Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

LUẬN VĂN: Đổi mới quản lý tài chính đáp ứng mô hình Đại học Quốc gia Hà Nội - Thực trạng và giải pháp doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (16.77 MB, 103 trang )











LUẬN VĂN:

Đổi mới quản lý tài chính đáp ứng mô
hình Đại học Quốc gia Hà Nội - Thực
trạng và giải pháp










Mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Đại học Quốc gia Hà Nội (ĐHQGHN) hiện nay đã trải qua gần 9 năm xây dựng
và phát triển. Tuy thời gian không phải là dài nhưng đó là cả một thời kỳ đầy thử thách
trong bước đi ban đầu của một mô hình đại học mới. Cũng chính từ thực tế sinh động của


quá trình đổi mới này, một trung tâm đào tạo đại học, sau đại học, nghiên cứu khoa học
và chuyển giao công nghệ đa ngành, đa lĩnh vực chất lượng cao hàng đầu của cả nước đã
được hình thành ngày càng rõ nét và vững chắc. Điều đó càng được khẳng định sau hơn
một năm thực hiện ý kiến chỉ đạo của Thường vụ Bộ Chính trị Ban Chấp hành trung ương
(khóa VIII) của Đảng, cũng như gần một năm triển khai Nghị định số 07/2001/NĐ-CP
ngày 01/02/2001 của Chính phủ và Quy chế tổ chức hoạt động của Đại học Quốc gia Hà
Nội ban hành theo Quyết định số 16/2001/QĐ-TTg ngày 12/02/2001 của Thủ tướng
Chính phủ. Những chủ trương lớn và những quyết định quan trọng trên của Đảng và
Chính phủ có ý nghĩa chiến lược vô cùng quan trọng và đã mở ra một giai đoạn mới đối
với sự nghiệp xây dựng và phát triển ĐHQGHN trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa (CNH, HĐH) đất nước, phù hợp với xu hướng phát triển đại học của các nước tiên
tiến trên thế giới, xứng đáng là trung tâm đào tạo, nghiên cứu khoa học đa ngành, đa lĩnh
vực, chất lượng cao của cả nước. Để hoàn thành sứ mạng lịch sử đó, ĐHQGHN phải phát
huy tiềm năng sẵn có của mình trên cơ sở sự ưu tiên đầu tư của Nhà nước. Trong đó,
quản lý tài chính là một mắt xích quan trọng trong tổng thể guồng máy hoạt động của
ĐHQGHN nhằm hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị mà Đảng và Nhà nước đã giao phó.
Chính vì vậy, tôi chọn đề tài nghiên cứu "Đổi mới quản lý tài chính đáp ứng mô hình Đại
học Quốc gia Hà Nội - Thực trạng và giải pháp" làm luận văn thạc sĩ, chuyên ngành
quản lý kinh tế, mã số 5.02.05.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đã có một số công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài như luận văn thạc sĩ
quản lý kinh tế về "Hoàn thiện quản lý tài chính các trường đào tạo công lập ở nước ta

hiện nay" của học viên cao học Nguyễn Duy Tạo (năm 2000) và đề tài "Đổi mới và hoàn
thiện cơ chế quản lý ngân sách hệ thống giáo dục quốc dân" của Tiến sĩ Trần Thu Hà
(năm 1993) Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến nhiều khía cạnh về quản lý
tài chính, điều hành ngân sách GD-ĐT tầm vĩ mô và tập trung nghiên cứu việc sử dụng
các chính sách chế độ, tiêu chuẩn định mức liên quan, quá trình lập, chấp hành và quyết
toán ngân sách hàng năm các nguồn kinh phí của các trường công lập chủ yếu là đại học
và cao đẳng. Chưa có đề tài nào đề cập đến quản lý tài chính của các trường đại học theo

mô hình ĐHQGHN.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mục đích
Trên cơ sở đánh giá thực trạng quá trình quản lý tài chính từ khi thành lập
ĐHQGHN đề ra các giải pháp đổi mới quản lý tài chính đáp ứng mô hình ĐHQGHN
trong hiện đại hóa đất nước.
Để thực hiện mục đích trên nhiệm vụ cụ thể của luận văn là:
- Làm rõ cơ sở lý luận về tài chính, quản lý tài chính, nguồn tài chính cho giáo
dục - đào tạo nói chung và của ĐHQGHN nói riêng.
- Phân tích thực trạng việc khai thác, sử dụng nguồn tài chính của ĐHQGHN thời
gian qua.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện quản lý tài chính nhằm đáp ứng mô hình của
ĐHQGHN.
Phạm vi nghiên cứu
Đề tài đi sâu nghiên cứu góc độ quản lý tài chính từ khi thành lập ĐHQGHN đến
nay, những vấn đề khác được đề cập nhằm phục vụ cho chủ đề chính của luận văn.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận để nghiên cứu luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử và các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối,

chính sách phát triển của Đảng ta, các quan điểm đường lối chính sách tài chính, chính
sách giáo dục nước ta, các luận điểm kinh tế trong đào tạo nguồn nhân lực.
Phương pháp nghiên cứu là kết hợp nghiên cứu lý thuyết khái quát hóa với quan
sát đánh giá thực tiễn, đồng thời sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp phân tích,
đánh giá để xử lý số liệu điều tra, khảo sát.
5. Đóng góp mới về khoa học của đề tài
Luận văn làm rõ một số vấn đề lý luận về nguồn tài chính và quản lý tài chính
cho giáo dục đại học công lập nói chung và ĐHQGHN nói riêng. Thông qua phân tích
thực trạng quá trình huy động các nguồn tài chính và quản lý tài chính của ĐHQGHN,
luận văn đã chỉ ra được những bài học kinh nghiệm thành công, những tồn tại, hạn chế

cần khắc phục và hoàn thiện, qua đó đã trình bày những quan điểm cơ bản cần quán triệt,
đề ra các giải pháp thiết thực, phù hợp nhằm thực hiện có hiệu quả quá trình huy động và
quản lý tài chính, đáp ứng mô hình ĐHQGHN.
6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài có ý nghĩa góp phần làm sáng tỏ cơ sở khoa học và
thực tiễn trong việc huy động, sử dụng các nguồn tài chính, hiệu quả của chúng trong
GD-ĐT, nghiên cứu khoa học của ĐHQGHN.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chuơng, 7 tiết.

