạt động sản xuất.
Bất kỳ một quốc gia nào dù lớn hay nhỏ, dù giàu tài nguyên đến đâu cũng không thể
tự mình cung cấp đủ nguyên vật liệu cho nền sản xuất trong nước nhất là khi nền kinh tế
đang phát triển với tốc độ “chóng mặt” như hiện nay.
Nhập khẩu hàng hoá cũng là một trong những nhân tố góp phần mở rộng các quan hệ
kinh tế đối ngoại, nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.
4. Khái niệm và vai trò của công nghệ marketing nhập khẩu
4.1. Khái niệm marketing nhập khẩu
Marketing nhập khẩu là việc thực hiện các hoạt động kinh doanh của công ty nhằm
định hướng dòng vận động của hàng hoá và dịch vụ từ nguồn cung cấp nước ngoài để thoả
mãn nhu cầu tới người tiêu dùng hoặc người mua trong nước nhằm thu lợi nhuận và đáp
ứng hữu hiệu hơn so với đối thủ cạnh tranh cùng kinh doanh trên thị trường.
4.2. Khái niệm công nghệ marketing nhập khẩu
Trong thời đại cách mạng khoa học và công nghệ hiện nay, bất cứ một sự tăng trưởng
kinh tế nào cũng phải gắn với sự đổi mới, phát triển công nghệ, công nghiệp hoá , hiện đại
hoá. Cốt lõi của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nâng cao trình độ công nghệ của
đất nước. Khoa học và công nghệ quyết định lợi thế cạnh tranh và tốc độ phát triển kinh tế
- xã hội của một quốc gia. Đổi mới và phát triển công nghệ là phương thức nhanh nhất để
đạt được mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội càng cao
thì nhu cầu về khoa học công nghệ càng lớn.
Thuật ngữ công nghệ (Technologie) có nguồn gốc từ tiếng cổ Hi Lạp, được cấu tạo từ
hai phần : “techne” nghĩa là nghệ thuật, sự khéo léo, thủ pháp pha trộn và thực hiện, kỹ
thuật hoạt động hữu hiệu và “logos” có nghĩa là khoa học. Theo nghĩa phổ thông công
nghệ được hiểu là phương pháp thực thi hữu hiệu một quá trình lao động. Trong quá trình
lịch sử công nghiệp hoá sản xuất, thuật ngữ này được sử dụng như là đặc trưng kỹ thuật
của sản xuất công nghiệp và được hiểu nặng về hướng thiết bị, dây chuyền cơ khí hoá.
Cho đến nay tồn tại nhiều quan niệm không đầy đủ về công nghệ như coi công nghệ
là máy móc dùng trong sản xuất, có những định nghĩa coi kiến thức dùng trong sản xuất là
cốt lõi của công nghệ, một số khác coi công nghệ là sự tác động tương hỗ giữa máy móc và
con người.
ở Việt Nam, có quan niệm cho rằng : “ công nghệ là kiến thức, kết quả của khoa học
ứng dụng nhằm biến đổi các nguồn lực thành các mục tiêu sinh lợi”. Cũng cần lưu ý rằng
trong một số trường hợp, một số lĩnh vực người ta vẫn thừa nhận định nghĩa công nghệ cho
một mục đích nào đó. Ví dụ như các nhà quản lý coi : “ công nghệ là khoa học và nghệ thuật
dùng trong sản xuất và phân phối hàng hoá, dịch vụ ”. Trong lĩnh vực chuyển giao công
nghệ, người ta coi : “công nghệ là hệ thống những kiến thức (bao gồm thông tin, bí quyết- có
thể bao gồm cả máy móc thiết bị) được áp dụng để sản xuất một sản phẩm hoặc một dịch
vụ”. Cuối cùng một định nghĩa được coi là khái quát nhất về công nghệ : “công nghệ là tất cả
cái gì dùng để biến đổi đầu vào thành đầu ra”.
Công nghệ trong quá trình sản xuất xuất hiện trong hệ thống máy móc (chuyển lao
động thủ công thành lao động cơ khí). Cùng với sự phát triển của kỹ thuật trong sản xuất,
công nghệ cũng phát triển thành môn công nghệ học và được ứng dụng rộng dãi trong lĩnh
vực sản xuất vật chất và khái niệm công nghệ ngày càng được hoàn thiện cùng với sự phân
công lao động ngày càng cao.
