Tải bản đầy đủ (.ppt) (15 trang)

Báo cáo đề tài: Kinh nghiệm bảo vệ môi trường trong khai thác bauxite của các nước và khả năng áp dụng vào Việt Nam pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.64 KB, 15 trang )

LOGO
KINH NGHIỆM BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
TRONG KHAI THÁC BAUXITE CỦA
CÁC NƯỚC VÀ KHẢ NĂNG ÁP DỤNG
VÀO VIỆT NAM
SVTH : Nguyễn Xuân Cường
Nguyễn Doãn Thanh
GVHD : Hoàng Thị Hồng Hạnh
BỐ CỤC ĐỀ TÀI
I. Tại sao phải bảo vệ môi trường trong khai thác
bauxite.
II. Các biện pháp bảo vệ môi trường trong khai thác
bauxite của các nước trên thế giới.
III. Khả năng ứng dụng các giải pháp bảo vệ môi
trường của các nước và biện pháp bảo vệ môi
trường của Việt Nam.
1. Khả năng ứng dụng các giải pháp bảo vệ môi
trường của nước ngoài vào Việt Nam.
2. Các biện pháp bảo vệ môi trường của Việt Nam.
IV. Kết luận.
I. Tại sao phải bảo vệ môi trường trong khai thác bauxite

Tác động tới môi trường đất trước tiên là việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất trong đó một
lượng lớn diện tích đất rừng, cây công nghiêp, cây nông nghiệp hoa màu thực phẩm sẽ mất đi
thay vào đó là những mảnh đất trơ sỏi đá của hoạt động khai khoáng ( ở Đắc Nông, Bauxite
phân bố trên 2/3 diện tích tự nhiên của tỉnh). Một khi lượng đất trên mặt bị bốc đi sẽ đồng
thời làm giảm độ ẩm của đất nên không có khả năng tái phủ xanh sau khi khai thác.
Các mương xói hình thành trên bền mặt nền đất bị bóc lớp phủ

Sơ đồ tác động


Ngoài ra, sau quá trình khai khoáng là quá trình tuyển quặng kết quả
của hoạt động này thải ra một lượng bùn đỏ khá lớn. Bùn đỏ là hỗn hợp
bao gồm các chất như sắt, mangan,… và một lượng xút dư thừa do quá
trình dung hòa, tách quặng Alumin. Đây là hợp chất vô cùng độc hại.
Sự vận chuyển bùn đỏ trong các lưu vực sông còn làm tăng độ đục của
các dòng chảy ảnh hưởng đến các động vật thủy sinh và các loài cây
sống trong thủy vực. Lượng chất lơ lửng trong dòng chảy cao cũng làm
cho tốc độ bồi lắng tại nơi các cửa sông gia tăng làm cạn đáy sông thay
đổi dòng chảy có thể gây xói lở bờ sông trên các đoạn xung yếu.
Nước dòng chảy mặt trong khu vực khai thác tuyển quặng bauxite

Quá trình khai thác và vận chuyển quặng Bauxite từ các điểm quặng đến
nhà máy tuyển sẽ gây ra ô nhiễm không khí do bụi và các khí thải bởi
phương tiện giao thông. Với công suất Alumin như ở nhà máy Nhân Cơ là
600.000 tấn /năm, tương đương với lượng quặng thô cần khai thác là 3
triệu tấn / năm. Ước tính hằng ngày sẽ có khoảng 400 chuyến xe vận
chuyển quặng đến nhà máy tuyển rửa. Với đặc thù của đất đỏ Tây Nguyên
và mùa khô kéo dài trong 6 tháng; các khu dân cư xung quanh sẽ bị bao
trùm bởi bụi đất đỏ Bazan, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của
người dân.
Quá trình khai thác quặng bauxite tạo ra lượng bụi lớn đi vào không khí
II. Các biện pháp bảo vệ môi trường trog khai thác bauxite
của các nước trên thế giới.
1. Giải quyết vấn đề bùn đỏ.

Một số nước như Pháp, Áo xử lý bùn đỏ bằng cách đổ ra gần biển. Nước
biển và bùn đỏ có thể chung sống bền vững với nhau. Ở Việt Nam, các
chuyên gia của COMECON trước đây cũng đã tính tới phương án đưa
quặng từ Tây Nguyên xuống Bình Thuận để tuyển và sản xuất alumina,
để đưa bùn đỏ ra biển. Nhưng chi phí sẽ rất cao (phải vận chuyển không

công gần 70% khối lượng), nên dự án không khả thi.

