Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

LUẬN VĂN: Xây dựng kế hoạch kinh doanh năm 2004 của công ty Dịch Vụ Kỹ Thuật Dầu Khí ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (692.24 KB, 70 trang )













LUẬN VĂN:

Xây dựng kế hoạch kinh doanh năm 2004
của công ty Dịch Vụ Kỹ Thuật Dầu Khí










Lời mở đầu
Nền kinh tế nước ta đã trải qua thời kỳ dài trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao
cấp, mặc dù đây là một cơ chế đã phát huy hiệu quả rất cao khi đất nước có chiến tranh
nhưng trong hoà bình thì cơ chế này trở nên lạc hậu kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế
quốc dân. Nhận thức rõ điều này tại đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI – 1986, Đảng và


nhà nước ta chủ trương đổi mới và xác định đặc điểm của nền kinh tế nước ta:” Nền kinh
tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa”. Với sự chuyển biến mạnh mẽ của cơ chế quản lý nhà
nước, lúc này có thể nói công tác kế hoạch trở thành một công cụ quản lý đắc lực của các
doanh nghiệp và các tổ chức khác đem lại hiệu quả cao trong quản lý. Là nhân tố quan
trọng góp phần vào thành công của công cuộc đổi mới trên đất nước ta hơn 10 năm qua.
Mặc dù trong những năm gần đây công tác lập kế hoạch đã có sự đổi mới tuy nhiên sự
đổi mới đó vẫn còn nhiều bất cập, cần được tiếp tục hoàn thiện từ nhận thức của người
làm kế hoạch đến nội dung và phương pháp xây dựng kế hoạch, để công tác kế hoạch thực
sự trở thành một công cụ đắc lực, có hiệu quả trong công tác quản lý của doanh nghiệp.
Qua quá trình tìm hiều về mặt lý luận và thực tiễn tại công ty dịch vụ kĩ thuật dầu khí
(PTSC), nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề trên tôi đã chọn đề tài: Xây dựng kế hoạch
kinh doanh năm 2004 của công ty Dịch Vụ Kỹ Thuật Dầu Khí
Nội dung đề tài gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lý luận về công tác xây dựng kế hoạch kinh doanh trong doanh nghiệp.
ChươngII: Phân tích thực trạng xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh ở công ty
Dịch Vụ Kỹ Thuật Dầu Khí 2000-2003
ChươngIII: Xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh của công ty cho năm 2004 và các giải
pháp thực hiện kế hoạch trong ba quý còn lại của năm 2004 .

chương 1
Cơ sở lý luận về công tác xây dựng kế hoạch
trong doanh nghiệp
i. khái niệm & vai trò của kế hoạch kinh doanh trong doanh nghiệp.
1. Kế hoạch và vai trò của kế hoạch với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp
1.1 Định nghĩa:
Kế hoạch sản xuất kinh doanh là một công cụ quản lý quan trọng, không thể thiếu
được với bất kì doanh nghiệp nào dù là lớn hay nhỏ, dù là doanh nghiệp quốc doanh hay
ngoài quốc doanh.Với chức năng tạo sự chủ động trong công việc huy động và sử dụng

mọi nguồn lực của doanh nghiệp nhằm làm tăng hiệu quả cho doanh nghiệp.
Kế hoạch sản xuất kinh doanh cũng là một phạm trù kinh tế và như mọi phạm trù khác
nó có nhiều cách tiếp cận theo nhiều khía cạnh để có thể hiểu hết ý nghĩa và bản chất của
nó.
Với cách tiếp cận theo quá trình thì cho rằng : Kế hoạch kinh doanh là một quá trình
liên tục xoáy trôn ốc với chất lượng ngay càng tăng, kể từ khi chuẩn bị xây dựng cho tới
lúc chuẩn bị tổ chức thực hiện kế hoạch nhằm đưa hoạt động của doanh nghiệp theo các
mục tiêu đã định.
Theo quan niệm cua Steiner thì: Kế hoạch sản xuất kinh doanh là một quá trình bắt
đầu bởi việc thiết lập các mục tiêu và quyết định chiến lược được thực hiện nhằm hoàn
thiện hơn bản kế hoạch. Như vậy, theo cách tiếp cận của Steiner thì các khái niệm về hiện
tượng tương lai, tính liên tục của quá trình, sự gắn bó của hàng loạt hành động và quyết
định để đạt được kết quả mong muốn đều đã được thể hiện trong bản kế hoạch.
Kế hoạch hoá chiến lược là một trạng thái ý tưởng, đó là sự suy nghĩ về qúa trình tiến
triển, về sự phát triển của doanh nghiệp trong thời gian tới. Ngày nay, kế hoạch hoá doanh
nghiệp được xem như là một quá trình xác định các mục tiêu các phương án huy động
nguồn lực (bên trong và bên ngoài) nhằm thực hiện có hiệu quả các mục tiêu đã xác định.
Kế hoạch hoá quan tâm đến sự biến động môi trường trong và ngoài doanh nghiệp hay là

đến tính phức tạp của các vấn đề. Đồng thời số lượng các bộ phận kế hoạch, tính chất, đặc
điểm, chức năng, thời hạn, đối tượng khác nhau cũng được cân nhắc kỹ. Từ đó mới thấy
được tính phức tạp của hoạt động kế hoạch hoá.
Theo cách tiếp cận hiện nay được nhiều người sử dụng ở Việt Nam thì kế hoạch là
những chỉ tiêu những con số được dự kiến, ước tính trước trong việc thực hiện một nhiệm
vụ cụ thể nào đó để đạt được hiệu quả cao nhất (tức là phù hợp với yêu cầu về thị trường,
phù hợp với pháp luật và khả năng thực tế của doanh nghiệp).
Theo quan niệm này thì những chỉ tiêu những con số phải có cơ sở khoa học, cơ sở
thực tế và nó phải được thể hiện ở bảng biểu kế hoạch. Những con số chỉ tiêu này mang
tính khả năng và muốn biến chúng thành hiện thực thì phải áp dụng hệ thống các biện
pháp.

Nói tóm lại, kế hoạch thực chất là xác định mục tiêu phấn đấu và dự kiến sử dụng một
cách hợp lý, tiết kiệm các nguồn lực để đạt mục tiêu với hiệu quả kinh tế cao. Nếu có một
kế hoạch tốt, có chất lượng thì đã đạt được 50% mục tiêu đặt ra.
1.2 Vai trò của xây dựng kế hoạch.
1.2.1 Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung.
Kế hoạch sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp chính là các chỉ tiêu pháp lệnh mà
nhà nước giao cho, cùng với các chỉ tiêu đó nhà nước căn cứ cung cấp nguyên nhiên liệu
đầu vào và bao tiêu đầu ra cho doanh nghiệp. Hay nói cách khác doanh nghiệp tham gia
vào quá trình xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh cho chính mình, nhưng không có
quyền tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, hoàn toàn thụ động trước thị trường
không kích thích, sáng tạo, kìm hãm sản xuất.
1.2.2Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
a.Từ những đặc trưng của nền kinh tế thị trường
Nền kinh tế thị trường hoạt động dựa trên các quy luật:
-Quy luật giá trị: Tức là trao đổi hàng hoá được tiến hành phù hợp với chi phí lao động xã
hội cần thiết để tạo ra nó, thể hiện qua quy luật giá cả biến đổi xoay quanh giá trị.