Ngày nay, theo quan niệm hiện đại: “công nghệ là tổng hợp các quá trình chức năng
cơ bản trong một hoạt động cụ thể của con người. Trong quá trình sản xuất vật chất : công
nghệ học bao gồm quá trình sản xuất chủ yếu. Trong quá trình sản xuất vận tải là các quá
trình chuyên chở hàng hoá. Trong kinh doanh thương mại là các quá trình vận động hàng
hoá hay dịch vụ”.
Đồng thời với các khái niệm công nghệ, xuất hiện khái niệm quy trình công nghệ. Nó
chính là hệ thống các thao tác công nghệ và các khâu tác nghiệp có liên quan chặt chẽ với
nhau, trình tự kế tiếp nhau, tác động có mục đích đến đối tượng lao động trong mọi lĩnh
vực lao động cụ thể của con người.
Quy trình công nghệ trong lĩnh vực sản xuất và quy trình công nghệ trong lĩnh vực
thương mại hợp thành quy trình công nghệ Marketing kinh doanh. Do đó chúng có cùng
bản chất và đều là nhằm thoả mãn mục đích tối đa nhu cầu tiêu dùng của mọi thành viên
trong xã hội. Song môĩ quy trình công nghệ có đặc điểm riêng:
- Đối tượng của quy trình công nghệ trong sản xuất: những dạng vật chất chưa đáp
ứng đầy đủ nhu cầu người tiêu dùng.
- Đối tượng của quy trình công nghệ trong thương mại : tổ chức cung ứng sản phẩm
hàng hoá từ lĩnh vực sản xuất đến lĩnh vực tiêu dùng, thực hiện hàng hoá đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng cả về hàng hoá và dịch vụ đảm bảo quan hệ kinh doanh trong hệ thống để tồn tại
và thành công.
Quy trình công nghệ trong lĩnh vực sản xuất là giai đoạn đầu, còn quy trình công
nghệ thương mại là giai đoạn cuối cùng của công nghệ Marketing kinh doanh.
Quy trình công nghệ Marketing là một phác đồ quy định trật tự tiến hành tác nghiệp
để hoàn thành một nội dung của một nghiệp vụ hoặc một quá trình Marketing trong đó xác
định rõ đối tượng, trách vụ, phương tiện, thủ tục, cách thức và quy tắc chuẩn mực đạt tới
từng loại và từng bước công việc.
Khái niệm công nghệ Marketing nhập khẩu : công nghệ marketing nhập khẩu là một
quá trình công nghệ marketing nói chung được vận dụng trong kinh doanh nhập khẩu, đó là
một phác đồ quy định trật tự tiến hành tác nghiệp để hoàn thành một nội dung của nghiệp
vụ nhập khẩu hàng hóa, trong đó xác định đối tượng, trách vụ, thủ tục, cách thức và quy tắc
chuẩn mực trong nhập khẩu hàng hoá.
4.3. Vai trò công nghệ marketing nhập khẩu
Đối với các công ty có hoạt động xuất nhập khẩu thì việc áp dụng marketing vào lĩnh
vực nhập khẩu là một trong những vấn đề được đặt lên hàng đầu. Marketing nhập khẩu có
thể giúp công ty tồn tại lâu dài và vững chắc trên thị trường.
Marketing nhập khẩu giúp doanh nghiệp tìm được nguồn hàng hợp lý nhằm thoả mãn
tốt hơn nhu cầu tiêu dùng trong nước, từ đó tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
Để hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao thì công việc đầu tiên của nhà quản trị
marketing là tiến hành nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu sau đó tiến hành phân tích
lựa chọn nhà cung ứng để đáp ứng tốt nhất nhu cầu khách hàng. ở đa số các quốc gia hiện
nay đặc biệt là những nước đang phát triển như Việt Nam thì sản xuất trong nước chưa thể
đáp ứng được nhu cầu thị trường vì vậy nhập khẩu hàng hoá từ nước ngoài là một trong
những cách mà nhà quản trị sử dụng để thoả mãn tốt hơn nhu cầu khách hàng.
4.4. Bản chất của công nghệ marketing nhập khẩu
Cũng như marketing nội địa, bản chất của marketing nhập khẩu là toàn bộ hoạt động
tìm hiểu nhu cầu, mong muốn của thị trường nội địa từ đó thiết lập các chương trình
marketing, các bộ phận nhân sự nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu thị trường mang lại lợi
nhuận lớn nhất cho công ty.