Chôn cất bùn đỏ, chi phí cao. Dự án ở Aughinsh ở Izland với diện tích
78ha (giai đoạn 2) triển khai trong các năm 2008-2010 sẽ tiêu phí hết 60
triệu USD . Dự án Euralumina (ở Ý) mở rộng bể chứa bùn đỏ gần bờ
biển triển khai giai đoạn 2008-2010 sẽ tiêu tốn 81,5 triệu USD.

Đáng chú ý, công ty TenCate của Mỹ đã đưa ra công nghệ Geotube® lưu
giữ bùn đỏ trong các túi đặc biệt. Trên cơ sở đó, Canada đã đầu tư 226,8
triệu USD để xây dựng một nhà máy chuyên sản xuất túi đựng bùn đỏ
công suất 80.000 tấn/năm (dự kiến hoàn thành cuối 2008). Rusal cũng
dự tính sẽ dùng các túi Geotube này để đựng bùn đỏ.
2. Giải pháp xanh (trồng cỏ vetiver).
Vetiver?
Ðây là loại cây lưu niên, chỉ cần chăm sóc tối thiểu là nhanh chóng
hình thành hàng rào dày đặc chịu hạn hán và ngập lụt tốt. Phần lớn
rễ cỏ vetiver mọc thẳng xuống ít nhất ba mét.
Do bộ rễ phát triển mạnh thành chùm, đan xen trong đất và có thể
chịu lực bằng 1/6 lần so với bê-tông nên hàng rào vetiver có tác động
đệm rất tốt, chống được xói mòn nếu đặt theo đường đồng mức với
khoảng cách nhất định. Ngoài việc là một hàng rào bảo vệ hiệu quả,
cỏ vetiver còn có thể giải phóng được năng lượng từ dòng xoáy của
nước lũ tạo thành dải bờ kè thiên nhiên bảo vệ các công trình cơ sở
hạ tầng rất hiệu quả và rẻ, giúp bảo vệ các công trình đập, kênh,
đường bộ, sông hồ thủy điện không bị bồi lấp, chống lũ lụt, hạn chế
dòng chảy mất mùa trên diện rộng, cả thiện chất lượng nước thải và
nước ô nhiễm.
Công dụng bảo vệ môi trường trong khai thác bauxite.
Phủ xanh lớp đất thô, tăng độ bền cho đất, chống sói mòn, mang lại
vẽ mỹ quan cho khu vực khai thác bauxite.

Phương phápThiết kế đường bao(VENEZUELA).

Đánh giá khảo sát địa điểm cần khôi phục.

Lấy mẫu đất đem phân tích.
Những yếu tố cần quan tâm : trạng thái tồn tại của dòng nước trong khu
vực, sự ổn định của đất, mái dốc. Đây là những yếu tố cần thiết để xây
dựng đường bao. Khoảng cách giữa các đường bao là từ 0.8 – 1.0m.
Bản thiết kế đường bao vetiver của venezuela [1]
Thi công
Công nhân đang thi công [3]
III. Khả năng ứng dụng các giải pháp bảo vệ môi trường của
nước ngoài và biện pháp bảo vệ môi trường của Việt Nam.
1. Khả năng ứng dụng các công nghệ bảo vệ môi trường của nước ngoài vào
Việt Nam.

Trồng cỏ Vetiver. Cỏ vetiver du nhập vào Việt Nam năm 1999, và được sữ
dụng nhiều trong các lĩnh vực chống sạt lỡ, xói mòn, phủ xanh. Giá thành
tương đối rẻ, sức sống tốt, phương pháp thi công tương đối đơn giản. Nên
đây là phương pháp hữu hiệu mà Việt Nam có thể học hỏi của thế giới.

Giải quyết vấn đề bùn đỏ. Đây là công đoạn khó khăn, cần huy động ngồn
vốn lớn, Khả năng rủi ro cao. Việt Nam là một đất nước còn khá nghèo nên
việc giải quyết vấn đề này còn khá nan giải:

Phương pháp chuyển bùn ra biển (Pháp, Áo) : do địa thế vùng khai
thác bauxite Việt Nam nằm ở Tây Nguyên cách xa biển nê việc vận
chuyển bùn ra biển hết sức khó khăn, và tốn kém. Nên phương pháp
này không khả thi.


Chôn cất bùn (Aughinsh ở Izland): Có thể thực hiện tại chỗ không cần
vận chuyển. Chi phí tương đối cao. Đây là phương pháp tốt mà Việt
Nam nên sử dụng.