-Quy luật cung cầu: Sự thay đổi thường xuyên giữa nhu cầu về hàng hoá được cung cấp
tạo ra một điểm cân bằng mới . Tại đó cung cầu và giá cả của một loại hàng hoá được xác
định đối với một hàng hoá nào đó thì khi cung lớn hơn cầu thì giá cả giảm và ngược lại.
-Quy luật cạnh tranh: Tức là mỗi chủ thể khi tham gia vào thị trường phải chấp nhận sự
tham gia và cạnh tranh của các đối thủ khác nhằm giành giật thị trường và doanh thu.
Như vậy với 3 quy luật này thì nền kinh tế thị trường có những ưu và nhược điểm:
b.Ưu điểm.
Nền kinh tế thị trường có tính năng động và tính thích nghi cao với sự thay đổi của
môi trường kinh doanh, ở đó tính cạnh tranh cao đòi hỏi các chủ thể cũng phải thay đổi (về
đầu tư đổi mới thiết bị, về mặt hàng, về mẫu mã, và về cung cách quản lý) do đó sản xuất
phát triển. Hơn nữa, nó còn tạo điều kiện cho người lao động, đơn vị kinh tế nâng cao tính
tự chủ, tự lực và sáng tạo khi tham gia vào thị trường. Các quan hệ kinh tế mở rộng ra thị
trường thế giới tạo điều kiện học hỏi, du nhập các nguồn lực với chất lượng cao hơn. Kinh

tế thị trường vừa là động lực vừa là phương tiện của sự phát triển.
c.Nhược điểm.
Đó là sự tự phát trong các hoạt động kinh tế, khủng hoảng, lạm phát, mất cân đối kinh
tế ngành cùng khu vực, phân hoá giầu nghèo Không những thế nó còn gây hậu quả về
mặt xã hội như phong tục tập quán truyền thống bởi tính thực dụng và quá thiên về mục
tiêu lợi nhuận. Cũng do những đặc điểm này mà không thể để nền kinh tế theo hướng thị
trường quy định hoàn toàn mà phải có kế hoạch để khắc phục nhược điểm và phát huy
những ưu điểm của nó.
Kế hoạch là hoạt động chủ quan, có ý thức của con người nhằm xác định mục tiêu,
phương án bước đi trình tự và cách thực hiện mục tiêu. Kế hoạch hoá là yêu cầu của bản
thân quá trình lao động của con nguời và gắn liền với quá trình đó. Nghị quyết đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ 7&8 của Đảng đều khẳng định “mô hình kinh tế mà chúng ta đang
hướng tới xây dựng không thể thiếu được công tác kế hoạch”.

Trong cơ chế này thì vai trò của kế hoạch hoá mới thực sự bộc lộ rõ nét. Những kết
quả đạt được sau 10 năm đổi mới càng khẳng định vai trò to lớn của công tác kế hoạch
trong doanh nghiệp.
Với cơ chế thị trường, thì thị trường với các nguyên tắc của nó sẽ trực tiếp điều tiết
mọi hoạt động của doanh nghiệp hướng dẫn doanh nghiệp trong định hướng và thực hiện
các phương án sản xuất kinh doanh tối ưu để tìm giải pháp cho các vấn đề kinh tế cơ bản
của doanh nghiệp, thị trường sẽ là cơ sở để doanh nghiệp trả lời các câu hỏi sản xuất cho
ai? Sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? Nhà nước chỉ có vai trò điều tiết. Nhu vậy thì kế
hoạch không chỉ có vai trò đối với doanh nghiệp mà còn trong phạm vi nền kinh tế.
-Trong phạm vi nền kinh tế: Kế hoạch hoá là một trong những công cụ điều tiết chủ
yếu của Nhà nước, giúp nhà nước xác định chiến lược,định hướng phát triển chung làm
cơ sở hoạch định các chính sách và giải pháp.
-Trong phạm vi doanh nghiệp, kế hoạch hoá là khâu đầu tiên, bộ phận không thể thiếu
trong công tác quản lý. Nếu không có kế hoạch thì không chỉ doanh nghiệp mà bất kỳ một
tổ chức hay cá nhân nào cũng đều bị mất phương hướng, như đi trong rừng mà không có la
bàn, không biết đi đâu và đích là đâu. Hoạt động kế hoạch giúp doanh nghiệp chủ động

trong việc huy động, khai thác, nguồn lực một cách có hiệu quả để hoạch định và thực hiện
các mục tiêu hoạt động,dự báo các khả năng và nguồn lực, thẩm định và lựa chọn các
phương án phù hợp.
Mặt khác, kế hoạch hoá giúp doanh nghiệp chiến thắng trong cạnh tranh bằng các kế
hoạch nhằm khai thác triệt để các lợi thế so sánh, tận dụng các lợi thế của doanh nghiệp.
Xây dựng kế hoạch cũng là cách mà các doanh nghiệp sử dụng để hạn chế rủi ro trong
kinh doanh thông qua việc xác định những vùng tương đối an toàn mà ở đó xác suất rủi ro
thấp nhất. Các kế hoạch dự phòng cho phép doanh nghiệp ứng phó một cách nhanh nhạy
với những thay đổi của thị trường.
Ngoài ra, kế hoạch còn thể hiện được tham vọng của doanh nghiệp trong tương lai
nhằm đạt mục tiêu không chỉ tồn tại mà còn phát triển với tốc độ ngày càng cao và ổn
định.
1.2.3.Tầm quan trọng của việc xây dựng kế hoạch .