Trong nền kinh tế hiện đại, vai trò của khách hàng và nhu cầu của họ đóng vai trò
quyết định đối với toàn bộ quá trình sản xuất và kinh doanh của công ty. Theo quan điểm
marketing, chìa khoá để công ty có thể đạt được các mục tiêu của mình là phải xác định
được nhu cầu và mong muốn của thị trường trọng điểm. Riêng đối với hoạt động nhập
khẩu nguyên vật liệu phục vụ sản xuất thì hoạt động marketing nhập khẩu giúp doanh
nghiệp tìm được nguồn hàng hợp lý. Từ đó có thể tạo ra những sản phẩm có sức cạnh tranh
trên thị trường.
Như vậy, bản chất của marketing nhập khẩu là quá trình nghiên cứu, hoạch định,
thực thi, kiểm soát chương trình đã được vạch ra nhằm xác lập, bồi đắp và duy trì các trao
đổi có lợi với khách hàng nhằm đạt được các mục tiêu của công ty.
II. Phân định nội dung cơ bản của công nghệ marketing nhập khẩu nguyên vật
liệu phụ sản xuất hàng gia công xuất khẩu của công ty kinh doanh Việt nam.
1. Nghiên cứu marketing nhập khẩu và phân tích khả năng của công ty kinh
doanh.
1.1. Nghiên cứu marketing nhập khẩu nguyên vật liệu phụ sản xuất hàng gia công
của công ty kinh doanh Việt Nam.
Có nhiều khái niệm khác nhau về nghiên cứu marketing. Theo Phillip Kotler “ nghiên
cứu marketing là việc phác hoạ, thu thập, phân tích một cách có hệ thống và tường trình dữ
kiện cũng như các những điều tìm thấy thích ứng với một tình huống marketing đặc thù
đang đặt ra trước mắt công ty”. Còn theo Mark Speece “ nghiên cứu marketing là một
phương thức có tổ chức, có tính khách quan và rất phổ biến nhằm thu thập các dữ liệu
marketing, những dữ liệu này sau khi lên bảng biểu phân tích, diễn giải và báo cáo có thể
giúp cho giám đốc marketing nắm vững tình huống để ra quyết định, cũng như giảm các
rủi ro trong quá trình ra quyết định ấy”. Nghiên cứu marketing thực chất là quá trình tìm
kiếm, thu thập những thông tin cần thiết phục vụ cho việc ra các quyết định về marketing
của nhà quản trị.
Đánh giá về tác dụng của nghiên cứu marketing, thường có hai trường phái khác
nhau. Trường phái thứ nhất cho rằng nghiên cứu marketing có vai trò hết sức quan trọng.
Nó được coi là chìa khoá của thành công. Bằng chứng là đã có rất nhiều công ty, các hãng
kinh doanh khác nhau trở lên phát đạt và nổi tiếng vì đã rất chú tâm đến hoạt động nghiên
cứu marketing. Trường phái thứ hai tỏ ý nghi ngờ sự nghiên cứu, đặc biệt là nghi ngờ hiệu
quả của hoạt động thử nghiệm thị trường. Họ cho rằng đã có rất nhiều sản phẩm được
nghiên cứu nhưng vẫn bị thất bại trên thị trường. Quan niệm đúng đắn về vai trò của
nghiên cứu marketing là phải nắm giữ hai thái cực nêu trên. Nghiên cứu marketing, nếu
được chỉ đạo và hướng dẫn đúng, có thể giảm bớt sự không chắc chắn bao phủ nhiều quyết
định mà nhà quản trị phải đối mặt. Tuy nhiên, không nên quá đề cao vai trò của nghiên cứu
marketing. Nó không tự giải quyết tất thảy mọi vấn đề và không phải liều thuốc đặc trị cho
các căn bệnh trong kinh doanh. Nếu quá vội vàng áp dụng ngay các kết quả nghiên cứu
marketing mà không có kiểm chứng hoặc thử nghiệm thì kết qủa sẽ ngược với điều mong
muốn.