Chương 1
quản lý tài chính
trong giáo dục - đào tạo nói chung
và đại học công lập nói riêng

1.1. Sự nghiệp đào tạo đại học trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
1.1.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo dục - đào tạo
Dân tộc Việt Nam có truyền thống văn hóa lâu đời đó là truyền thống hiếu học,
tôn sư trọng đạo. Truyền thống hiếu học luôn được coi là giá đỡ, điểm tựa vững chắc, là cơ
sở để xây dựng nền giáo dục Việt Nam với đỉnh cao trong nửa sau thế kỷ XX. Nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam đã có một hệ thống giáo dục quốc dân hoàn chỉnh được vận
hành theo Luật Giáo dục.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nền giáo dục của dân tộc chẳng
những được coi trọng mà còn có điều kiện để phát triển không ngừng. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã dạy: "Vì lợi ích mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người ". Điều đó
khẳng định vị trí và vai trò của con người trong sự phát triển kinh tế - xã hội.
Trong các nhân tố tạo nên sự phát triển kinh tế - xã hội, "nhân tố người" giữ vị trí
trung tâm, quyết định đối với toàn bộ các hệ thống, các nhân tố khác. Con người muốn
phát triển toàn diện phải thông qua giáo dục, ngày nay, sự phát triển của con người đã trở

thành tiêu chí trong việc xếp hạng của các nước trên thế giới. Nhân tố con người được
phát triển sẽ là nguồn lực quan trọng phát huy các nguồn lực khác.
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 4 (khóa VII) năm 1993 đã ra
Nghị quyết về "Tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục - đào tạo" với bốn quan điểm:
+ Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là động lực thúc đẩy, là điều kiện
cơ bản đảm bảo việc thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ đất
nước, phải coi đầu tư cho giáo dục là hướng chính của đầu tư phát triển.

+ Mục tiêu giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài,
đào tạo những con người có kiến thức văn hóa, khoa học, có kỹ năng nghề nghiệp Mở
rộng quy mô đào tạo, đồng thời chú trọng nâng cao chất lượng hiệu quả giáo dục, gắn học
với hành, tài với đức.
+ GD-ĐT gắn với yêu cầu phát triển đất nước và phù hợp với xu thế tiến bộ của
thời đại.
+ Đa dạng hóa các hình thức đào tạo, thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục.
Định hướng mục tiêu GD-ĐT, Nghị quyết đã có sự phân biệt ba loại mục tiêu:
+ Mục tiêu phát triển tổng quát: tạo ra nền tảng dân trí chuẩn bị một thế hệ lao
động mới có trình độ cao với mũi nhọn là đội ngũ người tài.
+ Mục tiêu nhân cách: con người được đào tạo về chuyên môn, đạo đức và sức
khỏe.
+ Mục tiêu phát triển cụ thể các bậc học, trong đó có đề cập mục tiêu mở rộng
quy mô đào tạo đại học và sau đại học.
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 4 (khóa VII) đã coi giáo dục
là kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội (những năm của thập kỷ 80 trở về trước coi giáo dục chỉ
nằm trong phạm vi cách mạng tư tưởng văn hóa). GD-ĐT giữ vị trí trọng yếu đối với toàn bộ
công cuộc phát triển kinh tế - xã hội.
Chiến lược giáo dục là bộ phận trong chiến lược con người và chiến lược con
người đứng ở vị trí trung tâm toàn bộ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của phát triển kinh tế - xã hội.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã chọn GD-ĐT, khoa học - công nghệ (KH-CN) làm

khâu đột phá của thời kỳ mới, đó là chủ trương vô cùng đúng đắn, phát triển GD-ĐT phải
đi trước một bước so với phát triển kinh tế. Đầu
tư cho giáo dục là đầu tư cơ bản quan trọng như đầu tư cho phát triển kinh tế - xã hội.

Năm 1996, Đại hội lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đã quyết định "đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước". Để thực hiện thành công sự nghiệp CNH,
HĐH phải "lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững". Đảng ta đã có riêng Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) về GD-
ĐT và KH-CN. Đây là nghị quyết rất quan trọng, đề cập một cách toàn diện về lĩnh vực
GD-ĐT, Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) đã nhất quán với tư tưởng và những mục
tiêu đã nêu ở Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa VII) và Nghị quyết Đại hội VIII của
Đảng.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 (khóa VIII) của Đảng đã nêu 6 định hướng
chiến lược phát triển GD-ĐT trong thời kỳ CNH, HĐH, đó là:
+ Mục tiêu cơ bản của GD-ĐT là nhằm xây dựng con người có lý tưởng, đạo đức
trong sáng, biết giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc, có năng lực và biết
phát huy nội lực, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy sáng tạo, kỹ
năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp và có sức khỏe để phụng sự Tổ quốc Việt
Nam XHCN.
+ Tiếp tục khẳng định phải thực sự coi GD-ĐT là quốc sách hàng đầu. Muốn
thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH, phải thực sự coi GD-ĐT, KH-CN là nhân tố
quyết định tăng trưởng kinh tế - xã hội.
+ GD-ĐT là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân.
+ Phát triển GD-ĐT gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, những tiến bộ
KH-CN và củng cố quốc phòng an ninh. Đảng ta luôn coi trọng ba vấn đề cơ bản của
GD-ĐT là quy mô đào tạo, chất lượng đào tạo và hiệu quả đào tạo, thực hiện giáo dục kết
hợp với lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học, lý thuyết với thực tiễn, học đi đôi với
hành, nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội.
+ Thực hiện công bằng xã hội trong GD-ĐT. Công bằng sẽ tạo ra động lực phát
triển. Bác Hồ đã nhiều lần căn dặn: phải làm sao ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được


học hành. Cần phải tạo điều kiện cho mọi học sinh có cơ hội học tập và phát huy hết tài
năng của mình.
+ Các trường công lập phải giữ vai trò nòng cốt đi đôi với đa dạng hóa các loại
hình GD-ĐT.
Ngày 11 tháng 12 năm 1998, Chủ tịch nước Cộng hòa XHCN Việt Nam đã ký lệnh
công bố Luật Giáo dục đã được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam khóa X thông
qua ngày 2 tháng 12 năm 1998.
Lần đầu tiên trong lịch sử phát triển giáo dục - đào tạo của nước ta có Luật Giáo
dục, đây là văn bản pháp lý cao nhất điều chỉnh các hành vi liên quan đến GD-ĐT.
Điều 2 của luật đã khẳng định rõ mục tiêu chung của giáo dục là: "Đào tạo con
người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề
nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, hình thành bồi
dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc" [31].
Đề cập đến tính chất và nguyên lý giáo dục, Điều 3 Luật Giáo dục đã ghi: "Nền
giáo dục Việt Nam là nền giáo dục XHCN có tính nhân dân, dân tộc, khoa học hiện đại,
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng" và khoản 2 Điều 3
Luật Giáo dục đã nêu: "Hoạt động giáo dục phải được thực hiện theo nguyên lý học đi
đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn với thực tiễn, giáo dục
nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội" [31].
Đối với giáo dục đại học và sau đại học, Điều 35 Luật Giáo dục đã nêu lên những
mục tiêu cụ thể: "Mục tiêu của giáo dục đại học và sau đại học là đào tạo người có phẩm
chất chính trị đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành
nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khỏe, đáp ứng yêu cầu xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc" [31].