Trong thời gian trước đây, nước ta thực hiện xây dựng chủ nghĩa xã hội theo cơ chế kế
hoạch hoá tập trung mà cơ chế này chỉ phù hợp khi đất nước có chiến tranh,khi hết chiến
tranh phải thay đổi nhưng chúng ta vẫn giữ nguyên dẫn đến nền kinh tế bị suy sụp nghiêm
trọng tiêu cực xã hội xẩy ra. Nguyên nhân là do kế hoạch tập trung cao độ từ một trung
tâm là nhà nước, doanh nghiệp thực hiện chỉ tiêu pháp lệnh do nhà nước giao một cách
chặt chẽ, cứng nhắc và không chú ý đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, tính thiếu sáng tạo
trong sản xuất kinh doanh dẫn đến nền kinh tế bị trì trệ kéo dài. Nhận thức được điều này
Đại hội VI của đảng đã đề ra đường lối đổi mới quản lý kinh tế theo hướng: "Kiên quyết
xoá bỏ tập trung quan liêu bao cấp thiết lập và hình thành đồng bộ cơ chế kế hoạch hoá
theo hướng hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, theo đúng nguyên tắc tập trung dân
chủ”.
Trong giai đoạn đầu thực hiện cơ chế mới người ta tưởng rằng lúc này hoàn toàn
không cần kế hoạch mà do thị trường điều tiết hoàn toàn, cơ chế mới không có chỗ đứng
cho kế hoạch, thực tế, công tác kế hoạch ở nước ta trong những năm trước đây bị coi nhẹ,
doanh nghiệp bị cuốn hút và trôi nổi theo thị trường, kế hoạch không những không phát
huy được tác dụng là điều tiết thị trường mà còn gây ra sự gò bó, cứng nhắc, thiếu linh

hoạt trong quản lý. Biểu hiện cụ thể là những cơn sốt về xi măng, sắt thép,nhà sự phát
triển mất cân đối giữa các ngành công-nông-dịch vụ,giữa các vùng nông thôn-thành thị
làm cho lượng lao động di chuyển về thành phố lớn làm ăn một cách ồ ạt sinh nhiều tệ nạn
xã hội. Nền kinh tế Việt Nam thực sự bị chao đảo trước “cơn lốc thị trường”.
Mặt khác, kinh nghiệm ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển cho thấy họ
luôn quan tâm đến công tác kế hoạch hoá cấp công ty. Họ đánh giá đúng vai trò, vị trí,
chức năng,tổ chức nghiên cứu thực thi nhiều giải pháp nhằm hoàn thiện công tác này. Nhà
kinh tế học người Anh Roney cho rằng hoạt động kế hoạch hoá công ty là thực sự cần thiết
nhằm hai mục đích: tấn công(tận dụng các cơ hội để tăng khả năng thành công của doanh
nghiệp) và dự phòng(tránh rủi ro cạm bẫy của thị trường). Các nhà kinh tế và các chuyên
gia khác cũng khẳng định chức năng kế hoạch là chức năng đầu tiên trong chu trình quản
lý cấp công ty. Thực tế đã cho thấy sự thành công ở các nước như Nhật, Đức phải kể
đến sự đóng góp của công tác kế hoạch từ trung ương đến địa phương, từ bộ ngành tới các

doanh nghiệp kế hoạch chiến lược,kế hoạch tác nghiệp luôn được tiến hành và hoàn thiện
hơn.
Như vậy, trong điều kiện Việt Nam công tác kế hoạch sẽ luôn tồn tại và được cải tiến
cho phù hợp với từng giai đoạn, từng điều kiện hoàn cảnh, với từng cấp để phát triển kinh
tế.
Nước ta trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội theo cơ chế thị trường có sự quản
lý của nhà nước, công tác kế hoạch đã và đang đặt ra rất nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu
cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn nhằm khắc phục những tồn tại trong thời gian qua.
Trong lĩnh vực này đã tồn tại những ý kiến trái ngược nhau về vai trò và sự tồn tại khách
quan của nó. Nhưng từ lý luận và thực tiễn đều chứng minh rằng : công tác kế hoạch là
công tác không thể thiếu được trong bất cứ hoạt động nào, sự tồn tại của nó là tất yếu
khách quan.
+ứng phó với sự bất định và sự thay đổi của cơ chế thị trường.
Sự bất định và thay đổi làm cho việc lập kế hoạch trở thành tất yếu để ứng phó với sự
thay đổi của cơ chế thị trường. Giống như nhà hàng hải không thể chỉ lập trình một lần rồi
quên nó, một người quản lý kinh doanh không thể lập một kế hoạch và dừng lại ở đó.

Tương lai rất ít khi chắc chắn, và tương lai càng dài thì các kết quả của quyết định mà ta
cần phải xem xét, sẽ càng kém chắc chắn .Thậm chí khi tương lai có độ chắc chắn cao thì
một số kế hoạch vẫn cần thiết. Thứ nhất là, các nhà quản lý vẫn tìm cách tốt nhất để đạt
được mục tiêu. Thứ hai là sau khi tiến trình được xác định cấn phải đưa ra các kế hoạch để
sao cho mỗi bộ phận của tổ chức cần phải đóng góp như thế nào vào công việc phải làm.
+Tập trung sự chú ý của tổ chức vào các mục tiêu.
Do toàn bộ công việc lập kế hoạch là nhằm đạt được các mục tiêu của cơ sở cho nên
chính hoạt động lập kế hoạch tập trung sự chú ý vào các mục tiêu này. Những kế hoạch
được xem xét là đủ toàn diện sẽ thống nhất được những hoạt động tương tác giữa các bộ
phận nhằm thực hiện những mục tiêu của tổ chức.
+Tạo khả năng tác nghiệp kinh tế.

Việc lập kế hoạch sẽ cực tiểu hoá chi phí vì nó chú trọng vào các hoạt động hiệu quả
và sự phù hợp. Kế hoạch thay thế những hoạt động manh mún, không có định hướng
chung, thay thế luồng hoạt động thất thường bởi một luồng đều đặn, và thay thế những
phán xét vội vàng bằng những quyết định có tính cân nhắc kĩ lưỡng, giúp cho tổ chức chủ
động trong việc khai thác có hiệu quả các nguồn lực sản xuất.
+Làm đơn giản hoá việc kiểm tra.
Người quản lý không thể kiểm tra công việc của các cấp dưới nếu không có được mục
tiêu đã định để đo lường. Như một người lãnh đạo cấp cao đã từng nói. "Khi tôi rời khỏi
văn phòng lúc năm giờ chiều, tôi không còn quan tâm tới những việc xẩy ra trong ngày
hôm đó,tôi chẳng thể làm gì được nữa, tôi sẽ chỉ xem xét những việc có thể xẩy ra vào
ngày mai hoặc ngày kia hoặc vào năm tới, bởi vì tôi còn có thể làm được một điều gì đó về
những vấn đề này". Ta có thể thấy điều quan trọng trong kiểm tra có hiệu quả là sự kiểm
tra hướng tới tương lai.
1.2.4.Những sai lầm có thể gặp phải trong công tác xây dựng kế hoạch
-Các phương án và quyết định kế hoạch thường dựa trên cơ sở kết quả dự báo, dự đoán,
do đó kế hoạch hoá có thể gặp sai lầm do các hiện tượng, quá trình dự tính có thể thay đổi
trước biến động của môi trường (suy thoái kinh tế, công nghệ mới ) do đó làm sai kế
hoạch ban đầu.