Nghiên cứu marketing xuất phát từ quan điểm “ khách hàng là thượng đế”. Nó bao
gồm tập hợp các công đoạn, bắt đầu từ khai thác nhu cầu khách hàng, từ đó bằng các giải
pháp marketing hỗn hợp đáp ứng tốt nhất nhu cầu, thuyết phục, lôi kéo, hướng họ về phía
doanh nghiệp. Nghiên cứu marketing còn cho thấy sự thay đổi sở thích của khách hàng để
từ đó nắm bắt một cách nhạy bén thị trường mục tiêu, từng bước phân tích thời cơ, đánh
giá lợi thế bất lợi của đối thủ cạnh tranh, nhìn nhận đánh giá vị thế của công ty trên thị
trường.
Tóm lại, nghiên cứu marketing nhập khẩu nguyên vật liệu phụ sản xuất hàng gia công
xuất khẩu để nhằm tìm được nguồn cung ứng nước ngoài tốt nhất để thoả mãn những nhu
cầu sản xuất của doanh nghiệp.
1.1.1 Nghiên cứu nhu cầu sử dụng nguyên vật liệu phụ sản xuất hàng gia công
xuất khẩu của công ty kinh doanh Việt Nam.
Khi nghiên cứu nhu cầu sử dụng nguyên liệu phụ chú ý đến các vấn đề sau:
+ Chủng loại: tuy mặt hàng nhận gia công mà nguyên liệu phụ có sự khác nhau. ở
nước ta hình thức gia công chủ yếu là dệt may, giầy dép, lắp ráp hàng điện tử. Với ngành
giầy dép nguyên vật liệu phụ có thể là keo, da trang chí, chỉ… với ngành dệt may nguyên
vật liệu phụ có thể là cúc, khuy, chỉ,… hiện nay thị trường trong nước mới đáp ứng được
một phần các nguyên phụ liệu này, phần còn lại các doanh nghiệp phải nhập khẩu từ nước
ngoài.
+ Chất lượng: thông thường khi kí hợp đồng gia công quốc tế, bên đặt gia công quốc
tế sẽ có những quy định cụ thể về chất lượng của phần nguyên vật liệu phụ mà bên nhận
gia công chịu trách nhiệm mua, đôi khi để đảm bảo chất lượng bên đặt gia công sẽ yêu cầu
bên nhận gia công mua ở những nhà cung cấp nhất định.
+ Số lượng: tuỳ thuộc vào hợp đồng gia công là lớn hay nhỏ mà số lượng nguyên phụ
liệu là nhiều hay ít. Nếu bên nhận gia công có kỹ thuật sử dụng tiết kiệm mà vẫn đảm bảo
được chất lượng sản phẩm thì có thể tăng thêm được lợi nhuận của mình.
+ Thời gian: mặt hàng gia công chủ yếu của nước ta là may mặc và giầy dép, đây là
những yếu tố thay đổi the thời gian, tức la tuỳ từng thời điểm mà khách hàng có sự ưa
chuộng khác nhau. Vì vậy, bên nhận gia công cần có sự tính toán để mua nguyên vật liệu
phù hợp.
+ Chi phí: bao gồm
- Giá: giá của nguyên phụ liệu thường thay đổi theo giá thị trường và theo chất lượng
của nguyên phụ liệu tuỳ thuộc vào yêu cầu sản xuất mà Công ty lựa chọn nguyên phụ liệu
có mức gía phù hợp.
- Các chi phí khác: bao gồm các chi phí như: chi phí tìm nguồn hàng, chi phí vận
chuyển, chi phí bốc dỡ, bảo quản trên đường vận chuyển…
1.1.2. Nghiên cứu nguồn cung cấp ở nước ngoài
+ Nghiên cứu nguồn hàng nhập khẩu : công ty phải nắm bắt được nguồn hàng này là
do nhà sản xuất cung ứng hay do các trung gian thương mại ở nước ngoài cùng các đặc
tính của nhà cung ứng. Nhìn chung chúng ta nghiên cứu trên các mặt sau:
- Chất lượng hàng hoá theo các tiêu chuẩn về kích cỡ, chủng loại, thông số kỹ thuật.
- Khả năng cung ứng của nguồn hàng và tính ổn định của nguồn hàng: nguồn hàng có
đáp ứng thường xuyên không? có kịp thời không? có đáp ứng được thị trường khi biến
động không
- Giá cả quốc tế : giá cả quốc tế là giá cả của giao dịch thương mại, thông thường
không kèm theo điều kiện đặc biệt nào. Và thanh toán bằng ngoại tệ được tự do chuyển
đổi. Giá cả quốc tế phụ thuộc vào nhiều yếu tố như : cạnh tranh, lạm phát, độc quyền.