+ Đào tạo trình độ cao đẳng giúp sinh viên có kiến thức chuyên môn và kỹ năng
thực hành cơ bản về một ngành nghề, có khả năng giải quyết những vấn đề thông thường về
chuyên ngành đào tạo.

+ Đào tạo trình độ đại học giúp sinh viên nắm vững kiến thức chuyên môn và kỹ
năng thực hành về một ngành nghề, có khả năng phát hiện, giải quyết những vấn đề thuộc
chuyên ngành được đào tạo.
+ Đào tạo trình độ thạc sĩ giúp học viên nắm vững lý thuyết có trình độ cao về
thực hành, có khả năng phát hiện, giải quyết những vấn đề thuộc chuyên ngành được đào
tạo.
+ Đào tạo trình độ tiến sĩ giúp nghiên cứu sinh có trình độ cao về lý thuyết và
thực hành, có năng lực nghiên cứu độc lập, sáng tạo, giải quyết những vấn đề KH-CN và
hướng dẫn hoạt động chuyên môn.
Điều 29 Luật Giáo dục đề cập tới mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp:
Mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp là đào tạo người lao động có kiến
thức, kỹ năng ở các trình độ khác nhau, có đạo đức lương tâm nghề nghiệp, ý
thức kỷ luật, tác phong công nghiệp, có sức khoẻ nhằm tạo điều kiện cho
người lao động có khả năng tìm việc làm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế -
xã hội, củng cố quốc phòng an ninh. Giáo dục trung học nghề nghiệp nhằm
đào tạo kỹ thuật viên, nhân viên có nghiệp vụ có kiến thức và kỹ năng nghề
nghiệp ở trình độ trung cấp [31].
Những định hướng, quan điểm của Đảng và Nhà nước về GD-ĐT là tư tưởng
quan trọng chỉ đạo công tác GD-ĐT nói chung và GD-ĐT trung học nghề và đại học, sau
đại học nói riêng. Những tư tưởng đó đều nhằm mục đích phát triển nguồn nhân lực. Phát
triển nguồn nhân lực như là một động lực của sự phát triển, là thức tỉnh, tích tụ phát huy
sử dụng tiềm năng thành tựu lao động xã hội. Phát triển nguồn lực con người, trước hết là
đào tạo con người có năng lực lao động làm cho mỗi người phát triển một cách toàn diện.
Vì vậy, dạy và học ở trường cả tri thức, kỹ năng và thái độ để ra đời vừa làm việc vừa

tiếp tục học suốt đời, tiếp thu và làm chủ những thành tựu mới của khoa học, kỹ thuật và
công nghệ.
Trong Báo cáo chính trị Đại hội IX của Đảng đã có sự chuyển hướng quan trọng
về nhận thức trong phát triển giáo dục. Lần đầu tiên vấn đề phát triển GD-ĐT được coi là
một nội dung của phát triển kinh tế và đặt trong đường lối kinh tế và chiến lược phát triển

- tức là thuộc phạm trù phát triển kinh tế.
Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam đặt giáo dục - đào tạo
trong phạm trù "giải quyết tốt một số vấn đề xã hội". Báo cáo Đại hội IX đặt GD-ĐT trong
đường lối phát triển kinh tế, trước hết vì GD-ĐT có mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho xây dựng và phát triển đất nước. Trong thời đại ngày
nay, nguồn lực con người đã được coi là "tài nguyên" quan trọng, là động lực phát triển
kinh tế - xã hội và chất lượng nguồn lực này lại do GD-ĐT mang lại.
Những tư tưởng, quan điểm, định hướng của Đảng, Nhà nước về GD-ĐT nêu ở trên
là kim chỉ nam xuyên suốt quá trình chỉ đạo điều hành các hoạt động liên quan đến dạy học
của nhà trường. Các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp có vị trí rất quan
trọng của xã hội là nơi đào tạo nguồn nhân lực có tri thức và sẽ làm việc bằng tri thức. Lực
lượng lao động này không những thực thi công việc một cách chủ động sáng tạo, mà còn
có khả năng hoạch định chính sách quản lý các lĩnh vực của nền kinh tế quốc dân.
1.1.2. Những xu thế lớn trong kinh tế - xã hội tác động đến sự phát triển giáo
dục đại học ở Việt Nam
Đại hội toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định mục tiêu
của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2001 - 2010 là: đưa nước ta ra khỏi tình
trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế,
quốc phòng, an ninh; thể chế kinh tế thị trường XHCN được hình thành về cơ bản; vị thế
của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao.

Muốn đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp - tức là đạt mức độ phát triển
trung bình về kinh tế so với thế giới vào thời gian đó, phải thực hiện thành công sự
nghiệp công nghiệp hóa đất nước.
Trong chiến lược thực hiện CNH, HĐH đất nước, Đảng ta nhấn mạnh đến chiến
lược đi tắt, đón đầu nhằm khắc phục nguy cơ "tiếp tục tụt hậu xa hơn" so với với các nền
kinh tế khu vực và thế giới và cũng nhằm tận dụng thời cơ của một nước đi sau do cuộc
cách mạng KH-CN hiện đại tạo ra. Nhưng muốn thực hiện được những chiến lược này thì