Một nhà kinh tế học người Đức đã nói: "Một kế hoạch tốt nhất là không có kế hoạch”.
ý muốn nói không có một kế hoạch cứng nhắc nào cả mà nó phải luôn luôn được điều
chỉnh thay đổi phù hợp với sự thay đổi của môi trường kinh doanh. Chính vì vậy, ngay cả
khi kế hoạch đã được xây dựng xong thì công tác kế hoạch hoá vẫn chưa được chấm dứt.
Tóm lại, người lập kế hoạch phải thường xuyên theo dõi và điều chỉnh cho phù hợp với
thực tế khách quan.
-Kế hoạch hoá là một quá trình dài và những khoản chi phí lớn.Nó đòi hỏi sự nỗ lực
và phối hợp của nhiều nguời và những khoản chi phí lớn. Mọi sự điều chỉnh kế hoạch đều
gây hậu quả về nhiều mặt vì vậy đều khó thực hiện.Có thể nói kế hoạch là cứng nhắc và
thiếu linh hoạt.

-Sự gò bó của các thủ tục hành chính, sự thiếu đồng bộ của môi trường pháp lý cũng làm
sai lệch kết quả thực hiện và cản trở các hoạt động khác nhau của kế hoạch hoá.
2. Phân loại kế hoạch cấp doanh nghiệp
2.1.Căn cứ vào tiêu thức thời gian hệ thống kế hoạch của doanh nghiệp bao gồm:
2.1.1. Chiến lược kinh doanh
Nhằm xác định các lĩnh vực hoạt động mà tổ chức sẽ tham gia, xác định các mục
tiêu chính sách giải pháp dài hạn( thường là 4-5 năm ) về tài chính, đầu tư, nghiên cứu phát
triển, con người do cấp quản lý cấp cao lập, mang tính tập trung cao và linh hoạt.
2.1.2. Kế hoạch trung hạn:
Phác thảo các chương trình trung hạn để hiện thực hoá các lĩnh vực các mục tiêu,
chính sách, giải pháp được hoạch định trong chiến lược đã chọn. Loại này được lập bởi các
chuyên gia quản lý cấp cao và chuyên gia quản lý điều hành. Loại này ít tập trung và ít
uyển chuyển hơn kế hoạch dài hạn. Thời gian kế hoạch thường kéo dài từ 3 - 5 năm.
2.1.3.Kế hoạch hàng năm:
Tuỳ theo cách thức tiếp cận của kế hoạch chiến lược và trung hạn, cách cụ thể hoá
nhiệm vụ sản xuất kinh doanh hằng năm có thể được xác định theo chương trình hoặc
phương án kế hoạch năm. Kế hoạch năm là sự cụ thể hoá nhiệm vụ sản xuất kinh doanh
căn cứ vào định hướng mục tiêu chiến lược và kế hoạch trung hạn, kết quả nghiên cứu điều
chỉnh các căn cứ xây dựng kế hoạch phù hợp với điều kiện của năm kế hoạch. Là kết quả

hoạch định của các chuyên gia quản lý điều hành và chuyên gia quản lý thực hiện.
2.1.4. Kế hoạch tác nghiệp và các dự án:
Để triển khai các mục tiêu và thực hiện các hoạt động trong tổ chức.
2.2. Căn cứ vào mối quan hệ gắn bó giữa các loại kế hoạch hoá trong phạm vi tổ chức.
2.2.1.Bộ phận kế hoạch mục tiêu:
Đây là một bộ phận kế hoạch quan trọng nhất của tổ chức, nhằm hoạch định các mục
tiêu, chính sách và các giải pháp về sản phẩm, thị trường, qui mô và cơ cấu hoạt động của
tổ chức. Nó cũng xác định các chỉ tiêu về tài chính cơ bản nhằm xác định hiệu quả hoạt
động gắn với từng phương án được hoạch định.

2.2.2. Các kế hoạch điều kiện hay hỗ trợ: ( Về lao động tiền lương vật tư thiết bị,
vốn ).
Nhằm xác định các mục tiêu, giải pháp, phương án huy động, khai thác các khả
năng và nguồn lực nhằm thực hiện có hiệu quả các phương án kế hoạch mục tiêu. Kế
hoạch điều kiện được căn cứ và gắn bó với kế hoạch hoá mục tiêu. việc xác định các kế
hoạch này nhăm đảm bảo tính đồng bộ trong mục tiêu, giải pháp và điều kiện thực hiện các
hoạt động kế hoạch và quản lý. Độ dài của thời gian và yêu cầu của kế hoạch mục tiêu sẽ
quyết định các vấn đề tương ứng của kế hoạch điều kiện. Cuối cùng được xây dựng và
thực hiên các kế hoạch điều kiện là nhằm đảm bảo và nâng cao tính khả thi của các
phương án và chương trình kế hoạch của tổ chức.
Hình 1: Sơ đồ hệ thống kế hoạch của doanh nghiệp:












Các sứ mệnh và mục tiêu của
doanh nghi
ệp

Chiến lược kinh doanh
K
ế hoạch trung hạn

Kế hoạch năm
KH SX
-
TT

KH TC
-
TD

VT-KT



-
TL

KH
-
KT


ĐTXD
CB

GTSP

ĐS

Kế Hoạch tác nghiệp
(quý tháng)




Nguồn: Phòng tổ chức nhân sự
Hệ thống kế hoạch của doanh nghiệp
Trong hệ thống kế hoạch hoá của doanh nghiệp thì kế hoạch hàng năm giữ một vị trí
vai trò đặc biệt quan trọng.Nó là sự cụ thể hoá nhiệm vụ sản xuất kinh doanh có căn cứ
vào định hướng mục tiêu chiến lược. Bên cạnh đó các bộ phận kế hoạch cũng có mối quan
hệ khăng khít, ràng buộc với nhau, trong đó kế hoạch sản xuất - tiêu thụ là một trong
những bộ phận trung tâm của kế hoạch năm,nó thuộc loại kế hoạch mục tiêu. Các bộ phận
kế hoạch khác như vật tư kĩ thuật, lao động tiền lương, nghiên cứu và ứng dụng khoa học
kĩ thuật , giá thành sản phẩm là những kế hoạch điều kiện.
II. phương pháp luận về xây dựng kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp.
1. Những yêu cầu và các nhân tố ảnh hưởng đến công tác xây dựng kế hoạch kinh
doanh của doanh nghiệp.
1.1. Những yêu cầu đối với công tác xây dựng kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ nhất :Công tác xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh cần quán triệt yêu cầu
hiệu quả. Doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường thì hiệu quả kinh doanh
phải là tiêu chuẩn hàng đầu cho việc xây dựng , lựa chọn và quyết định phương thức kinh
doanh. Loại trừ một số doanh nghiệp hoạt động công ích (phải đề cao hiệu quả kinh tế - xã

hội) thì phần lớn các doanh nghiệp còn lại tiêu chuẩn hiệu quả là hiệu quả kinh tế mà biểu
hiện rõ nhất là chỉ tiêu lợi nhuận. Tuy nhiên cũng cần lưu ý, lợi nhuận trong xây dựng lựa
chọn phương án sản xuất kinh doanh là "lợi nhuận kinh tế” tức là lợi nhuận dựa trên tính
toán chi phí cơ hội của phương pháp lựa chọn , không chỉ đơn thuần là lợi nhuận kế toán.
Mặt khác mục tiêu lợi nhuận còn được phân biệt theo thời gian.
Quán triệt yêu cầu này đòi hỏi:

+Xây dựng kế hoạch theo phương thức hạch toán kinh doanh đảm bảo nguyên tắc
lấy thu, bù chi, kinh doanh có lãi.
+Đặt nền tảng hoạt động của doanh nghiệp trên nguyên tắc kinh doanh đích thực,
mọi sự trợ giá, hỗ trợ, (nếu thấy thực sự cần thiết) nên thực hiện bên ngoài hoạt động sản
xuất kinh doanh.
+Lấy nhu cầu thị trường và các tiềm năng của doanh nghiệp là những căn cứ hàng
đầu trong quá trình xây dựngvà điều chỉnh kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp.
Thứ hai:Công tác xây dựng kế hoạch phải quán triệt yêu cầu đồng bộ hệ thống. Doanh
nghiệp là một phân hệ trong hệ thống thống nhất là nền kinh tế quốc dân. Điều đó đòi hỏi
các khâu trong quá trình kế hoạch hoá phải đảm bảo cho mục tiêu hoạt động của doanh
nghiệp (phân hệ) và góp phần thúc đẩy việc thực hiện mục tiêu bao trùm của cả hệ thống.
Đồng thời bộ phận kế hoạch sản xuất kinh doanh cũng phải đồng bộ, ăn khớp với các bộ
phận kế hoạch khác của doanh nghiệp.
Quán triệt yêu cầu này đòi hỏi:
+Đổi mới công tác xây dựng kế hoạch của doanh nghiệp phải gắn liền với đổi mới cơ chế
quản lý và kế hoạch hoá nền kinh tế quốc dân.
+Chuyển hệ thống kế hoạch hoá năm của doanh nghiệp từ chỗ là tổng hợp các chỉ tiêu
được tính toán rời rạc (lắp ghép cơ học) sang xác định các phương án kế hoạch theo
phương pháp đồng bộ có mục tiêu. Khi xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp cũng như điều chỉnh kế hoạch này phải gắn bó chặt chẽ với các kế hoạch mục tiêu
và hỗ trợ khác.
Thứ ba:Công tác xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải quán

triệt yêu cầu "vừa tham vọng, vừa khả thi”. Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường với
mục tiêu là lợi nhuận đòi hỏi các doanh nghiệp phải xây dựng và thực hiện kế hoạch đầy
tham vọng. Mặt khác, kế hoạch sản xuất kinh doanh khả thi lại là vấn đề nguyên tắc và là
điều kiện kiên quyết để các ý đồ kinh doanh được thực hiện.
Quán triệt yêu cầu này đòi hỏi:

+Khi hoạch định kế hoạch phải điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường, môi trường kinh
doanh nhằm nắm chắc cơ hội , tránh các sự rủi ro, cạm bẫy của thị trường.
+Kế hoạch đầy tham vọng phải được hoạch định trên cơ sở khai thác các khả năng và
nguồn lực bên trong và bên ngoài của doanh nghiệp có tính đến sự thay đổi của chúng
dưới tác động của tiến bộ khoa học công nghệ.
Thứ tư: Công tác xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải quán
triệt yêu cầu “kết hợp các mục tiêu chiến lược với các mục tiêu tình thế”. Nói cách khác hệ
thống mục tiêu kế hoạch phải được hoạch định và điều chỉnh linh hoạt theo yêu cầu thay
đổi của môi trường và điều kiện kinh doanh.
Quán triệt yêu cầu này đòi hỏi:
+Thực hiện phương châm lợi dụng mọi cơ hội kinh doanh, lấy ngắn nuôi dài, coi lợi ích
trước mắt là phương tiện để đạt lợi ích cơ bản cao hơn trong tương lai.
+Phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải hoạch định theo hướng kết hợp
chuyên môn hoá với kinh doanh tổng hợp. Mỗi doanh nghiệp vừa phải xác định hướng đi
cơ bản, ổn định của mình, vừa phải đáp ứng nhu cầu muôn hình, muôn vẻ của thị trường.
+Xác định phương hướng, bước đi và giải pháp trong hình thành cơ cấu lao động tối ưu,
đổi mới kỹ thuật công nghệ.
Thứ năm:Công tác xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh phải quán triệt yêu cầu kết
hợp đúng đắn các loại lợi ích kinh tế trong doanh nghiệp. Điều đó sẽ tạo ra động lực phát
triển, là cơ sở bảo đảm thực hiện có hiệu quả các phương án sản xuất kinh doanh.
Yêu cầu này đòi hỏi:
+Hoạch định lựa chọn và điều chỉnh các phương án kinh doanh phải quán triệt yêu cầu
toàn diện và hệ thống. Cân đối giữa lợi ích cục bộ và lợi ích của nền kinh tế quốc dân.
+Xử lý các quan hệ tài chính giữa Nhà nước với doanh nghiệp và với các phương án phân

phối trong nội bộ doanh nghiệp.
+Trong giải quyết các mối quan hệ hợp tác liên doanh và liên kết kinh tế phải trên nguyên
tắc:Bình đẳng,tôn trọng lẫn nhau, và cùng có lợi.

1.2 Các nhân tố ảnh hưởng đến công tác xây dựng kế hoạch kinh doanh của doanh
nghiệp.
1.2.1 Tính không chắc chắn của môi trường kinh doanh.
Xây dựng kế hoạch là quá trình chuẩn bị để đối phó với sự thay đổi và tính không chắc
chắn của môi trường kinh doanh mà chủ yếu là các nhân tố trong môi trường nền kinh tế
và môi trường ngành. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là phải tính toán, phán đoán được sự
tác động của môi trường kinh doanh.
Sự không chắc chắn của môi trường kinh doanh được thể hiện dưới 3 hình thức:
+ Tình trạng không chắc chắn: xẩy ra khi toàn bộ hay một phần môi trường được coi
là không thể tiên đoán được.
+ Hậu quả không chắc chắn là trường hợp mặc dù đã cố gắng nhưng nhà quản lý
không thể tiên đoán được những hậu quả của sự kiện hay sự thay đổi của môi trường đối
với các doanh nghiệp, do đó dẫn đến sự không chắc chăn.
+ Sự phản ứng không chắc chắn:là tình trạng không thể tiên đoán được những hệ quả
của một quyết định cụ thể hay sự phản ứng của tổ chức đối với những biến động của môi
trường.
Nhìn chung công việc của người xây dựng kế hoạch là phải đánh giá tính chất và mức
độ không chắc chắn của môi trường để xác định cách thức phản ứng của tổ chức và triển
khai các kế hoạch thích hợp , ở những lĩnh vực có mức độ không chắc chắn thì việc xây
dựng kế hoạch là không mấy phức tạp, nhưng những lĩnh vực có mức độ không chắc chắn
cao đòi hỏi kế hoạch phải được xác định rất linh hoạt.