- Các điều kiện thanh toán, thời gian giao hàng, điều kiện và phương thức giao hàng:
các nội dung này phải ghi rõ một cách chính xác cụ thể, dễ hiểu nhất.
- Dịch vụ sau bán như: vận chuyển, tổ chức, sửa chữa, bảo hành sản phẩm.
Tất cả các nội dung trên nó ảnh hưởng đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp. Do
đó, các doanh nghiệp phải đầu tư nghiên cứu và đầu tư đúng mức.
+ Nghiên cứu chính sách thị trường, chính sách mặt hàng, chính sách hỗ trợ của các
quốc gia mà công ty quan hệ, hợp tác, dự báo biến động cung cầu trên thị trường.
1.1.3. Nghiên cứu vận tải và bảo hiểm quốc tế.
+ Nghiên cứu vận tải là việc nghiên cứu các phương tiện vận tải phù hợp với các đặc
điểm của hàng hoá như số lượng, chất lượng, điều kiện bảo quản, tính chất lí, hoá
học,…khi vận chuyển hàng hoá từ nước xuất khẩu sang nước nhập khẩu. Đây là một nhân
tố cũng rất quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến chi phí hay giá cả hàng hoá, niềm tin
của khách hàng với các công ty, khả năng cung ứng kịp thời hay không? Trình độ phục vụ
khách hàng ra sao?
Trên thực tế có rất nhiều phương thức vận tải song phải tuỳ thuộc vào nhiều căn cứ để
lựa chọn như : đặc điểm của hàng hoá, khối lượng hàng hoá, cước phí vận chuyển, mức độ
hao hụt của hàng hoá trong quá trình chuyên trở, thời gian chuyên trở, phí bảo hiểm, trong
thực tế có thể phương thức vận tải này có cước phí thấp nhưng thời gian chuyên chở lại dài
và mức độ rủi ro cao. Trong khi loại hình khác tuy có cước phí cao nhưng thời gian chuyên
chở ngắn. Chính vì vậy mà người ta thường kết hợp một cách hợp lý các phương thức vận
tải trong một hành trình.
Dựa vào những tiêu thức khác nhau, người ta chia ra làm nhiều phương thức vận tải.
Nhưng chủ yếu có các phương thức vận chuyển sau : vận tải đường biển, vận tải đường
hàng không, vận tải đường sắt, vận tải đường bộ, vận tải đặc biệt…
- Vận tải đường biển: vận tải đường biển xuất hiện từ rất sớm và phát triển với tốc độ
nhanh chóng. Hiện nay theo ước tính thì vận tải đường biển chiếm khoảng 95% tổng khối
lượng hàng hoá được chuyên chở trong thương mại quốc tế. Vận tải đường biển phát triển
là do có những đặc điểm sau:
Ưu điểm :
Diện tích mặt biển chiếm đến 2/3 diện tích địa cầu, hơn nữa các tuyến đường biển hầu
hết là tuyến đường giao thông tự nhiên. Vì thế mà chi phí đầu tư cho việc xây dựng, bảo
quản, duy trì các tuyến đường là nhỏ.
Năng lực chuyên chở trên biển là rất lớn. Điều này thể hiện ở chỗ, trên cùng một
tuyến đường biển có thể tổ chức cho nhiều tàu cùng chạy với cả hai chiều. Đầy là một ưu
thế rất quan trọng của vận tải đường biển.
Giá cước chuyên chở rẻ nhất trong các phương thức vận chuyển.
Nhược điểm
Sử dụng phương thức thường gặp rủi ro do bị lệ thuộc vào các điều kiện tự nhiên như
thời tiết, khí hậu, thuỷ văn…
Xác suất gặp rủi ro cao, nếu có rủi ro thì gây ra tổn thất lớn cả về người và hàng hoá.
Tốc độ vận chuyển thấp, tuyến đường vận chuyển thường là dài, do vậy khó thích hợp
với những loại hàng hoá có yêu cầu vận chuyển nhanh hoặc những hàng dễ biến đổi chất
lượng theo thời gian.
- Vận chuyển bằng đường hàng không
Ưu điểm
Tốc độ vận chuyển cao dẫn đến thời gian vận chuyển nhanh. Vì vậy nó thích hợp với
những hàng hoá có khối lượng nhỏ, hàng quý hiếm, hàng mau hỏng…
Độ an toàn cao.