Sử dụng túi chứa Bauxite (công ty TenCate của Mỹ ) : Việt Nam chưa
có công nghệ sản xuất loại túi này, nếu đầu tư xây dựng và mua công
nghệ thì không đủ kinh phí. Có thể nhập sản phẩm về sử dụng, nếu
giá thành rẻ.
2. Biện pháp bảo vệ môi trường của Việt Nam.
a. Đối với bụi trong không khí:

Do đặc điểm của công tác ngoải trời trong khoảng không gian rộng, quá trình
khai thác tạo thành bụi đất là chủ yếu nên trong khai trường cần có các giải
pháp kỹ thuật như sau để tránh bụi lan truyền:

Sử dụng các loại bom nước bắn vào không khí trong khu vực đang khai thác, có
sự hoạt động của các phương tiện xe múc, xe ben.

Dùng nước tưới lên các khu vực đang thực hiện công tác khai khoáng.

Lắp đặt hệ thống phun sương trong khu vực khai khoáng.
b. Đối với tiếng ồn :
Là nhân tố khó khống chế triệt để trong quá trình khai thác do đặc trưng của
hoạt động khai thác bằng các phương tiện cơ giới khi vận hành, nhưng có thể
giảm thiểu bằng cách thường xuyên kiểm tra tình trạng hoạt động của phương
tiện, không sử dụng những phương tiện quá cũ.
c. Xử lý bùn đỏ :

Ngoài phương pháp chôn lấp, ta có thể sử dụng các phương pháp khác như:


Làm sân phơi khô và sử dụng vào mục đích trồng các loại cây thích hợp.

Làm bể phân hủy bùn hiếu khí: biến vật thải thành các thành phần không
độc hại.

Đầu tư, nghiên cứu các dây chuyền công nghệ xử lý bùn đỏ.
d. Giảm thiểu các tác động đến môi trường đất - nước.

Để giảm thiểu tác động tới môi trường đất – nước cần có
biện pháp xử lý tốt lượng nước thải ra trong quá trình rửa
quặng và tuyển quặng. Cần đầu tư một công nghệ lắng lọc
bùn, xử lý nước hiệu quả trước khi đưa ra môi trường.

Nếu không thể giải quyết lượng bùn đỏ một cách triệt để hay
không xử lý được phải tiến hành chôn lấp hợp lý. Phải chọn
vị trí thích hợp trong các vùng thấp trũng nơi có ít dân cư.
Sử dụng các loại vật liệu tấm lót để cách đáy không cho
thấm tràm ra ngoài.

Ngoài ra, có thể nghiên cứu các loại cây có thể sinh sống
trong các vùng bùn đỏ nay để tiến hành cải tạo dần.
IV. Kết luận.

Dự án phát triển ngành công nghiệp bauxite ở Tây Nguyên nói chung và ở
Đắk Nông nói riêng là một dự án nhằm mang lại nguồn lợi kinh tế cho việc
phát triển kinh tế vùng. Tuy nó mang lại những lợi ích tức thời cho nhân dân
trong khu vực, nhưng trong tương lai sẽ là một hiểm họa khôn lường trước
những vấn nạn về môi trường có thể xảy trên khu vực, đôi khi có thể lan
rộng trong cả khu vực Tây Nguyên, Nam Trung Bộ, Nam Bộ.


Với điều kiện Tây Nguyên hiện nay, tình trạng thiếu nước vẫn đang là vấn đề
nhức nhối, lượng năng lượng thủy điện không đáp ứng đủ. Các điều kiện về
vốn, khoa học kĩ thuật, và nhân lực chưa đáp ứng thì việc xây dựng ngành
công nghiệp nhôm phát triển là một dự án tham vọng lớn, trong lúc giá nhôm
trên thế giới, và nhu cầu nhôm không quá cao.

Với điều kiện của nước ta hiện nay khả năng xử lý các nguồn ô nhiễm trong
quá trình hoạt động là không triệt để. Do vậy để không làm ảnh hưởng xấu
đến môi trường tự nhiên và xã hội trong khu vực. Thiết nghĩ không nên thực
hiện dự án này một cách rầm rộ trên quy mô lớn. Chỉ nên thực hiện thí điểm
tại một vị trí nhất định có hệ thống quản lý chặt chẽ để đánh giá sát thực hơn
những tác động mà hoạt động khai khoáng loại khoáng sản này mang lại.
Tài liệu tham khảo
[1] R. Luque M.Vetiver Antierosión, C. A: Av. Circunvalación Nº 129
Pinxonal Maracay ZP: 2103 Venezuela.
[2] />[3] O. Luque M.Fundacion Empresas Polar Vetiver Project, and Vetiver
Antierosión C.A. Consultant
[4] />

×