1.2.2 Sự hạn chế của các nguồn lực:
Khi lập kế hoạch doanh nghiệp đã gặp một trở ngại lớn là sự hạn chế của các nguồn
lực. Thực tiễn cho thấy sự khan hiếm của các nguồn lực là bài toán làm đau đầu các nhà kế
hoạch khi lập kế hoạch. Chính điều này nhiều khi làm giảm mức tối ưu của phương án kế

hoạch được lựa chọn.
Trước hết cần nói đến nguồn nhân lực, đây vốn được coi là một trong những thế mạnh
của Việt Nam nhưng thực tế ở các doanh nghiệp còn rất nan giải. Lực lượng lao động thừa
về số lượng nhưng lại yếu về chất lượng. Số lượng lao động có trình độ quản lý, tay nghề
cao vẫn thiếu, lực lượng lao động trẻ vẫn còn phải đào tạo nhiều.
Tiếp đến cần phải kể đến sự hạn hẹp về tài chính. Tiềm lực tài chính yếu sẽ cản trở sự
triển khai các kế hoạch, hơn nữa nó cũng giới hạn việc lựa chọn những phương án tối ưu.
Cơ sở vật chất kỹ thuật nói chung của doanh nghiệp cũng là nguồn lực hạn chế. Đó là
khả năng hạn chế về máy móc thiết bị, công nghệ, nhà xưởng kho tàng Thực tiễn ở các
doanh nghiệp ở nước ta hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật còn rất yếu và thiếu. Điều đó đã
cản trở việc xây dựng và lựa chọn những kế hoạch sản xuất tối ưu nhất
1.2.3 Hệ thống mục tiêu của doanh nghiệp
Mục tiêu được hiểu theo sự cam kết cụ thể đối với thực hiện một kết quả có thể đo
lường trong khoảng thời gian đã định. Các mục tiêu được xác định càng cụ thể càng tốt
trên phương diện: số lượng, các điều kiện cụ thể hay những dữ liệu có thể đo lường được
và được thể hiện trong những khoảng thời gian nhất định. Dưới đây là 3 câu hỏi để kiểm
tra và điều chỉnh một mục tiêu:
+Mục tiêu đã đề cập đến kết quả hoàn thành như thế nào?
+Mục tiêu này xác định khi nào thì kết quả chờ đợi được hoàn thành?
+Có thể đo lường được kết quả chờ đợi không?
Mục tiêu hữu ích của doanh nghiệp phải thoả mãn cả 3 câu hỏi này, nếu mục tiêu
không thoả mãn bất kỳ câu hỏi nào cũng gây khó khăn cho quá trình lập kế hoạch.
1.2.4 Quá trình tổ chức thông tin, thống kê, kế toán.

Nhà kinh tế học người Anh Roney cho rằng:muốn chiến thắng trong cạnh tranh một
mặt công ty hoạt động trong nền kinh tế thị trường trước hết phải nắm được thông tin, tiếp
đó phải xây dựng cho mình các chiến lược và kế hoạch đầy tham vọng.
Trong quá trình xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh thông tin sẽ giúp ta đánh giá
so sánh và lựa chọn phương án Thông tin giúp bộ phận lãnh đạo của doanh nghiệp có
được các quyết định đúng đắn, kịp thời.

Thống kê và kế toán là hai công cụ đặc biệt có ý nghĩa đối với công tác quản lý nói
chung và công tác xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh nói riêng. Tổ chức thống kê, kế
toán đầy đủ, chính xác, kịp thời, sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp thực sự đi vào cơ chế hoạch
toán, xây dựng có hiệu quả giúp cho bộ phận kế hoạch lựa chọn, xây dựng những phương
án sản xuất tối ưu nhất. Tuy nhiên ở nước ta các doanh nghiệp chưa thực sự chú ý đúng
mức công tác thống kê.
1.2.5 Cơ chế quản lý kinh tế và kế hoạch hoá của Nhà nước.
Đây là nhóm nhân tố có ảnh hưởng sâu sắc đến công tác xây dựng kế hoạch sản xuất
kinh doanh. Một cơ chế quản lý phù hợp sẽ thúc đẩy hoạt động kế hoạch sản xuất phát
triển, ngược lại nó sẽ kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp.Thực tế trong những năm
chuyển đổi cơ chế quản lý cho thấy càng đi sâu vào cơ chế thị trường càng phát sinh nhiều
vấn đề mới cần tiếp tục nghiên cứu giải quyết để hoàn thiện cơ chế quản lý và kế hoạch
của nhà nước. Nhà nước cần tiếp tục giải quyết các tồn đọng ,vướng mắc trong những năm
chuyển đổi để thực sự tạo quyền tự chủ cho doanh nghiệp song vẫn đảm bảo yêu cầu quản
lý tập trung thống nhất của nhà nước.

2. Các căn cứ xây dựng kế hoạch kinh doanh.
Việc xác định các căn cứ vững chắc để xây dựng kế hoạch là việc làm rất quan trọng
và cần thiết nhằm đảm bảo cho kế hoạch của doanh nghiệp được hoạch định khả thi và đạt
hiệu qủa cao.
Các căn cứ chủ yếu khi xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh gồm:
2.1. Căn cứ vào chủ trương, đường lối phát triển của Tổng công ty:
Trong công tác hoạch định về nguyên tắc doanh nghiệp được quyền tự chủ. Song Tổng
công ty là đơn vị chủ quản mang lại quyền lợi và đặt ra nhưng yêu cầu với công ty. Trên
cơ sở số vốn được tổng công ty cấp để công ty hoạt động sản xuất kinh doanh thì công ty
phải thực hiện sự chỉ đạo của Tổng công ty để thực hiện mục tiêu định hướng của Tổng
công ty .
2.2. Căn cứ vào kết quả điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường.
Yêu cầu của công tác hoạch định là phải xác định được quy mô, cơ cấu nhu cầu đối
với từng sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp, có tính đến sự tác động của các nhân tố

làm tăng hoặc giảm nhu cầu. Kết quả nghiên cứu nhu cầu có thể tập hợp theo các mức giá
để định hướng mục tiêu kinh doanh phù hợp với sự phân đoạn của doanh nghiệp đảm bảo
sự gắn bó giữa sản xuất với các yếu tố hỗ trợ.
Đối với doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ thì thị trường cũng lại rất đặc biệt cũng như
đặc trưng về sản phẩm của nó. Do đó, việc nghiên cứu nhu cầu thị trường là rất quan trọng
trong công tác xây dựng kế hoạch hàng năm của công ty.
2.3.Căn cứ vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong năm của công ty.
Một bản kế hoạch muốn có tính khả thi cao thì cần phải dựa vào kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh trong thời kỳ đã qua và dự báo khả năng trong tương lai và tương ứng với
những nguồn lực hiện có của Công ty. Trọng tâm nghiên cứu cần tập trung vào các chỉ tiêu
chất lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh, điển hình là các mặt sau:

+ Khả năng hiện có của doanh nghiệp về trang thiết bị, máy móc, con người. Với máy
móc cần phân tích số lượng năng suất và hệ số sử dụng, nắm vững số lượng, chất lượng
lao động hiện có của Công ty nhằm có kế hoạch phù hợp.
+ Khả năng kinh doanh có thể được hình thành thông qua áp dụng các biện pháp khai
thác các tiềm năng của doanh nghiệp hoặc đi thuê liên doanh liên kết.
+ Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp về vị trí uy tín sản phẩm , công nghệ, vốn,
kinh nghiệm quản lý nó cho biết mặt mạnh và yếu của doanh nghiệp
2.4.Căn cứ vào nguồn lực của công ty và tinh thần làm việc của cán bộ công nhân viên
trong toàn công ty .
Nguồn lực của công ty tạo cho công ty thế và lực để có những hợp đồng trên thị
trường qua đó hoàn thành được nhiệm vụ mà công ty đề ra. Kết hợp với nguồn lực phải có
tinh thần làm việc của cán bộ công nhân viên có tinh thần trách nhiệm cao với công việc
hoàn thành dược công việc đặt ra trong tuần trong tháng để hoàn thành kế hoạch trong
năm.
3. Các phương pháp lập kế hoạch.
Trong thức tế các doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều phương pháp hoạch đinh. Tuỳ
thuộc vào mục đích, yêu cầu mà các doanh nghiệp áp dụng các phương pháp khác nhau. ở
Việt Nam hiện nay các doanh nghiệp chủ yếu vẫn sử dụng phương pháp cân đối trong việc

xây dựng kế hoạch.
3.1. Phương pháp cân đối: gồm các bước sau:
Bước 1: Xác định khả năng (bao gồm khả năng sẵn có và chắc chắn có) của doanh
nghiệp và yếu tố sản xuất.
Bước2: Cân đối giữa nhu cầu và khả năng về các yếu tố sản xuất
Trong cơ chế thị trường, phương pháp cân đối được xác định với những yêu cầu sau:
-Cân đối được thực hiện là cân đối động. Cân đối để lựa chọn phương án chứ không phải
cân đối theo phương án đã được chỉ định. Các yếu tố của cân đối đều là những yếu tố biến

đổi theo môi trường kinh doanh, đó là nhu cầu thị trường và khả năng có thể khai thác của
doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch.
-Thực hiện cân đối liên hoàn, tức là tiến hành nhiều cân đối kế tiếp nhau để bổ sung và
điều chỉnh phương án cho phù hợp với thay đổi của môi trường.
-Thực hiện cân đối trong những yếu tố trước khi tiến hành cân đối tổng thể các yếu tố. Kết
quả cân đối tổng hợp phải là căn cứ xác định năng lực sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp và là cơ sở để xác định hoặc điều chỉnh phương án kinh doanh của doanh nghiệp.
3.2 Phương pháp tỷ lệ cố định.
Nội dung của phương pháp này là tính toán một số chỉ tiêu của năm kế hoạch theo tỷ
lệ đã được xác định trong năm báo cáo trước đó. Có nghĩa là coi tình hình của năm kinh
doanh giống như tình hình của năm báo cáo đối với một số chỉ tiêu nào đó.
Phương pháp này cho thấy kết quả nhanh nhưng thiếu chính xác nên chỉ sử dụng trong
trường hợp không đòi hỏi độ chính xác cao và thời gian không cho phép dài.
3.3. Phương pháp phân tích chu kỳ sống của sản phẩm
Chu kỳ sống của sản phẩm (vòng đời của sản phẩm) là khoảng thời gian từ khi nó
được đưa ra thị trường cho đến khi nó không còn tồn tại trên thị trường. Trừ một số sản
phẩm hàng hoá thiết yếu phục vụ đời sống hàng ngày, hàng hoá có tính chất thời trang,
mau hỏng hoặc sản phẩm có tính thời vụ Còn lại , nói chung chu kỳ sống của sản phẩm
được đặc trưng bởi 4 giai đoạn chủ yếu (4 pha): triển khai (thâm nhập), tăng trưởng, bão
hoà và suy thoái. Tương ứng với mỗi giai đoạn là các vấn đề và cơ hội kinh doanh. Doanh
nghiệp cần nhận biết đặc điểm của từng giai đoạn để quyết định khối lượng sản xuất, vì

mỗi giai đoạn của chu kỳ sống có mức độ tiêu thụ trên thị trường khác nhau.
3.4 Phương pháp đường cong kinh nghiệm.
Thực chất của phương pháp này là phân tích đối thủ cạnh tranh trong vùng ngành nghề
trên cơ sở mối quan hệ giữa việc giảm chi phí trên một đơn vị sản phẩm và việc tăng số
lượng sản phẩm, từ đó tiến hành lập kế hoạch
Hình 2: Trình tự các bước xây dựng kế hoạch.














Bước 1: Nhận thức cơ hội kinh doanh
Đây là điểm bắt đầu của việc lập kế hoạch. Trong bước này doanh nghiệp phải thực
hiện một loạt các phân tích và dự báo nhận biết các cơ hội dựa trên sự hiểu biết và thông
tin trên thị trường cạnh tranh, quy mô, cơ cấu của nhu cầu, điểm mạnh, điểm yếu, cùng với
khả năng và nguồn lực của doanh nghiệp.
Bước 2: Xác định các mục tiêu tổng quát của hoạt động kinh doanh
Nhận thức cơ
h
ội


Xác định mục
tiêu
Kinh doanh

Xem xét các
tiền đề
Hoạch định
các phương
án

Đánh giá so
sánh các
Lựa chọn
phư
ơng án

Lập các kế
hoạch bổ
tr


Lượng hoá
các phương
án


Đó là các mục tiêu về sản lượng, doanh thu, giảm chi phí sant xuất, tăng lợi nhuận,
nâng cao chất lượng sản phẩm, cải tiến quy trình sản xuất.
Bước 3:Soát xét các tiền đề, căn cứ.
Đây là bước quan trọng, nó liên quan trực tiếp đến kết quả phân tíchvà dự báo về môi

trương, điều kiện kinh doanh và nội bộ doanh nghiệp. Các tiền đề căn cứ cần được giới
hạn theo các giả thiết có tính chiến lược hoặc cấp thiết.
Bước 4:Hoạch định các phương án kinh doanh
Có nhiều cách khác nhau để đạt các mục tiêu và ứng dụng với nó lại có nhiều phương
án khác nhau. Do vậy yêu cầu cơ bản của bước này không phải là tìm ra tất cẩ các phương
án mà là việc giảm bớt các phương án cần lựa chọn để sao cho chỉ có những phương án có
nhiều triển vọng nhất được đưa ra phân tích với các điểm mạnh, điểm yếu đã được xác
định.
Bước 5: Đánh giá, so sánh các phương án
Thực chất là định hướng các phương án dưới ánh sáng của các tiền đề căn cứ và mục
tiêu, từ đó tiến hành so sánh đối chiếu chúng với nhau dựa trên các tiêu thức và hiệu quả,
chi phí, tính khả thi
Bước 6: Lựa chọn phương án
Đó là thời điểm phương án kế hoạch được chấp nhận dựa trên các kết quả đánh giá.
Trong thực tế doanh nghiệp có thể lựa chọn một phương án tối ưu và một hoặc nhiều
phương án dự phòng.

Bước 7: Xây dựng các phương án kế hoạch hỗ trợ
Các phương án này được xác định dựa trên phương án kinh doanh đã xác định trong
dài hạn đó là việc xác lập các chính sách, các biện pháp chiến lược. Còn trong ngắn hạn là
việc xác định về vốn và lao động Nhằm thực thi có hiệu quả phương án kinh doanh.
Bước 8: Lượng hoá các phương án kinh doanh thông qua việc lập ngân quỹ.
Ngân quỹ chung của doanh nghiệp biểu hiện toàn bộ thu nhập và chi phí với lợi nhuận
hoặc số dư tổng hợp Chẳng hạn: chi phí tác nghiệp cần thiết cho kế hoạch sản xuất, chi
phí máy móc, thiết bị, vật tư lao động

chương 2
Phân tích thực trạng xây dung và thực hiện kế hoạch kinh doanh ở công ty
dịch vụ kĩ thuật dầu khí giai đoạn 2000-2003
I. Giới thiệu về công ty.

1 Quá trình hình thành và phát triển.
Trước năm 1975, Liên đoàn Địa chất 36 là đơn vị trực thuộc Tổng Cục Địa chất, có
nhiệm vụ tổ chức triển khai việc tìm kiếm, thăm dò dầu khí tại Đồng bằng Bắc bộ và vịnh
Bắc bộ thuộc Miền Bắc Việt Nam với sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên Xô, Trung
Quốc, Tiệp Khắc, Việc tìm kiếm, thăm dò dầu khí chủ yếu dùng các phương pháp Địa
chấn, Điện, Trọng lực và khoan nhằm xác định các cấu tạo địa chất có triển vọng chứa dầu
khí.
Từ năm 1975 đến nay, nhằm thống nhất quản lý và điều hành công tác tìm kiếm, thăm
dò và khai thác dầu khí tại Việt Nam. Tháng 9/1975, Đoàn Địa vật lý được thành lập trên
cơ sở sáp nhập Đoàn 36Đ, Đoàn 36T và Đoàn 36F. Năm 1980, Đoàn Địa vật lý được đổi
tên thành Công ty Địa vật lý. Năm 1989, Công ty Địa vật lý được đổi tên thành Công ty
Địa vật lý và Dịch vụ Dầu khí. Năm 1993, Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam quyết định sáp
nhập Công ty Dịch vụ Dầu khí vào Công ty Địa vật lý và Dịch vụ dầu khí.
Ngày 16/2/1996, Bộ trưởng, Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ có quyết định số
199/BT thành lập Công ty Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí là đơn vị thành viên trực thuộc Tổng
Công ty Dầu khí Việt Nam với chức năng thực hiện công tác dịch vụ kỹ thuật dầu khí phục
vụ cho việc tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí tại Việt Nam và nước ngoài.
1. Công ty Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí là một doanh nghiệp Nhà nước hạch toán độc lập,
có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng, được mở tài khoản tại Kho bạc Nhà nước, ngân
hàng trong nước và nước ngoài theo quy định của Pháp luật.
2. Công ty Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí có tên giao dịch quốc tế là: Petroleum Technical
Services Company, viết tắt là PTSC.
3. Giấy phép kinh doanh số 109586 ngày 5/3/1996 do UB Kế hoạch thành phố Hà Nội cấp
4. Trụ sở làm việc của Công ty đặt tại 154 Nguyễn Thái Học - Quận Ba Đình - Hà Nội.

Điện thoại : 84.4 7336586 Fax : 84.4 7336589.
Được sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của lãnh đạo Tổng Công Ty,sự giúp đỡ của các
phòng ban Tổng Công Ty, cùng với sự hợp tác có hiệu quả của các đơn vị kinh tế trong và
ngoài ngành; sự doàn kết, cố gắng lao động sản xuất của toàn thể CBCNLĐ trong Công ty
đã tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất phát triển.

Công tác tổ chức,quản lý được kiện toàn; công tác đào tạo được coi trọng và duy trì
thường xuyên; cơ sở vật chất, kỹ thuật của Công ty được quan tâm đầu tư có trọng điểm,
cho tới nay có thể nói là tương đối đầy đủ để phục vụ cho sự phát triển nhanh chóng và lâu
dài.
Uy tín của PTSC trong thị trường dịch vụ dầu khí là không thể phủ nhận.Các Công ty
dầu khí nước ngoài đã coi Công ty PTSC như một đối tác tin cậy về năng lực,trình độ và
tác phong dịch vụ.
2. Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của công ty.
Chức năng: Thực hiện công tác dịch vụ kỹ thuật dầu khí phục vụ cho việc tìm kiếm, thăm
dò và khai thác dầu khí tại Việt Nam và nước ngoài.
Công ty Dịch vụ Kỹ thuật Dầu khí có các nhiệm vụ sau:
Nhiệm vụ:
- Kinh doanh Dịch vụ Dầu khí.
- Xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị dầu khí.
- Sản xuất, cung ứng vật tư, thiết bị dầu khí.
- Cung cấp lao động chuyên ngành dầu khí.
- Kinh doanh khách sạn, nhà ở, văn phòng làm việc và dịch vụ sinh hoạt dầu khí.
- Vận chuyển và kinh doanh nhiên liệu, các sản phẩm dầu khí.
- Dịch vụ đại lý tàu biển.
Quyền hạn:

×