Đáp ứng yêu cầu bảo quản hàng tốt, đặc biệt phù hợp với những mặt hàng đòi hỏi sử
dụng trong thời gian ngắn như hàng đông lạnh.
Nhược điểm
Cước phí vận chuyển cao do vốn đầu tư cơ bản và chi phí duy trì, bảo dưỡng khá lớn.
Còn phụ thuộc vào điều kiện thời tiết mặc dù mức độ phụ thuộc ít hơn so với vận
chuyển bằng đường biển.
Không phù hợp khi chuyên chở nhiều hàng hoá, hàng cồng kềnh, giá trị thấp.
Trong vận chuyển quốc tế thì hai hình thức vận chuyển bằng đường biển và đường
hàng không là chủ yếu. Ngoài ra, còn rất nhiề hình thức vận tải khác như : vận tải đường
bộ, vận tải đường sắt,…trong thực tế nghiệp vụ vận tải quốc tế thường kết hợp nhiều
phương thức vận tải khác nhau tuỳ thuộc vào đặc điểm hàng hoá, điều kiện khách quan như
thời tiết, khí hậu, quốc gia mà hàng hoá đi qua… nhưng việc kết hợp này phải đảm bảo đạt
được hiệu quả cao nhất và phù hợp nhất cả về giá cả, độ an toàn cho hàng hoá…
+ Nghiên cứu bảo hiểm quốc tế
Bảo hiểm là một sự cam kết của người bảo hiểm bồi thường cho người được bảo hiểm
về những thiệt hại, mất mát, hư hỏng của đối tượng bảo hiểm do những rủi ro đã được thoả
thuận gây ra, với điều kiện người được bảo hiểm đã mua bảo hiểm cho đối tượng bảo hiểm
đó và nộp một khoản tiền gọi là phí bảo hiểm.
Trong thực tiễn thương mại quốc tế, hàng hóa chủ yếu là được chuyên chở bằng
đường biển và lĩnh vực hàng hải là lĩnh vực hay nảy sinh nhiều rủi ro tiềm ẩn và bất ngờ
vượt quá khả năng kiểm soát của con người. Để đối phó với những tai hoạ và sự cố bất ngờ
đó, bảo hiểm ra đời và trở thành một nhu cầu cấp thiết trong xã hội nói chung, trong hoạt
động kinh tế nói riêng, là điều dường như không thể thiếu cho bất kỳ một hợp đồng ngoại
thương nào. Bởi vì:
- Hàng hoá xuất nhập khẩu được bảo hiểm thì sẽ giảm được rủi ro, hạn chế tổn thất
nhờ tăng cường công tác bảo quản, kiểm tra, đồng thời kết hợp các biện pháp hạn chế tổn
thất.
- Khi hàng hoá nhập khẩu bị rủi ro, tổn thất thì phía bảo hiểm sẽ giúp công ty về mặt
pháp lý và giải quyết các tranh chấp. Hơn nữa, khi tham gia bảo hiểm các doanh nghiệp, tổ
chức kinh doanh sẽ nhanh chóng khắc phục được hậu quả rủi ro nhờ vào số tiền bồi thường
mà công ty bảo hiểm chi trả cho người đựơc bảo hiểm.
- Mua bảo hiểm tạo ra nguồn vốn lớn cho xã hội thông qua việc tập trung phí bảo
hiểm vào một đầu mối để sử dụng có hiệu quả.
Trong vận tải đường biển có hai loại hợp đồng bảo hiểm chủ yếu là hợp đồng bảo
hiểm chuyến và hợp đồng bảo hiểm bao
- Hợp đồng bảo hiểm chuyến: là hợp đồng bảo hiểm cho một chuyến hàng từ một địa
điểm này đến một địa điểm khác ghi trên hợp đồng.
- Hợp đồng bảo hiểm bao : là hợp đồng bảo hiểm cho một chuyến hàng trong một
thời gian nhất định .
+ Các phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp nghiên cứu tại bàn: về cơ bản đó là phương pháp thu thập thông tin từ
các nguồn tư liệu xuất bản hay không xuất bản, là phương pháp phổ thông nhất về nghiên
cứu thị trường, vì nó tốn ít chi phí và phù hợp với khả năng của doanh nghiệp xuất nhập
khẩu mới tham gia vào thị trường thế giới. Tuy nhiên những thông tin thu thập được
thường có tính chính xác không cao và không được cập nhật thường xuyên.