việc tổ chức, điều hành nền kinh tế - xã hội phải có sự ưu tiên cần thiết, cần lựa chọn và
đầu tư trọng điểm vào những ngành mũi nhọn có thể tạo ra các "đột phá" kéo theo sự phát
triển của toàn bộ hệ thống.
Đảng ta đã giải quyết được vấn đề này khi khẳng định nguồn lực con người là
nguồn lực phát triển lớn nhất ở nước ta hiện nay và muốn đẩy nhanh sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước thì phải xem "giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc
sách hàng đầu". Phải ưu tiên đầu tư cho phát triển GD-ĐT và KH-CN để hai ngành này đi
trước một bước so với mức độ phát triển kinh tế - xã hội hiện có, để có thể đóng vai trò là
cơ sở và động lực chủ yếu, hàng đầu đối với sự phát triển của đất nước. Quan điểm và
chiến lược phát triển này có nghĩa là đến năm 2020 khi kinh tế nước ta đạt mức trung
bình thế giới thì giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ vẫn phải đi trước một bước -
đạt mức độ phát triển khá của thế giới. Đó là vấn đề thời cơ, thách thức đối với giáo dục
đại học Việt Nam xuất phát chính từ yêu cầu bên trong của nhu cầu phát triển kinh tế, xã
hội nước ta - môi trường kinh tế - xã hội của giáo dục.
Giáo dục đại học nước ta ngoài chịu sự tác động từ môi trường kinh tế, chính trị
xã hội trong nước còn chịu tác động từ bên ngoài, trong đó hiện nay nổi lên hai xu hướng
chính:
Thứ nhất, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực là một xu thế vận động chung của
thế giới hiện nay. Xu thế này có nguyên nhân khách quan là do tác động của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại, do nhu cầu phát triển của lực lượng sản xuất thế
giới Đối với giáo dục đại học nước ta, xu hướng này sẽ tạo ra một thách thức và nguy

cơ lớn là nạn "chảy máu chất xám", sự xâm nhập của văn hóa và lối sống ngoại lai, nguy
cơ thương mại hóa văn hóa và giáo dục. Đồng thời, trong thách thức trên cũng xuất hiện
những
cơ hội, vận hội mới - mở rộng hợp tác và cả sự cạnh tranh, giao lưu với các nền đại học
tiên tiến, cơ hội phát triển hợp tác quốc tế để phát triển giáo dục nước nhà.
Thứ hai, sự xuất hiện của nền kinh tế tri thức cũng là một thời cơ và thách thức
lớn đối với giáo dục đại học nước ta trong thế kỷ XXI.
Kinh tế tri thức lấy yếu tố tri thức hiện đại của khoa học, công nghệ và quản lý

làm nền tảng, là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai
trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải và nâng cao chất lượng cuộc
sống.
Vì vậy, giáo dục đại học là cơ sở, nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của kinh tế
tri thức.
Bảng 1.1: Giáo dục trong các thời đại kinh tế

Kinh tế
nông nghiệp
Kinh tế
công nghiệp
Kinh tế
trí thức
1. Thời gian
Từ khi loài người
phát minh ra nông
nghiệp đến thế kỷ
XVII (khoảng 10
ngàn năm)
Thế kỷ
XVII-XX
Từ những năm 80
của thế kỷ XX tới nay

2. Tỷ lệ đóng góp
của KH-CN cho tăng
trưởng kinh tế
< 10% > 30% > 80%
3.Đầu tư cho giáo
< 1% GDP 2-4% GDP > 6% GDP


dục
4. Tầm quan trọng
của giáo dục
Nhỏ Lớn Rất lớn
5. Trình độ học vấn
trung bình của
nguồn nhân lực xã
hội
Tỷ lệ mù chữ cao Trung học Trên trung học
6. Mục đích, mục
tiêu cơ bản của giáo
dục
Dạy chữ Dạy nghề
Dạy làm người, dạy
cách sống, cách làm
việc và cách tự học
suốt đời
7. Tỷ lệ của giáo
dục đại học so với
giáo dục phổ thông
Rất nhỏ < 1% Còn nhỏ < 3%

Khá lớn >3%
Nguồn: Báo cáo đề dẫn "Kinh tế tri thức với chiến lược phát triển của Việt Nam"
trong Kỷ yếu hội thảo khoa học " Kinh tế tri thức và những vấn đề đặt ra đối với Việt Nam"
do Ban Khoa giáo Trung ương - Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường - Bộ Ngoại giao
tổ chức tại Hà Nội, tháng 6 - 2000.
Như vậy, kinh tế tri thức xuất hiện đồng thời với thời kỳ phát triển
cao của giáo dục đại học. Một đặc điểm cơ bản của nền kinh tế tri thức là nguồn nhân lực

và chủ thể của nguồn kinh tế tri thức phải là những người có khả năng học hỏi để sản
xuất, quan trọng nhất là phải biết vận dụng các tri thức, thông tin vào sản xuất làm ra giá
trị và đóng góp cho sự phát triển của
xã hội.
Xu thế toàn cầu hóa cũng là xu hướng vận động và là một đặc điểm của nền kinh
tế tri thức. Tri thức có đặc điểm là giá trị của nó tỷ lệ thuận với số người sử dụng; tri thức

càng có giá trị thì số người muốn tìm kiếm chia sẻ càng nhiều và ngược lại. Bởi vậy,
những tri thức có giá trị đóng góp tích cực vào sự tiến bộ xã hội thì không thể chỉ giới
hạn trong phạm vi một tổ chức hay quốc gia; nó có nhu cầu tự thân là cần được chia sẻ,
giao lưu với tổ chức khác, quốc gia khác.
Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực mở ra cho nước ta cơ hội có thể đi tắt đón
đầu, mặc dù rất khó khăn với nhiều thách thức, rút ngắn khoảng cách với các nền kinh tế
tiên tiến.
Trong bối cảnh xã hội như vậy thì sứ mệnh của giáo dục đại học phải đào tạo ra
nguồn nhân lực của kinh tế tri thức - những người không chỉ có trình độ văn hóa và
chuyên môn kỹ thuật cao mà còn có khả năng tự học để làm những công việc mới đòi hỏi
nhiều hàm lượng trí tuệ, lao động trí lực là chủ yếu nhưng cũng tạo ra nhiều giá trị gia
tăng nhất.
Tỷ lệ sinh viên trên số dân của một nước phản ánh mức độ thâm nhập của kinh tế
tri thức trong nền kinh tế quốc gia. Những nước đã chuyển sang kinh tế tri thức thường
có trên 70% lực lượng lao động thuộc khu vực dịch vụ và số sinh viên là trên
3.000/100.000 dân (3%), ví dụ ở Mỹ: 5.559/100.000 (5,5%). Canađa: 5.084/100.000
(5%), trong khi đó ở Việt Nam mới khoảng 1.000/100.000 (1%). Mặc dù tỷ lệ sinh viên
trên số dân còn rất thấp nhưng ở nước ta đã có tình trạng "dư thừa cử nhân, kỹ sư" một
cách giả tạo vì nền kinh tế chậm phát triển, chính sách giải quyết việc làm kém hiệu quả;
mặt khác chất lượng giáo dục đại học còn nhều điều bất cập. Nhưng nếu căn cứ vào tình
hình khó khăn hiện nay mà quyết định thu hẹp quy mô giáo dục đại học thì nước ta sẽ
không có đủ điều kiện về nguồn nhân lực để hội nhập quốc tế và tham gia vào nền kinh tế
tri thức và như vậy, lại một lần nữa bỏ lỡ cơ hội thực hiện CNH, HĐH đất nước. Bài toán

lớn đặt ra với giáo dục đại học nước ta hiện nay là phải tăng cường chất lượng đào tạo lên
ngang tầm chất lượng của khu vực và thế giới trong khi không phải giảm bớt quy mô đào
tạo.
Điều kiện cơ bản để giải quyết thách thức này là giáo dục đại học phải có một
nguồn nhân lực có chất lượng cao, số lượng đảm bảo, có đủ năng lực và điều kiện tham

gia vào kinh tế tri thức và là lực lượng mở đường cho việc xây dựng nền kinh tế tri thức
của Việt Nam. Đó chính là nội dung cơ bản của mục tiêu phát triển nguồn nhân lực của
giáo dục đại học nước ta.
1.2. Quản lý tài chính trong giáo dục đại học công lập
1.2.1. Nguồn tài chính phục vụ giáo dục đại học công lập
Theo Từ điển tiếng Việt (1995): Tài chính là tiền nong và thu chi, quản lý tài
chính là việc quản lý của cải vật chất xã hội bằng tiền theo những mục đích nhất định. Tài
chính ra đời và phát triển gắn với sự ra đời và phát triển của Nhà nước. Trong điều kiện
chuyển sang nền kinh tế thị trường, cần có giải pháp nhằm khai thác và sử dụng có hiệu
quả các nguồn tài chính cho phát triển kinh tế nói chung và cho sự nghiệp GD-ĐT nói
riêng.
Nguồn tài chính đầu tư cho sự nghiệp đào tạo là đầu tư cơ bản, đầu tư cho sự
phát triển hoàn chỉnh của con người - động lực trực tiếp của sự phát triển kinh tế - xã hội.
Garey Becker, nhà kinh tế học Hoa Kỳ đã khẳng định "không có đầu tư nào mang lại
nguồn lợi lớn như đầu tư vào nguồn nhân lực".
Đầu tư cho đào tạo là đầu tư "lợi ích tương lai", hiệu quả không thấy ngay được,
lợi ích của việc đầu tư cho sự nghiệp đào tạo có tác dụng như đầu tư cho phương tiện sản
xuất - một loại phương tiện sản xuất tạo ra sản phẩm có tính chất vô hình, sản phẩm đó
không thuộc loại tiêu dùng mà thuộc loại "tạo tiềm năng". Hiệu quả của việc đầu tư cho
sự nghiệp đào tạo được phát huy trên phạm vi toàn xã hội, đồng thời được xác định đầy
đủ khi những sản phẩm của đào tạo đi vào cuộc sống và thực sự thúc đẩy sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nước. Có thể thấy quan hệ nhân quả giữa đầu tư và phát triển sự
nghiệp đào tạo (minh họa trên sơ đồ số 1.1)
Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa đầu tư và phát triển sự nghiệp đào tạo


Đầu tư cho sự nghiệp
đào t
ạo








Tài chính phục vụ GD-ĐT đại học công lập hiện chủ yếu từ hai nguồn: ngân sách
nhà nước (NSNN) cấp và nguồn ngoài ngân sách nhà nước; trong đó nguồn NSNN có vai
trò quan trọng nhất.
Sơ đồ 2.2: Nguồn tài chính cho giáo dục - đào tạo






* Nguồn NSNN là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã
được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong 1 năm để đảm
bảo thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.
NSNN, với tư cách là một loại quĩ tiền tệ của Nhà nước có vị trí cực kỳ quan
trọng. Nội dung cơ bản của nó là:
Nguồn tài chính
cho giáo dục -
Nguồn NSNN

Nguồn ngoài
NSNN

Tăng trư
ởng kinh
tế
và ti
ến bộ xã hội
Phát triển đào
t
ạo

Đào tạo nhân lực
và bồi dưỡng nhân
tài

S
ự nghiệp
GDĐT-KHCN

XDCB CTMT
Đóng góp

TC
-
KTXH

Hoạt đ
ộng
NCKH

-
LĐSX

Tài trợ
Đa dạng
hóa loại
hình
ĐT


- NSNN phân phối các nguồn tài chính, thể hiện mối quan hệ về lợi ích kinh tế
giữa Nhà nước và xã hội.
- Quyền lực về NSNN thuộc về Nhà nước. Mọi khoản thu và chi tài chính của
Nhà nước đều do Nhà nước quyết định nhằm thực hiện chức năng của Nhà nước. Bản chất
của NSNN là hệ thống các mối quan hệ tiền tệ giữa Nhà nước và các chủ thể trong xã hội
phát sinh trong quá trình Nhà nước huy động và sử dụng các nguồn tài chính nhằm thực
hiện các chức năng quản lý và điều hành kinh tế, xã hội của mình. Trong đó có các khoản
chi cho bộ máy quản lý của Nhà nước, chi cho GD-ĐT, y tế tất cả các nhu cầu chi tiêu
tài chính của Nhà nước đều được đảm bảo từ thuế và các hình thức thu khác vào ngân
sách.
Trong nền kinh tế thị trường, NSNN không chỉ đơn thuần là quĩ tiền tệ tập trung
để thỏa mãn nhu cầu chi tiêu của Nhà nước, mà thực sự trở thành công cụ điều tiết vĩ mô
quan trọng của Nhà nước trong quản lý kinh tế.
Trong tất cả các nguồn tài chính đầu tư cho sự nghiệp đào tạo thì nguồn NSNN
giữ vai trò chủ đạo và quan trọng nhất có tính quyết định đối với việc hình thành, mở
rộng và phát triển sự nghiệp GD-ĐT, biểu hiện:
- Chi cho phát triển văn hóa - xã hội trong đó có sự nghiệp GD-ĐT là những nội
dung cơ bản của chi NSNN. Điều 89 Luật Giáo dục nêu rõ: "Nhà nước dành ưu tiên hàng
đầu cho việc bố trí ngân sách giáo dục, đảm bảo tỷ lệ ngân sách Nhà nước chi cho giáo
dục tăng dần theo yêu cầu phát triển của sự nghiệp giáo dục" [31, tr. 59]. Hiện nay,

nguồn đầu tư của NSNN vẫn chiếm ưu thế trong tổng chi cho sự nghiệp đào tạo do hệ
thống trường công còn chiếm tỷ lệ lớn, các trường bán công, dân lập chưa nhiều, việc xã
hội hóa sự nghiệp GD-ĐT, đa dạng hóa các loại hình trường, lớp chưa phổ biến, chưa có
khả năng thu hút nguồn đầu tư khác cho sự nghiệp đào tạo.
- Đầu tư NSNN cho xây dựng cơ sở vật chất, tài liệu phục vụ giảng dạy, học tập,
nghiên cứu nhằm tăng số lượng, từng bước nâng cao chất lượng đào tạo.

- NSNN đảm bảo ổn định đời sống đội ngũ cán bộ giảng dạy, phục vụ giảng dạy
thông qua thang, bậc lương, ngoài ra còn hưởng phụ cấp ưu đãi trong ngành giáo dục với
mức 30% cho cán bộ trực tiếp giảng dạy; 50% đối với giáo viên các trường sư phạm.
- NSNN đảm bảo học bổng cho học sinh, sinh viên, ưu tiên đối với diện chính
sách, đảm bảo kinh phí cho đào tạo cán bộ giảng dạy và quản lý.
- NSNN có vai trò điều phối cơ cấu của mỗi trường cũng như toàn bộ hệ thống
thông qua định mức chi ngân sách hàng năm giúp cho việc định hướng, sắp xếp cơ cấu
mạng lưới các trường trong hệ thống giáo dục quốc dân, tập trung ngân sách cho mục
tiêu, chương trình quốc gia như: xây dựng trung tâm đào tạo chất lượng cao tại Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh.
* Nguồn ngoài ngân sách Nhà nước: bao gồm sự đóng góp của các tổ chức kinh
tế - xã hội, vốn của nhà trường do hoạt động nghiên cứu khoa học và lao động sản xuất
tạo ra, vốn do nguồn tài trợ của nước ngoài, vốn do sự đóng góp của các tổ chức, cá
nhân, Nguồn ngoài ngân sách có vai trò của nó thông qua:
Thứ nhất, tăng đầu tư nâng cấp cơ sở đào tạo, cải thiện đời sống cán bộ giảng
dạy, sinh viên nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập.
Thứ hai, khai thác tiềm năng các thành phần, tổ chức kinh tế đóng góp kinh phí
cho sự nghiệp đào tạo khi NSNN còn hạn hẹp.
Thứ ba, phát huy tính năng động trong việc huy động các nguồn tài chính đầu tư
cho sự nghiệp đào tạo.
1.2.2. Quản lý tài chính trong các trường đại học công lập
Quản lý bao giờ cũng là quá trình hoạt động có mục tiêu đòi hỏi những tác động
tương ứng, phù hợp để hướng dẫn và điều khiển những đối tượng quản lý. Quản lý tồn tại

với tư cách là một hệ thống, trong quản lý bao giờ cũng có những thành phần được liên
kết với nhau trong một cấu trúc nào đó.
Quản lý tài chính phục vụ đào tạo bao gồm những nội dung sau:

* Lập kế hoạch về tài chính: dựa vào qui mô đào tạo phù hợp với yêu cầu phát
triển sự nghiệp giáo dục, số liệu biên chế, số học sinh - sinh viên, cơ sở vật chất, xây
dựng kế hoạch tài chính, bao gồm chi tiêu thường xuyên, quản lý hành chính, mua sắm,
sửa chữa, nghiệp vụ chuyên môn, xây dựng cơ bản,
* Điều hành thực hiện: Cấp phát kinh phí và thực hiện các khoản chi tiêu kịp thời
theo kế hoạch đảm bảo hoạt động thường xuyên của đơn vị. Giám sát việc chi tiêu cho
các bộ phận đúng chế độ, đúng mục đích và có hiệu quả.
* Quyết toán kinh phí: Khâu cuối cùng của quá trình sử dụng kinh phí, phản ánh
đầy đủ các khoản chi vào báo cáo quyết toán ngân sách đúng chế độ báo cáo về biểu
mẫu, thời gian, nội dung và các khoản chi tiêu. Trên cơ sở báo cáo quyết toán, phân tích
đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch chi tiêu cho công tác đào tạo rút ra ưu nhược trong
quá trình quản lý làm cơ sở lập kế hoạch năm sau sát hơn.
* Kiểm tra: việc thực hiện kế hoạch không phải bao giờ cũng đúng
như dự kiến, đòi hỏi phải có sự kiểm tra thường xuyên để nắm tình hình quản lý tài
chính.
Việc cấp phát ngân sách nằm trong chức năng điều hành thực hiện. Hiện nay,
đang thực hiện theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 1.3: Điều hành thực hiện thu - chi ngân sách







Chính phủ

Bộ KH - ĐT
Bộ Tài
chính

Các bộ
ngành liên
Kho bạc
nhà nước
Kho bạc
tỉnh,
Kho bạc
Quận,
Các đơn vị

đào tạo


ở Việt Nam, việc cấp phát tài chính cho các trường đại học "dựa trên cơ sở đầu
vào chủ yếu dựa trên số lượng sinh viên và chi phí của đơn vị do đó không khuyến khích
các trường giảm chi phí nâng cao chất lượng. Kinh nghiệm như ở Hà Lan, Ôxtraylia gắn việc
cung cấp tài chính dựa trên cơ sở đầu ra, thông qua số lượng sinh viên tốt nghiệp đại học
hoặc đã đào tạo ra. Đại lượng này cho thấy rõ hơn kết quả giáo dục (do số lượng sinh
viên bỏ học và lưu ban). Có thể thấy được điểm yếu của qui trình phân bổ tài chính cho
các trường đại học ở Việt Nam là:
- Thiếu tiêu chí rõ ràng, công khai trong qui trình phân bổ tài chính.
- Cấp kinh phí dựa vào các chuẩn định mức thô sơ, thiếu tổng hợp và chưa đề cập
đầy đủ các nguồn tài chính khác. Chưa chú ý đầy đủ đến nhu cầu cụ thể của các trường
đại học, những chính sách ưu tiên của Chính phủ; cơ cấu chi phí khác nhau của các bậc
đào tạo, lĩnh vực và loại hình đào tạo.
- Chi tiêu NSNN, chỉ nhấn mạnh đầu vào, ít chú ý tới mục tiêu cuối cùng là là

sản phẩm sinh viên tốt nghiệp.
- Thiếu cơ chế khuyến khích các trường đào tạo nâng cao chất lượng và hiệu quả
trong việc thực hiện nhiệm vụ.
Trong nguồn NSNN, việc chi thường xuyên phục vụ đào tạo đại học bao gồm 4
nhóm chi:
* Chi cho con người (nhóm I): lương, phụ cấp lương, phúc lợi, bảo hiểm xã hội.
Đây là khoản chi bù đắp hao phí lao động, đảm bảo duy trì quá trình tái sản xuất sức lao
động cho giảng viên, cán bộ công nhân viên của các đơn vị. Khoản chi này theo kế hoạch
chiếm khoảng 38 - 43%, thực tế chi hàng năm thường cao hơn kế hoạch nhưng vẫn chưa
đảm bảo cuộc sống cho cán bộ công nhân viên.
* Chi quản lý hành chính (nhóm II): công tác phí, công vụ phí (điện, nước, xăng
xe, hội nghị ), đây là khoản chi mang tính gián tiếp đòi hỏi phải chi đúng, chi đủ, chi kịp

thời và cần phải quản lý tiết kiệm và có hiệu quả, khoản chi này thường chiếm khoảng
22%/ tổng chi thường xuyên.
* Chi giảng dạy, học tập (nhóm III): bao gồm việc mua tài liệu, sách giáo khoa,
giáo trình, đồ dùng học tập, vật liệu hoá chất thí nghiệm, phấn viết Đây là khoản chi nhằm
đáp ứng phương tiện phục vụ cho giảng dạy, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo.
Khoản chi này thường chiếm 13 - 14% tổng chi ngân sách.
* Chi mua sắm, sửa chữa (nhóm IV): chi sửa chữa, nâng cấp trường, lớp, bàn
ghế, trang thiết bị cho lớp học đảm bảo cơ sở vật chất phục vụ cho việc giảng dạy và học
tập. Khoản chi này cần được ưu tiên do tình trạng xuống cấp nghiêm trọng trang thiết bị,
đồ dùng dạy học nên chất lượng dạy học chưa được đảm bảo.
ở mỗi giai đoạn khác nhau mức độ, nội dung, cơ cấu chi NSNN cho sự nghiệp
đào tạo có sự khác nhau.
Có thể mô tả hoạt động tài chính của các trường đào tạo công lập theo mô hình
sau:
Sơ đồ 1.4: Mô hình tài chính các trường đào tạo công lập ở Việt Nam

Đầu vào Đầu ra

nguồn lực tài chính (mục tiêu kế hoạch đào tạo)



NSNN trung ương Học sinh tốt nghiệp
các hệ



Trường đào tạo
công lập


Đào tạo
(chính quy
mở rộng,
hợp đồng )







Hoạt động
ngoài đào tạo:
(nghiên cứu,
sản xuất,
dịch vụ)
Ngân sách đ

ịa
phương

Học phí

Đóng góp c
ộng
đ
ồn
g

Tài trợ nư
ớc
ngoài

Công trình khoa
h
ọc

sản phẩm dịch vụ






Trong các nguồn tài chính, như đã trình bày ở trên ta thấy nguồn NSNN trung ương
có vai trò chủ yếu và quyết định đến sự tồn tại và phát triển của các trường đào tạo công lập.
Quản lý tài chính đối với các trường mặc dù có nhiều nguồn khác nhau nhưng đều theo
những quy định thống nhất của nhà nước.

Hiện nay cơ chế quản lý tài chính của các trường đào tạo đại học công lập đang
trong quá trình hoàn thiện nhưng về cơ bản bao gồm:
Xét về quan hệ quản lý ta thấy cơ chế quản lý tài chính có hai bộ phận: bộ phận
thứ nhất là quan hệ tài chính giữa Nhà nước (đại diện là các cơ quan chức năng của nhà
nước như Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Giáo dục và Đào tạo) và cơ sở đào
tạo. Đây chính là quan hệ chủ yếu nhất của cơ chế tài chính đối với các cơ sở đào tạo
công lập, bởi vì thông qua cơ chế này mà nguồn kinh phí NSNN chi cho đào tạo được lập
kế hoạch, phân bổ, thực hiện chi tiêu và kiểm soát. Bộ phận thứ hai của cơ chế quản lý tài
chính là các chế độ quản lý do bản thân các cơ sở đào tạo thực hiện theo các quy định
hiện hành. Các chế độ này một mặt phải tuân theo các quy định của Nhà nước, mặt khác
các cơ sở đào tạo có quyền tự định một số chế độ riêng trong khuôn khổ định mức,
hướng dẫn của các cơ quan quản lý nhà nước.
Nguồn lực tài chính phải được kế hoạch hoá căn cứ vào kế hoạch đào tạo của các
trường. Nguyên tắc kế hoạch hoá tài chính trong điều kiện hiện nay là vừa dựa trên nguồn
lực tài chính NSNN vừa huy động các nguồn lực xã hội khác. Mặc dù các nguồn lực tài
chính có thể huy động từ các kênh khác nhau nhưng đều phải đưa vào một kế hoạch tài
chính thống nhất và quản lý tập trung theo chế độ. Quy trình lập kế hoạch tài chính cũng
phải theo quy trình kế hoạch hoá nói chung. Điểm khác trong điều kiện cơ chế thị trường

hiện nay là trong kế hoạch tài chính phải phản ánh hết các nguồn thu vào trong một kế
hoạch thống nhất.
Các nguồn thu ngoài NSNN của các trường đào tạo công lập gồm:
- Học phí (theo mức quy định của Nhà nước).
- Lệ phí tuyển sinh.
- Thu kết quả hoạt động sản xuất và ứng dụng nghiên cứu KH-CN.
- Thu hợp đồng giảng dạy nghiệp vụ chuyên môn.
- Các khoản thu khác như cho thuê tài sản
- Thu tài trợ từ xã hội.
- Thu tài trợ nước ngoài.
Hoạt động chi tiêu trong trường đào tạo được chia thành hai loại, đó là chi

thường xuyên và chi đầu tư phát triển. Những khoản chi mang tính chất tiêu dùng thường
xuyên được Nhà nước ban hành thành một hệ thống các tiêu chuẩn định mức chi tổng
hợp được sắp xếp theo các loại như: chi cho con người (chi thanh toán cá nhân), chi về
hàng hoá dịch vụ nghiệp vụ, các khoản chi khác. Loại chi đầu tư phát triển bao gồm: chi
đầu tư mua sắm tài sản vô hình, hữu hình, chi đầu tư XDCB.
Các mức chi có hai loại: định mức tổng hợp và định mức chi tiết. Các chế độ
định mức mang tính chất tổng hợp gồm các định mức chi bình quân theo chỉ tiêu tuyển
sinh của các trường cao đẳng, đại học và THCN, các khoản chi tổng hợp này được định
mức theo từng khối trường.
Mức chi ngân sách về đào tạo hiện tại vẫn áp dụng Thông tư số
38 TC/NSNN ngày 18/7/1996 của Bộ Tài chính.
Loại chế độ chi tiết, chuyên biệt bao gồm các khoản chi cho con người:
+ Các khoản chi về tiền lương, tiền công như lương ngạch bậc, lương tập sự,
lương hợp đồng dài hạn, phát sinh thường xuyên ở các trường đào tạo, được duyệt theo
tổng quỹ lương hàng năm. Căn cứ để tính các khoản chi này là hệ số lương theo thang

bảng lương hiện hành, mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định, biên chế công chức
giảng viên được cấp có thẩm quyền xét duyệt.
+ Các khoản phụ cấp lương như: phụ cấp chức vụ, phụ cấp trách nhiệm, phụ cấp
đặc biệt của ngành, phụ cấp làm đêm, làm thêm giờ Đối với những khoản chi này Nhà
nước có quy định cụ thể cho từng loại phụ cấp và được tính trên cơ sở mức lương tối
thiểu.
Về khoản chi này hiện nay đang áp dụng: chế độ phụ cấp ưu đãi
giáo viên cho các trường đào tạo công lập của Nhà nước theo quyết định số
973/1997/QĐ-TTg ngày 17/1/1997 của Thủ tướng Chính phủ, Thông tư hướng dẫn liên
bộ số 147/1998 ngày 05/3/1998 thực hiện quyết định trên.
+ Chi học bổng, sinh hoạt phí học sinh, sinh viên ở các trường đào tạo: khoản chi này
theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ về học bổng và trợ cấp xã hội đối với học sinh,
sinh viên của các trường đào tạo công lập số 1121/QĐ-TTg ngày 23/12/1997; Thông tư hướng
dẫn số 53/1998/TTLT /BGD&ĐT-BTC-BLĐ-TB&XH ngày 25/8/1998 và Thông tư số

09/2000/TT-LT/BGD&ĐT-BTC-BLĐTB&XH ngày 11/4/2000.
+ Chi tiền thưởng, phúc lợi xã hội và các khoản đóng góp ngân sách chi cho cán
bộ giảng dạy và các cán bộ quản lý phục vụ: khoản chi này thực hiện theo Nghị định
56/CP ngày 30/7/1998 của Chính phủ quy định các hình thức, đối tượng và tiêu chuẩn
khen thưởng của Chính phủ; Thông tư hướng dẫn công tác quản lý tài chính thực hiện
chế độ khen thưởng thành tích xuất sắc thực hiện nhiệm vụ kinh tế-xã hội và bảo vệ Tổ
quốc số 24/TT-BTC ngày 04/3/1999; Nghị định số 58 ngày 13/8/1998 của Chính phủ ban
hành Điều lệ bảo hiểm y tế; Thông tư liên tịch số 15/TTLT-BYT-BTC-BLĐTBXH ngày
15/12/1998 hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế bắt buộc theo Nghị định 58; Thông tư liên
tịch bổ sung số 04/TTLT-BYT-BTC-BLĐTBXH ngày 15/3/1999 bổ sung Thông tư liên
tịch số 15.
- Chi về hàng hoá dịch vụ, nghiệp vụ: khoản chi này thực hiện theo Thông tư số
93/1998 TT-BTC ngày 30/6/1998 "Quy định chế độ chi tiêu hội nghị"; Thông tư số
94/1998 TT-BTC ngày 14/7/1998 quy định trang bị, quản lý và sử dụng phương tiện

thông tin điện thoại, Fax trong các cơ quan, đơn vị nhà nước; Thông tư 71/TC/HCSN
ngày 30/9/1995 quy định chế độ trang bị điện thoại tại nhà riêng cho cán bộ làm việc
trong cơ quan nhà nước; Quyết định số 874/TTg ngày 20/11/1997 của Thủ tướng Chính
phủ về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công chức nhà nước; Thông tư liên tịch số
79/TTLT ngày 19/9/1997 hướng dẫn thực hiện Quyết định số 874/TTg ngày 20/11/1997
của Thủ tướng Chính phủ về công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức nhà nước;
Thông tư 150/TT-BTC ngày 19/11/1998 của Bộ Tài chính hướng dẫn quản lý, sử dụng
kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công chức nhà nước.
- Loại chế độ thuộc nguồn kinh phí khác:
Ngoài nguồn kinh phí cấp từ NSNN, các trường đào tạo được sử dụng nguồn thu
sự nghiệp để bổ sung thêm cho nguồn kinh phí hoạt động của mình. Vì vậy, Nhà nước
ban hành các quy định, chế độ thu - chi và quản lý tài chính phù hợp với đặc điểm riêng
từng loại hình đơn vị đào tạo có thu như: Quyết định số 70/QĐ-TTg ngày 31/3/1998 của
Thủ tướng Chính phủ về việc thu và sử dụng học phí ở các cơ sở giáo dục và đào tạo
công lập ở các thuộc hệ thống giáo dục quốc dân; Thông tư liên tịch số 54 ngày

31/8/1998 của Bộ Giáo dục Đào tạo - Bộ Tài chính hướng dẫn thu và sử dụng học phí
theo Quyết định 70 của Chính phủ; Thông tư liên tịch số 66/TTLT Bộ Giáo dục và Đào
tạo - Bộ Tài chính ngày 26/12/1998 hướng dẫn thực hiện miễn thu học phí đối với học
sinh, sinh viên ngành sư phạm và hỗ trợ ngân sách cho ngành sư phạm; Quyết định
68/QĐ-TTG ngày 27/3/1998 của Chính phủ về việc cho phép thí điểm thành lập doanh
nghiệp nhà nước trong các cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu; Thông tư 73/TT- BTC ngày
27/5/1998 của Bộ Tài chính hướng dẫn chế độ quản lý tài chính đối với các doanh nghiệp
nhà nước trong các cơ sở đào tạo, cơ sở nghiên cứu.
- Chi đầu tư phát triển: chi đầu tư phát triển thực hiện theo các văn bản: Quyết
định số 351/TC-QĐ/CĐKT ngày 22/5/1997 của Bộ trưởng Bộ Tài chính về việc ban hành
chế độ quản lý, sử dụng, tính hao mòn tài sản cố định trong các đơn vị HCSN; Văn bản
3705TC/QLCS ngày 13/10/1997 hướng dẫn quy chế xử lý tài sản không cần dùng và
không còn sử dụng được trong các cơ quan HCSN; Quyết định 20/QĐ- BTC ngày

×