- Phương pháp nghiên cứu tại hiện trường : phương pháp này chủ yếu thu thập thông
tin bằng trực quan thông qua các quan hệ giao tiếp với người tiêu dùng, với các thương
nhân trên thị trường. Phương pháp này khá tốn kém và mất thời gian. Một số phương pháp
nghiên cứu tại hiện trường như:
Phương pháp thăm dò bằng phiếu kiểm tra.
Phương pháp phỏng vấn.
Phương pháp quan sát.
Phương pháp thăm dò mẫu.
1.2. Phân tích khả năng nhập khẩu của công ty kinh doanh
Bất kỳ một công ty nào khi tham gia vào thị trường quốc tế đều cần có những năng
lực nhất định, đặc biệt là với một quốc gia nhỏ và đang phát triển như Việt Nam. Thị
trường thế giới có nhiều biến động và khác biệt rất nhiều so với thị trường trong nước, do
đó công ty cần có một số điều kiện để có thể thành công trên thị trường quốc tế:
- Khả năng về vốn: bất kỳ công ty nào khi tham gia vào thi trường đều phải có một
khoản vốn nhất định để đảm bảo duy trì được hoạt động kinh doanh của mình. Nguồn vốn
còn thể hiện sức mạnh của doanh nghiệp, nó thể hiện khả năng kinh doanh, khả năng thực
hiện hợp đồng. Đây là điều rất quan trọng trong kinh doanh, các đối tác của doanh nghiệp
thường dựa vào khả năng này để quyết định có ký hợp đồng với doanh nghiệp hay không.
- Khả năng về nhân lực: nguồn nhân lực luôn là điều tối quan trọng đối với bất kỳ một
công ty nào. Nó đảm bảo đem lại thành công cho doanh nghiệp. Ngoài những khả năng
như: trình độ chuyên môn, hăng say công việc, năng động… thì khi tham gia thị trường thế
giới, đội ngũ nhân viên của công ty còn cần một số phẩm chất khác như: thông thạo ngoại
ngữ, khả năng nghiên cứu thị trường nước ngoài, giữ vững truyền thống dân tộc…
- Khả năng đàm phán, ký kết hợp đồng: đây là điều mà hầu hết các doanh nghiệp Việt
Nam còn rất yếu, kém. Khi tham gia kinh doanh với các doanh nghiệp nước ngoài, nếu
chúng ta biết cách đàm phán trong việc ký kết hợp đồng sẽ đem lại nhiều lợi nhuận cho
công ty.
- Thông thạo luật pháp quốc tế và luật pháp nước chủ nhà: điều này để tránh cho
doanh nghiệp khỏi những vướng mắc và những thiệt thòi không cần thiết, cũng như giúp
công ty thoát khỏi những tranh chấp, khiếu lại hay những vụ kiện tụng, lừa đảo.
2. Lựa chọn nguồn nhập khẩu nguyên vật liệu phụ của công ty kinh doanh.
Khi lựa chọn nguồn nhập khẩu (lựa chọn nước để nhập khẩu) công ty kinh doanh cần
dựa vào các tính chất sau:
+ Lĩnh vực sản xuất kinh doanh: với những mặt hàng sản xuất gia công của nước ta là
may mặc và giầy dép, thì các nguyên phụ liệu đa số được nhập từ Trung Quốc, số còn lại
được nhập từ các nước: Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan…
+ Khoảng cách địa lý: trong kinh doanh quốc tế, chi phí vận chuyển là rất lớn, đôi khi
nó còn lớn hơn chi phí của hàng hoá vận chuyển, do đó cần chú ý đến khoảng cách để giảm
chi phí mua hàng cho doanh nghiệp.
+ Mối quan hệ thương mại giữa hai nước: đó có thể là các hiệp định song phương, đa
phương mà hai nước đã kí kết để thúc đẩy hoạt động thương mại giữa hai nước. Là những
chính sách, những ưu đãi mà hai nước đã giành cho nhau.
+ Một số yếu tố khác như: sự phát triển kinh tế, sự ổn định về chính trị, nền văn
hoá…
Khi lựa chọn đơn vị xuất khẩu cụ thể công ty dựa trên một số yếu tố như:
+ Loại sản phẩm: tuỳ vào chủng loại nguyên vật liệu mà công ty cần để lựa chọn
những nhà cung cấp nhất định.
+ Các yếu tố liên quan đến nguyên vật liệu: bao gồm các yếu tố như: giá, chất lượng,
mẫu mã…mà công ty có sự lựa chọn bạn hàng sao cho đáp ứng được nhu cầu sản xuất và
đem lại nhiều lợi ích nhất cho công ty.
+ Truyền thống: dựa trên những mối quan hệ truyền thống, làm ăn từ lâu của công ty
để lựa chọn bạn hàng phù hợp nhất.
Trong hoạt động nhập khẩu nguyên vật liệu phục vụ sản xuất thì việc lựa chọn nguồn
hàng nhập khẩu là khâu rất quan trọng vì nó quyết định đến chất lượng hàng hoá mà công
ty sẽ sản xuất ra, nó cũng ảnh hưởng rất lớn đến chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. Do
đó, muốn sản phẩm của công ty có sức cạnh tranh trên thị trường thì khâu lựa chọn bạn
hàng phải được doanh nghiệp thực sự chú trọng và có sự đầu tư đúng mức.
3. Lựa chọn hình thức nhập khẩu phù hợp của công ty kinh doanh.
Trước đây các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu chỉ được tiến hành ở các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp. Ngày nay, do tác động của điều kiện khách quan, nhà
nước đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc xuất nhập khẩu. Cụ thể là nghị định 57/CP ra
đời cho phép tất cả các doanh nghiệp đều được quyền xuất nhập khẩu những mặt hàng có
trong đăng ký kinh doanh của mình (trừ những mặt hàng cấm và các mặt hàng bị quản lý
bởi giấp phép, hạn ngạch) với một điều kiện duy nhất là doanh nghiệp phải đăng ký mã số
hải quan. Sau đây là một số hình thức nhập khẩu đang được áp dụng trên thực tế.
3.1. Nhập khẩu uỷ thác (gián tiếp)
Nhập khẩu uỷ thác là hoạt động được hình thành khi các đơn vị kinh doanh có nhu
cầu nhập khẩu hàng hoá nhưng không có quyền nhập khẩu trực tiếp hoặc không có kinh
nghiệm nhập khẩu trực tiếp nên công ty đã uỷ thác cho một công ty khác có chức năng
giao dịch ngoại thương tiến hành nhập khẩu theo yêu cầu của đơn vị. Bên nhận uỷ thác tiến
hành đàm phán với nước ngoài để làm thủ tục, ký kết hợp đồng nhập khẩu và được một
khoản thù lao gọi là phí uỷ thác
Ưu điểm :
- Doanh nghiệp trực tiếp nhập khẩu (bên nhận uỷ thác) không phải bỏ vốn, không
phải xin hạn ngạch (nếu cần), không phải nghiên cứu thị trường tiêu thụ, mà chỉ đứng ra
đại diện cho bên uỷ thác để tìm và giao dịch với bạn hàng nước ngoài, ký kết hợp đồng
cũng như thay mặt bên uỷ thác khiếu nại, đòi bồi thường với bên nước ngoài khi có tổn
thất.
- Mức độ rủi ro của đơn vị uỷ thác là thấp.
Nhược điểm :
- Bên nhận uỷ thác phải lập hai hợp đồng : một hợp đồng mua bán hàng hóa với nước
ngoài (giữa bên nhận uỷ thác với bên xuất khẩu) và một hợp đồng giữa bên nhận uỷ thác
với bên uỷ thác.
- Không kiểm soát được nguồn hàng, mất sự liên hệ trực tiếp với nguồn hàng.
3.2. Nhập khẩu trực tiếp
Nhập khẩu trực tiếp là hoạt động nhập khẩu độc lập của một đơn vị kinh doanh có khả
năng thực hiện trực tiếp hoạt động nhập khẩu.
Các công ty nhập khẩu theo phương thức này cần tiến hành nghiên cứu thị trường cả
trong nước và ngoài nước một cách kỹ lưỡng. Tính toán đầy đủ các chi phí, các rủi ro biến
động của thị trường. Đảm bảo việc nhập khẩu sẽ đem lại lợi nhuận, đúng phương hướng
chính sách, luật pháp nước nhà, luật pháp nước chủ nhà và luật pháp quốc tế.
Đặc điểm: