Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

LUẬN VĂN:Nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (14.58 MB, 94 trang )










LUẬN VĂN:

Nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở
tỉnh Bắc Ninh


















Mở đầu



1. Tính cấp thiết của đề tài
Bắc Ninh là một tỉnh nhỏ thuộc đồng bằng Bắc bộ, được tách ra từ tỉnh Hà Bắc
cũ với diện tích tự nhiên: 803,9 km
2
, dân số: 998.300 người.
Sau những năm tái lập tỉnh, Bắc Ninh cùng với cả nước bước vào quá trình đẩy
nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ năm 2000 đến nay, kinh tế tăng trưởng với nhịp
độ cao, tương đối toàn diện, cơ cấu chuyển dịch nhanh theo hướng tích cực trong từng khu
vực, từng địa phương và các thành phần kinh tế. Tổng sản phẩm nội địa (GDP) tăng bình
quân hàng năm 13,9%, tỷ trọng GDP của khu vực công nghiệp xây dựng tăng nhanh từ
25,6% năm 2000 lên 47,2% năm 2005, khu vực nông - lâm - thủy sản giảm từ 38% xuống
còn 25% năm 2005. Tuy nhiên, Bắc Ninh vẫn còn mang nặng dấu ấn của một tỉnh nông
nghiệp, lao động nông nghiệp ở nông thôn Bắc Ninh hiện nay vẫn đang chiếm 82,71%
lao động xã hội và một trong những thách thức lớn nhất trong khu vực này là tình trạng
thất nghiệp, thiếu việc làm của người lao động đang có xu hướng gia tăng. Điều đó, trong
chừng mực nhất định đang cản trở bước tiến của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp nông thôn của tỉnh. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lần thứ 17
(nhiệm kỳ 2006 - 2010) đã chỉ rõ: "Đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông
nghiệp và nông thôn, tiếp tục đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu và nâng cao hiệu quả sản
xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, đổi mới quan hệ sản xuất, phát huy mạnh mẽ các
nguồn lực đầu tư phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới" [53].
Để thực hiện chủ trương trên, một trong những vấn đề quan trọng là phát triển và
sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, đặc biệt là nguồn nhân lực - nhân tố quan trọng nhất
cho sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn Bắc Ninh nói riêng. Với những lý do đó, tác giả chọn vấn đề "Nguồn nhân lực
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc

Ninh" làm đề tài luận văn thạc sĩ kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị.



2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đã có nhiều công
trình khoa học, nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu cả về mặt lý luận và thực tiễn. Kết quả
nghiên cứu của các công trình này là:
+ Làm rõ quan niệm, nội dung và biện pháp để công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn.
+ Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở các vùng
khác nhau trong nước.
+ Vấn đề sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn ở nước ta nói chung.
Các công trình tiêu biểu mà tác giả được biết:
- Nguyễn Văn Bích: "Đổi mới và phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa" Nxb Nông nghiệp, Hà Nội, 1996.
- Tiến sĩ Lê Mạnh Hùng (chủ biên): "Thực trạng công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn Việt Nam", Nxb Thống kê, Hà Nội, 1998.
- GS.TS Nguyễn Đình Phan, GS.TS Trần Minh Đạo và TS Nguyễn Văn Phúc
(đồng chủ biên): "Những biện pháp chủ yếu thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng" Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
Vấn đề con người - nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nói chung
và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nói riêng đã có nhiều tác giả
nghiên cứu ở các góc độ khác nhau. Một số công trình, tác phẩm nghiên cứu mà tác giả
được biết đó là:
- Nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Luận án Tiến sĩ của Trần
Kim Hải.
- Vai trò Nhà nước trong tạo tiền đề nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Quý Tình.



- Đề án chiến lược về lao động và phát triển nguồn nhân lực nông nghiệp và
nông thôn thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa (1999 - 2020) của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn, 1999.
- Chương trình khoa học cấp nhà nước KX 04-04(1995): "Luận cứ khoa học cho
giải quyết việc làm ở nước ta khi chuyển sang nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần".
- PGS.TS Nguyễn Sinh Cúc "Vấn đề giải quyết việc làm và dạy nghề cho nông
dân", Tạp chí Con số và Sự kiện, 8/1999.
- Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Thành phố Hồ Chí Minh,
Luận văn thạc sĩ kinh tế của Trần Kim Long, 2005.
- TS Nguyễn Hữu Dũng và Trần Hữu Trung (chủ biên): "Về chính sách giải
quyết việc làm ở Việt Nam" Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
Các công trình trên được các tác giả nghiên cứu ở tầm vĩ mô trong phạm vi cả
nước hoặc từng vùng tiêu biểu. Tuy nhiên, một đề tài riêng về nguồn nhân lực cho công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Ninh thì còn ít tác giả nghiên
cứu một cách tổng thể dưới góc độ kinh tế chính trị. Vì vậy, đề tài luận văn này là cần
thiết và có ý nghĩa lý luận - thực tiễn đối với tỉnh Bắc Ninh.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục tiêu:
Phân tích và đánh giá thực trạng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Ninh và đề xuất các giải pháp chủ yếu
nhằm phát triển và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, thúc đẩy nhanh quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh.
* Nhiệm vụ:
Để thực hiện mục tiêu trên luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa lý luận cơ bản về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn; về nguồn nhân lực, vai trò của nguồn nhân lực đối với quá trình công nghiệp



hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn và yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn đối với nguồn nhân lực.
- Đánh giá thực trạng về nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Bắc Ninh.
- Trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp phát triển và sử dụng nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
* Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài luận văn thuộc chuyên ngành kinh tế chính trị, nên việc nghiên cứu đối
tượng này được tiến hành dưới góc độ:
+ Coi nguồn nhân lực là một trong số các nguồn lực sản xuất. Sử dụng nguồn
nhân lực được xem xét và phân tích trong mối quan hệ ràng buộc với các yếu tố khác
trong quá trình sản xuất, đó là: Đất đai, vốn, tài nguyên, thị trường, công nghệ và các
nguồn lực khác trong nông nghiệp, nông thôn.
+ Xem xét mối quan hệ tương tác giữa quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
với vấn đề sử dụng lao động và tạo việc làm cho người lao động.
+ Mốc thời gian để lấy số liệu, tư liệu minh họa chủ yếu từ năm 2000 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí
Minh; đường lối, quan điểm, những tổng kết kinh nghiệm của Đảng và chính sách, pháp
luật của Nhà nước; kế thừa có chọn lọc các công trình nghiên cứu khoa học có nội dung
gần gũi với đề tài.
- Về phương pháp nghiên cứu: vận dụng phương pháp chung của kinh tế chính trị


như: phương pháp trừu tượng hóa khoa học, kết hợp lôgíc với lịch sử, kết hợp lý luận với
thực tiễn; đồng thời khảo sát thực tế, phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa vấn đề,
rút ra kết luận.

6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc lãnh đạo, hoạch định chính sách,
chỉ đạo thực tiễn, góp phần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn tỉnh Bắc Ninh, đồng thời có thể dùng làm tài liệu tham khảo, phục vụ
công tác giảng dạy ở Trường Chính trị tỉnh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương, 8 tiết.



Chương 1
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn và nguồn nhân lực trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn nước ta

1.1. Bản chất và nội dung Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn
1.1.1. Quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn
Sự nghiệp công nghiệp hóa đất nước đã được Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ
Đại hội lần thứ III (năm 1960). Đến Đại hội lần thứ VII và VIII, Đảng ta nhấn mạnh thêm
nội dung hiện đại hóa và coi công nghiệp hóa, hiện đại hóa là con đường tất yếu của sự
nghiệp đổi mới, đưa nước ta từ một nước nông nghiệp là chủ yếu thành một nước công
nghiệp. Đó cũng là con đường cơ bản để thực hiện mục tiêu: "Dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ và văn minh". Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX Đảng Cộng
sản Việt Nam tháng 4/2001 tiếp tục khẳng định công nghiệp hóa, hiện đại hóa vẫn là nội
dung cơ bản của quá trình phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam.
Sau 20 năm đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta đã bước
vào giai đoạn phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển
kinh tế tri thức. Đây là sự tiếp nối đường lối và chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa

xã hội năm 1991 của Đảng. Chỉ có đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức mới có thể đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền
tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản đã trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại. Tuy vậy, trong những năm đầu thế kỷ XXI, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước
ta trước hết và chủ yếu là công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn là vấn đề rộng lớn và
phức tạp, vì thế cho đến nay vẫn còn có những quan niệm ít nhiều chưa thống nhất.


* Một số nhà nghiên cứu cho rằng, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và
nông thôn là vấn đề khoa học bao gồm 4 nội dung khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết
với nhau. Đó là: Công nghiệp hóa nông nghiệp; công nghiệp hóa nông thôn; hiện đại hóa
nông nghiệp; hiện đại hóa nông thôn.
Công nghiệp hóa nông nghiệp, theo tác giá Chu Hữu Quý và Nguyễn Kế Tuấn là:
Quá trình chuyển biến từ nền nông nghiệp sản xuất nhỏ, lạc hậu, phân
tán sang nền nông nghiệp sản xuất lớn với trình độ chuyên canh và thâm canh
cao, tiến hành sản xuất và quản lý sản xuất - kinh doanh với trình độ trang bị
công nghiệp và công nghệ tiên tiến, áp dụng rộng rãi thủy lợi hóa, cơ khí hóa,
hóa học hóa, điện khí hóa, sinh học hóa cao hơn và bước đầu áp dụng cả tin
học hóa, tự động hóa [47, tr. 26].
Cũng theo các tác giả trên thì phạm vi, tính chất của công nghiệp hóa nông thôn
sâu rộng hơn nhiều, thể hiện qua ba điểm:
Thứ nhất, nó là quá trình biến đổi không phải trong từng ngành sản xuất hay từng
lĩnh vực xã hội đơn lẻ, mà là một quá trình biến đổi toàn diện trong một khu vực xã hội
rộng lớn là nông thôn, bao quát mọi hoạt động kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị tại đó.
Thứ hai, nó phải phát triển một nền nông nghiệp dồi dào làm nền tảng, một nền
sản xuất công nghiệp ngày càng tiên tiến, một hệ thống dịch vụ đầy đủ và hữu hiệu.
Thứ ba, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn cùng với các
ngành kinh tế phát triển, một hệ thống hạ tầng cơ sở kinh tế và xã hội dần dần được hoàn
chỉnh theo hướng hiện đại hóa, các lĩnh vực hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế được nâng

cấp, các quan hệ xã hội được hoàn thiện, tạo ra một lối sống công nghiệp năng động, cởi
mở, văn minh [47, tr. 26-27].
Nhóm các nhà nghiên cứu khác, về cơ bản tán đồng với quan điểm trên và nhấn
mạnh trong ba mặt biểu hiện (đặc trưng điển hình) của công nghiệp hóa nông thôn nêu
dưới đây đã bao hàm cả yếu tố hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn:


Công nghiệp hóa nông thôn phản ánh sự biến đổi toàn diện trên tất cả
các mặt kinh tế, xã hội, văn hóa, chính trị của một vùng xã hội nông thôn. Nó
khác với công nghiệp hóa nông nghiệp ở chỗ công nghiệp hóa nông nghiệp
phản ánh sự biến đổi chỉ đối với một ngành cụ thể - ngành nông nghiệp (bao
gồm cả nông - lâm - thủy sản). Tất nhiên nói như vậy cũng chỉ có ý nghĩa
tương đối, bởi lẻ khi nông nghiệp được công nghiệp hóa chắc chắn sẽ động tới
các mặt khác của xã hội nông thôn.
Công nghiệp hóa nông thôn phản ánh sự thay đổi một cách căn bản kết
cấu kinh tế - xã hội nông thôn. Kết cấu kinh tế của một vùng nông thôn được
công nghiệp hóa phản ánh một cơ cấu ngành tích cực, trong đó có một nền
nông nghiệp đa dạng đã được công nghiệp hóa ở trình độ cao là nền tảng, một
nền sản xuất công nghiệp ngày càng tiên tiến và một hệ thống dịch vụ hiệu
quả. Về kết cấu xã hội, đặc biệt là kết cấu lao động cũng có sự thay đổi: Tỷ
trọng lao động nông nghiệp ngày càng giảm và tỷ trọng lao động trong công
nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng.
Công nghiệp hóa nông thôn còn được phản ánh qua sự phát triển bằng
một hệ thống hạ tầng kinh tế - xã hội theo hướng ngày càng hiện đại; đồng
thời các lĩnh vực hoạt động văn hóa, giáo dục, y tế có sự biến đổi rõ nét về
chất, các quan hệ xã hội được hoàn thiện, một lối sống công nghiệp văn minh
được hình thành [44, tr. 14-16].
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa nông thôn ở nước ta, cần chú
ý một số điểm sau:
Một là, công nghiệp hóa nông thôn tất yếu phải kéo theo sự phát triển công

nghiệp nông thôn và do đó phát triển công nghiệp nông thôn là một trong những nội dung
quan trọng của công nghiệp hóa nông thôn, mặt khác công nghiệp hóa nông thôn bao
hàm cả công nghiệp hóa nông nghiệp. Mặc dù vậy cũng không nên chỉ dùng thuật ngữ
công nghiệp hóa nông thôn và mà không nói đến công nghiệp hóa nông nghiệp. Vì trong


quá trình công nghiệp hóa nông thôn thì vấn đề công nghiệp hóa nông nghiệp vừa là quan
trọng, vừa như là một thách thức.
Hai là, công nghiệp hóa nông thôn đúng hướng tất yếu phải góp phần thúc đẩy
các chỉ tiêu về kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh của toàn vùng tăng với tốc độ
ngày càng nhanh và cao hơn so với vùng nông thôn đó trong điều kiện không được công
nghiệp hóa. Đồng thời làm thay đổi cơ cấu về tỷ lệ đóng góp của các ngành vào GDP và
thu nhập. GDP của các vùng nông thôn được công nghiệp hóa phải có tỷ trọng cao của
phần đóng góp từ công nghiệp và dịch vụ, do đó phần đóng góp của nông nghiệp ngày
càng giảm đi về tỷ lệ, nhưng quy mô tuyệt đối ngày càng tăng về cơ cấu và thu nhập của
dân cư cũng có kết quả tương tự.
Hiện đại hóa nông nghiệp bao gồm tất cả những hoạt động có liên quan đến việc
ứng dụng những tiến bộ khoa học và công nghệ tiên tiến vào sản xuất kinh doanh các sản
phẩm nông nghiệp nhằm góp phần nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của chúng,
đồng thời thỏa mãn tốt hơn các nhu cầu của xã hội, của thị trường về các sản phẩm nông
nghiệp. Đặc trưng nổi bật của hiện đại hóa nông nghiệp là quá trình không ngừng nâng
cao trình độ khoa học - kỹ thuật - công nghệ, trình độ tổ chức và quản lý sản xuất nông
nghiệp. Đây cũng là quá trình cần được thực hiện một cách liên tục vì luôn có những tiến
bộ kỹ thuật mới xuất hiện và được ứng dụng trong sản xuất.
Hiện đại hóa nông thôn là quá trình liên tục nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật
và công nghệ vào sản xuất và đời sống ở nông thôn, tạo ra một nền sản xuất trình độ ngày
càng cao, cuộc sống ngày càng văn minh và tiến bộ. Hiện đại hóa nông thôn không chỉ
bao gồm công nghiệp hóa, nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ và tổ chức trong các lĩnh
vực khác trong sản xuất vật chất ở nông thôn mà còn bao gồm cả việc không ngừng nâng
cao đời sống văn hóa - tinh thần, phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng xã hội: Hệ thống

giáo dục đào tạo, y tế và các dịch vụ phục vụ đời sống nông thôn. Về bản chất, hiện đại
hóa là quá trình phát triển toàn diện có kế thừa ở nông thôn. Hiện đại hóa hoàn toàn
không có nghĩa là xóa bỏ toàn bộ những gì đã tạo dựng trong quá khứ, càng không có
nghĩa là phải đưa toàn bộ công nghệ, thiết bị tiên tiến và hiện đại vào nông thôn ngay một


lúc mà là tận dụng, cải tiến, hoàn thiện, từng bước nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật -
công nghệ và tổ chức quản lý nền sản xuất và đời sống xã hội ở nông thôn lên ngang tầm
với trình độ thế giới.
Từ những phân tích trên, ta thấy vấn đề công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn liên quan đến 4 khía cạnh có nội dung khác nhau, có liên quan chặt
chẽ với nhau, đó là: công nghiệp hóa nông nghiệp, công nghiệp hóa nông thôn, hiện đại
hóa nông nghiệp và hiện đại hóa nông thôn. Bốn khái niệm trên có quan hệ mật thiết
với nhau: ở công nghiệp hóa nông thôn bao hàm công nghiệp hóa nông nghiệp và hiện
đại hóa nông thôn bao hàm hiện đại hóa nông nghiệp và giữa công nghiệp hóa và hiện
đại hóa cũng có quan hệ mật thiết với nhau. Công nghiệp hóa đã phần nào phản ánh
trình độ nhất định của hiện đại hóa và ngược lại. Hiện đại hóa là yêu cầu đối với công
nghiệp hóa nhất là trong điều kiện cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới
đang phát triển nhanh như vũ bão; xu thế toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế
hiện nay đòi hỏi công nghiệp hóa phải là quá trình hiện đại hóa.
* Quan niệm của Đảng ta về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn
Trong văn kiện Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ, khóa VII Đảng ta đã xác định:
Từ nay đến cuối thập kỷ, phải rất quan tâm đến công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp và kinh tế nông thôn, phát triển toàn diện nông - lâm - ngư nghiệp gắn với công
nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu.
Có thể nói đây là lần đầu tiên trong các văn kiện của Đảng đã đưa ra phạm trù
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng (năm 1996) đã bổ sung cụ thể hóa thêm những
quan điểm chủ trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Trong văn kiện lần thứ

VIII của Đảng đã khẳng định: "Đặc biệt coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp và nông thôn; phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế
biến nông, lâm, thủy sản; phát triển công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất
khẩu" [38, tr. 87].


Đại hội lần thứ IX của Đảng (tháng 4-2001) đã cụ thể hóa, bổ sung và phát triển
những quan điểm, đường lối về công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn nước ta và chủ
trương đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Để tiếp tục hoàn thiện đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn, Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã ban hành nghị
quyết về đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 -
2010. Nghị quyết đã nêu lên những nội dung tổng quát, quan điểm, mục tiêu phát triển,
những chủ trương và giải pháp lớn để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn. Về quan điểm cần quán triệt để đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010 là:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn là một trong
những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Phát triển công nghiệp, dịch vụ phải gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ đặc lực và
phục vụ có hiệu quả cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn.
- Ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, chú trọng phát huy nguồn lực
con người, ứng dụng rộng rãi thành tựu khoa học, công nghệ, thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát huy lợi thế của từng vùng gắn với thị trường
để sản xuất hàng hóa quy mô lớn với chất lượng và hiệu quả cao, bảo vệ môi
trường, phòng chống, hạn chế và giảm nhẹ thiên tai, phát triển nông nghiệp
nông thôn bền vững.
- Dựa vào nội lực là chính, đồng thời tranh thủ tối đa các nguồn lực
bên ngoài, phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà
nước giữ vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng

vững chắc; phát triển mạnh mẽ kinh tế hộ sản xuất hàng hóa, các loại hình
doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn.
- Kết hợp chặt chẽ các vấn đề kinh tế và xã hội trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nhằm giải quyết việc làm,


xóa đói giảm nghèo, ổn định xã hội và phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật
chất và văn hóa của người dân nông thôn, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu
số, vùng sâu, vùng xa; giữ gìn, phát huy truyền thống văn hóa và thuần phong
mỹ tục.
- Kết hợp chặt chẽ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông
thôn với xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh
nhân dân, thể hiện trong chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh
tế xã hội của cả nước, của các ngành, các địa phương. Đầu tư phát triển kinh tế
- xã hội, ổn định dân cư các vùng xung yếu, vùng biên giới, cửa khẩu, hải đảo
phù hợp với chiến lược quốc phòng và chiến lược an ninh quốc gia [40].
Những quan điểm trên không chỉ đảm bảo cho sự phát triển nông nghiệp, nông
thôn bền vững mà còn góp phần quan trọng cho sự phát triển hài hòa giữa công nghiệp và
nông nghiệp, giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, giữa kinh tế và xã
hội, an ninh, quốc phòng, môi trường, tăng cường khối liên minh công nhân - nông dân -
trí thức, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đảm bảo
cho nước ta phát triển nhanh, bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.1.2. Những nội dung cơ bản công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn
Trong văn kiện Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã nêu:
Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp, hình thành các vùng tập
trung chuyên canh. đảm bảo an toàn về lương thực quốc gia, tạo ra nông sản
hàng hóa phù hợp với nhu cầu thị trường. Phát triển các ngành nghề, làng nghề
truyền thống và làng nghề mới và thực hiện thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới
hóa, ứng dụng thành tựu sinh học, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế,

xã hội, xây dựng nông thôn mới văn minh và hiện đại [38, tr. 87-88].
Tháng 11/1998, Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết
số 06/NQ-TW về một số vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn đã khẳng định:


Đưa nông nghiệp và kinh tế nông thôn lên sản xuất lớn là nhiệm vụ
cực kỳ quan trọng cả trước mắt và lâu dài, là cơ sở để ổn định chính trị, kinh
tế, xã hội, củng cố liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng
lớp trí thức, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Sau 5 năm thực hiện, nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn đã được cụ thể hóa từng bước. Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng nêu rõ:
Tiếp tục phát triển và đưa nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp lên một
trình độ mới bằng ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nhất là công nghệ
sinh học; đẩy mạnh thủy lợi hóa, cơ giới hóa, điện khí hóa; quy hoạch sử dụng
đất hợp lý; đổi mới cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tăng giá trị thu nhập trên đơn vị
diện tích; giải quyết tốt vấn đề tiêu thụ nông sản hàng hóa. Đầu tư nhiều hơn
cho phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội ở nông thôn. Phát triển công
nghiệp, dịch vụ các ngành nghề đa dạng, chú trọng công nghiệp chế biến, cơ
khí phục vụ nông nghiệp, các làng nghề, chuyển một bộ phận quan trọng lao
động nông nghiệp sang khu vực công nghiệp và dịch vụ, tạo nhiều việc làm
mới; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, cải thiện đời sống nông dân và dân
cư ở nông thôn [39, tr. 92-93].
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã xác
định nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông thôn.
- Về nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, Nghị quyết chỉ rõ:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp là quá trình chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, gắn với công
nghiệp chế biến và thị trường, thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa,

ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ, trước hết là công nghệ sinh học,
đưa thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào các khâu sản xuất nông nghiệp


nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nông sản
hàng hóa trên thị trường [40, tr. 42].
- Nội dung tổng quát của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn là:
Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng
nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và dịch vụ;
giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp; xây dựng kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch phát triển nông thôn, bảo vệ môi trường sinh
thái, tổ chức lại sản xuất và xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp; xây dựng
nông thôn dân chủ, công bằng văn minh, không ngừng nâng cao đời sống vật
chất và văn hóa của nhân dân ở nông thôn [40, tr. 43].
Văn kiện Đại hội lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ:
Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn,
giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
Chuyển dịch mạnh cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo
hướng tạo ra giá trị gia tăng ngày càng cao, gắn với công nghiệp chế biến và
thị trường; thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, đưa nhanh tiến bộ
khoa học kỹ thuật và công nghệ sinh học vào sản xuất, nâng cao năng suất,
chất lượng và sức cạnh tranh, phù hợp đặc điểm từng vùng, từng địa phương.
Tăng nhanh tỷ trọng giá trị sản phẩm và lao động các ngành công nghiệp và
dịch vụ; giảm dần tỷ trọng sản phẩm và lao động nông nghiệp. Sớm khắc phục
tình trạng manh mún về đất canh tác của các hộ nông dân, khuyến khích viện
dồn điền đổi thửa, cho thuê, góp vốn cổ phần bằng đất; phát triển các khu nông
nghiệp công nghệ cao, vùng trồng trọt và chăn nuôi tập trung, doanh nghiệp
công nghiệp và dịch vụ gắn với hình thành các ngành nghề, làng nghề, hợp tác
xã, trang trại, tạo ra những sản phẩm có thị trường và hiệu quả kinh tế cao.
Thực hiện tốt chương trình bảo vệ và phát triển rừng; đổi mới chính

sách giao đất, giao rừng, bảo đảm cho người làm nghề rừng có cuộc sống ổn


định và được cải thiện. Phát triển rừng nguyên liệu gắn với công nghiệp chế
biến lâm sản có công nghệ hiện đại.
Phát triển đồng bộ và có hiệu quả nuôi trồng, đánh bắt, chế biến và bỏa vệ
nguồn lợi thủy sản. Coi trọng khâu sản xuất và cung cấp giống tốt, bảo vệ môi
trường, mở rộng thị trường trong nước và xuất khẩu.
Tăng cường các hoạt động khuyến nông, khuyến công, khuyến lâm,
khuyến ngư, công tác thú y bảo vệ thực vật và các dịch vụ kỹ thuật khác ở
nông thôn. Chuyển giao nhanh và ứng dụng khoa học, công nghệ, nhất là công
nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp; chú trọng các khâu giống, kỹ thuật
canh tác, nuôi trồng, công nghệ sau thu hoạch và công nghệ chế biến.
Khẩn trương xây dựng các quy hoạch phát triển nông thôn. Thực hiện
chương trình xây dựng nông thôn mới. Xây dựng các làng, xã, ấp, bản có cuộc
sống no đủ, văn minh, môi trường lành mạnh. Hình thành các khu dân cư, đô
thị hóa với kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội đồng bộ như: Thủy lợi, giao thông,
điện, nước sạch, cụm công nghiệp, trường học, trạm y tế, bưu điện, chợ. Phát
huy dân chủ ở nông thôn đi đôi với xây dựng nếp sống văn hóa, nâng cao trình
độ dân trí, bài trừ các tệ nạn xã hội, hủ tục, mê tín dị đoan; đảm bảo an ninh,
trật tự an toàn xã hội.
Chú trọng dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân, trước hết ở các
vùng sử dụng đất nông nghiệp để xây dựng các cơ sở công nghiệp, dịch vụ,
giao thông, các khu đô thị mới. Chuyển dịch cơ cấu lao động ở nông thôn theo
hướng giảm nhanh tỷ trọng lao động làm nông nghiệp, tăng tỷ trọng lao động
làm công nghiệp và dịch vụ. Tạo điều kiện để lao động nông thôn có việc làm
trong và ngoài khu vực nông thôn kể cả ở nước ngoài. Đầu tư mạnh hơn cho
các chương trình xóa đói giảm nghèo, nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, biên
giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số [41, tr. 88-90].
Từ những trình bày trên, theo chúng tôi, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông

nghiệp, nông thôn là một quá trình bao gồm các nội dung chủ yếu sau đây:


* Đẩy mạnh phát triển sản xuất hàng hóa trong nông nghiệp, nông thôn, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, phát triển kinh doanh theo quan điểm của kinh tế thị trường, từ đó
thúc đẩy quá trình biến đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh
của từng vùng, phát triển công nghiệp và dịch vụ nông thôn, đặc biệt là công nghiệp chế
biến nông sản nhằm thay đổi căn bản cơ cấu kinh tế nông thôn, cơ cấu lao động, quy mô
và cơ cấu thu nhập.
* Thực hiện phân công mới lao động xã hội trong nông nghiệp, nông thôn trên cơ
sở phát triển các ngành nghề, nghề tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề truyền thống và
dịch vụ theo phương châm "rời đồng, không rời làng" (ly nông, bất ly hương) và "tiểu
công nghiệp hiện đại, thủ công nghiệp tinh xảo", từng bước xác lập cơ cấu kinh tế nông
nghiệp - công nghiệp - dịch vụ trên địa bàn nông thôn, thúc đẩy phát triển nông nghiệp
sinh thái và tạo nên bộ mặt nông thôn mới theo diện mạo của công nghiệp và đô thị.
* Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và khoa học quản lý trong sản
xuất kinh doanh, đẩy nhanh tiến độ thủy lợi hóa, cơ giới hóa, điện khí hóa, tự động hóa,
tin học hóa và ứng dụng các thành tựu hiện đại của công nghệ sinh học, thay đổi căn bản
phương thức quản lý sản xuất kinh doanh ở nông thôn theo hướng lấy cơ cấu, quy mô
nhu cầu thị trường làm căn cứ quyết định cơ cấu quy mô sản xuất và đổi mới cơ cấu sản
phẩm nhằm kết hợp tốt sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ngay từ trong từng phương án sản
xuất kinh doanh.
* Nâng cao chất lượng nhân lực, kể cả nhân lực quản lý và đặc biệt là người lao
động sản xuất nông nghiệp có trình độ cao.
* Từng bước hiện đại hóa kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông nghiệp và nông
thôn, nâng cao trình độ văn minh của xã hội nông thôn, chuyển mạnh lối sống ở nông
thôn sang lối sống công nghiệp.
Đây là những điểm căn bản nhất phản ánh nội dung của công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Trong đó có điểm phản ánh quá trình tăng trưởng và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, có điểm phản ánh quá trình hiện đại hóa nông nghiệp, nông

thôn (hiện đại hóa không chỉ về phương diện kỹ thuật và công nghệ, mà cả về phương


diện quản lý kinh doanh) và có những điểm phản ánh các điều kiện kinh tế - xã hội để
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
1.2. Tác động và yêu cầu về nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
1.2.1. Khái niệm về nguồn nhân lực
Có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về nguồn nhân lực. Do cách tiếp cận
khác nhau, nên có nhiều quan niệm khác nhau về nguồn nhân lực:
Thứ nhất, theo thuyết lao động xã hội thì nghĩa rộng của nguồn nhân lực, có thể
hiểu là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội. Theo nghĩa hẹp, là khả năng lao
động của xã hội, bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi lao động, có tham gia vào nền
sản xuất xã hội. Theo quan điểm của Tổ chức Lao động thế giới (IL0): Lực lượng lao
động là một bộ phận dân số trong độ tuổi quy định, thực tế có việc làm và những và
những người thất nghiệp. Hiện nay ở Việt Nam tuổi lao động được quy định là từ 15 - 60
(đối với nam) và từ 15 - 55 (đối với nữ). Trên thực tế khi tính toán, thống kê lực lượng
lao động, người ta thường quy định: Lực lượng lao động là những người trong độ tuổi lao
động có việc làm và những người ngoài tuổi lao động vẫn tham gia làm việc (thường tính
cho những người trên tuổi lao động). Như vậy, ở đây lực lượng lao động cũng đồng nghĩa
với dân số hoạt động kinh tế. Nguồn lao động được hiểu là toàn bộ những người có khả
năng lao động dưới dạng tích cực và tiềm tàng, có thể biểu diễn nguồn lao động qua biểu
đồ sau:
Biểu đồ 1.1: Nguồn lao động





Nguồn lao

đ
ộng

Trong độ tuổi
lao động có khả
năng lao đ
ộng

Ngoài độ tuổi
lao động có khả
năng lao đ
ộng

Tiềm
tàng

Tích
c
ực

Phụ
c

Đi

N
ội
Các
ngành


Th
ất
Các
ngành







Thứ hai, theo thuyết tăng trưởng kinh tế, thì nguồn nhân lực chính là nguồn lực
chủ yếu tạo động lực cho sự phát triển.
Thứ ba, theo thuyết về vốn con người, thì nguồn nhân lực được hiểu như nguồn
lực con người (Human Resonsrces), được huy động, quản lý cùng với các nguồn lực khác
(tài chính, tài nguyên ) để thực hiện những mục tiêu phát triển đã định.
Thứ tư, theo định nghĩa của Liên hợp quốc, nguồn nhân lực là: "Trình độ lành
nghề, là kiến thức và năng lực của toàn bộ cuộc sống con người hiện có thực tế hoặc tiềm
năng để phát triển kinh tế xã hội trong một cộng đồng".
Thứ năm, theo một số nhà khoa học Việt Nam, nguồn nhân lực được hiểu là dân
số và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, trí tuệ và sức khỏe, năng
lực và phẩm chất, thái độ và phong cách làm việc
Từ những quan niệm trên, chúng tôi cho rằng, nguồn nhân lực là tổng thể những
năng lực thể chất và tinh thần tồn tại trong tổng số lực lượng lao động của xã hội, đang và
sẽ được vận dụng vào quá trình lao động sản xuất ra của cải vật chất để phục vụ cho nhu
cầu xã hội.
 Nguồn nhân lực trước hết phản ánh qua số lượng lao động trong độ tuổi lao
động và chất lượng của nó. Chất lượng nguồn nhân lực là trình độ, khả năng của năng lực
thể chất và tinh thần cấu thành nguồn nhân lực của xã hội. Có nhiều chỉ tiêu đánh giá chất
lượng nguồn nhân lực. Đó là: (1) Trí lực của nguồn nhân lực; (2) Chỉ số phát triển con

người (HDI); (3) Thể lực nguồn nhân lực; (4) Phẩm chất, đạo đức, nhân cách, truyền
thống văn hóa nguồn nhân lực.


 Những nhân tố tác động đến chất lượng nguồn nhân lực:
Một là, trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Đây là cơ sở nền tảng để nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực. Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia đóng vai
trò quyết định đến trình độ phát triển nguồn nhân lực của nước đó, vì tăng trưởng và phát
triển kinh tế sẽ đưa đến kết quả là nâng cao mức sống, cải thiện tình hình sức khỏe của
dân cư, sẽ tăng vốn đầu tư cho phát triển giáo dục - đào tạo, do đó góp phần nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực. Hơn nữa, trình độ phát triển kinh tế sẽ quyết định mức độ
hiện đại hóa nền kinh tế, mức độ áp dụng những thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại
vào sản xuất và đời sống, do đó, thúc đẩy phát triển kinh tế và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực. Và khi chất lượng nguồn nhân lực được nâng cao sẽ là động lực thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội.
Hai là, giáo dục và đào tạo đóng vai trò trực tiếp quyết định đến chất lượng
nguồn nhân lực. Chúng ta đều biết: Trí tuệ và năng lực sáng tạo là nhân tố chủ yếu của
chất lượng nguồn nhân lực. Giáo dục và đào tạo giúp cho người lao động nâng cao trình
độ văn hóa, sự hiểu biết nói chung, trình độ nghề nghiệp, tay nghề, năng lực tư duy sáng
tạo, phát huy tài năng của họ để tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất, kinh
doanh Do đó, giáo dục và đào tạo đóng vai trò quyết định nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực.
Ngoài ra, chất lượng nguồn nhân lực còn có các yếu tố khác tác động, như: phát
triển dân số, yếu tố văn hóa, truyền thống dân tộc và chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà
nước.
1.2.2. Nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn
Nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn là một bộ phận cấu thành của nguồn
nhân lực xã hội. Nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn (theo nghĩa hẹp là nguồn lao
động) là tổng thể sức lao động trong khu vực nông nghiệp nông thôn, bao gồm những
người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động và những người ngoài độ tuổi lao

động những vẫn tham gia lao động trong khu vực nông nghiệp, nông thôn.


Nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn với quan điểm là một tiềm lực kinh tế
thể hiện ở hai mặt: Số lượng và chất lượng.
- Số lượng nguồn lao động nông nghiệp, nông thôn là tổng số những người trong
độ tuổi lao động (từ 15 - 55 đối với nữ, từ 15 - 60 đối với nam) có khả năng lao động
trong khu vực nông nghiệp, nông thôn và những người trên tuổi lao động nhưng vẫn
tham gia lao động. Số lượng này phụ thuộc vào 2 yếu tố: Sự tăng giảm tự nhiên và tăng
giảm cơ học do sự di cư từ nông thôn ra thành thị hoặc ngược lại.
- Chất lượng của nguồn nhân lực nông nghiệp nông thôn nói chung là khả năng
về sức sản xuất của thể lực, trí lực của người lao động. Khả năng này được phản ánh qua
trình độ văn hóa, trình độ khoa học kỹ thuật, năng suất lao động, kinh nghiệm sản xuất
cũng như hành vi và giá trị của người lao động. Chất lượng của nguồn lao động là nhân
tố có tính quyết định đóng góp cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế của một nước.
Chất lượng nguồn lao động nông thôn nói riêng và nguồn lao động xã hội nói chung tất
yếu sẽ biến đổi theo xu hướng không ngừng tăng lên do sự phát triển của khoa học kỹ
thuật và vì vậy năng suất lao động ngày càng nâng cao. Mặt khác, khi nền kinh tế phát
triển sẽ tạo điều kiện chăm sóc tốt hơn sức khỏe con người, nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho người lao động. Chất lượng nguồn nhân lực sẽ được nâng cao thông qua sự
đầu tư và các chính sách phát triển của Nhà nước vào các lĩnh vực y tế, giáo dục và văn
hóa.
Những đặc trưng của nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn:
Một là, nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn chiếm tỷ trọng rất lớn trong
nguồn nhân lực xã hội.
Nước ta là một nước nông nghiệp, có khoảng 78% dân số sinh sống ở các vùng
nông thôn và đại bộ phận dân cư và lao động làm ăn sinh sống bằng nghề nông. Dân số
nước ta thuộc loại dân số trẻ, tỷ lệ tăng tự nhiên đã giảm khá nhanh từ 2,2 năm 1990 xuống
còn 1,43% năm 2000, tuy nhiên lao động trong khu vực nông nghiệp nông thôn năm 2005
vẫn chiếm tới 66,0% lao động xã hội.



Hai là, lao động nông nghiệp mang tính thời vụ cao.
Một trong những nguyên nhân khiến cho việc trồng lúa nước cũng như các cây
rau màu khác cần một lực lượng lao động lớn là do tính thời vụ cao (gieo trồng, thu
hoạch). Những công việc cần nhiều lao động như vậy lại chỉ diễn ra trong một số tháng
trong năm. Tính chất thời vụ của việc canh tác lúa nước đã dẫn đến tình trạng nông nhàn
cao trong nông nghiệp. Tính chất đặc thù của sản xuất nông nghiệp đã dẫn đến lượng
"cầu" về lao động nông nghiệp có biên độ dao động rất lớn giữa các kỳ thu hoạch. Kết
quả là một lượng lao động làm nông nghiệp trở nên nhàn rỗi trong những tháng mùa khô
hoặc trước và sau vụ thu hoạch. Chính đặc điểm này đã ảnh hưởng lớn đến mức độ sử
dụng lao động trong khu vực này.
Ba là, điều kiện làm việc của lao động nông nghiệp nước ta còn vất vả và nặng
nhọc.
Nguyên nhân chủ yếu do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, trình độ kinh tế xã
hội còn thấp kém, mức độ cơ giới hóa trong nông nghiệp còn ít (năm 1997 mức độ cơ
giới hóa khâu làm đất đạt hơn 34%, tưới nước 53%, tiêu nước 30%, suốt lúa 78%, khai
thác gỗ 60-70%) [43, tr. 22].
Lao động nông nghiệp chủ yếu vẫn là thủ công, trong khi đó các khâu công việc
như cày bừa, cấy lúa, vận chuyển vật tư và sản phẩm đều là những công việc nặng nhọc,
nên tốn nhiều sức lực của người lao động. Công cụ tuy đã được cải tiến nhưng vẫn còn
lạc hậu, vấn đề đặt ra là các Viện nghiên cứu, các doanh nghiệp, các nhà khoa học phải
nghiên cứu, cải tiến chế tạo các loại công cụ cơ khí vừa và nhỏ phù hợp với điều kiện sản
xuất nông nghiệp của từng vùng và phù hợp với khả năng kinh tế của nông dân, trên cơ
sở đó từng bước giảm bớt các khâu nặng nhọc, độc hại đồng thời nâng cao năng suất lao
động trong sản xuất nông nghiệp. Tuy nhiên, vấn đề cơ giới hóa nông nghiệp ở nước ra
vẫn đang trong tình trạng mâu thuẫn giữa yêu cầu của hiện đại hóa với lực lượng lao
động dư thừa quá lớn ở nông thôn, cần phải có giải pháp hữu hiệu từng bước khắc phục.
Bốn là, chất lượng lao động nông thôn.



Do những nguyên nhân lịch sử, kinh tế sâu xa cùng với phương thức sản xuất lúa
nước đã liên kết những người dân sống ở nông thôn thành một cộng đồng gắn kết nhau với
truyền thống đoàn kết, thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, có phẩm chất cần cù, chịu khó, thông
minh Đó là những tố chất quan trọng của nguồn lực con người ở nông thôn. Tuy nhiên,
nguồn nhân lực ở nông thôn cũng còn có nhiều hạn chế chưa đáp ứng được với yêu cầu
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, thể hiện ở một số nét chủ yếu sau:
- Trình độ văn hóa, dân trí và chuyên môn kỹ thuật của người lao động ở nông
thôn còn thấp, ví dụ: Năm 1999 ở nước ta tỷ lệ lao động chưa biết chữ ở nông thôn vẫn
còn gần 1,5 triệu người chiếm 4,9% tổng số lao động nông thôn, tỷ lệ lao động có trình
độ chuyên môn kỹ thuật chỉ chiếm xấp xỉ 8% còn lại là lao động phổ thông chưa qua đào
tạo. Lực lượng lao động chất xám vừa ít lại phân bố không đều, chưa gắn bó với sản xuất
và phát triển kinh tế xã hội nông thôn. Trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý ở nông thôn
còn yếu kém, số có trình độ đại học chỉ chiếm 3,5%, trung cấp 12,8%, sơ cấp 48% tổng
số cán bộ quản lý. Rõ ràng với trình độ như vậy sẽ không đáp ứng được yêu cầu của công
nghiệp hóa, đây là yếu tố gây trở ngại lớn đến việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật
trong nông nghiệp [43, tr. 22].
- Thể lực của người lao động ở nông thôn đã được cải thiện nhưng còn thấp so
với yêu cầu. Tình trạng dinh dưỡng của người lớn tính theo chỉ số cơ chế (BMI) của khu
vực nông thôn cho thấy chỉ có 36,44% nam giới đạt mức bình thường, còn lại 62,5% ở
mức gầy và quá gầy [43, tr. 23].
- Thu nhập của nông dân còn thấp, đời sống còn nhiều khó khăn. Vẫn còn
khoảng gần 15% dân nông thôn bị nghèo về lương thực, thực phẩm và khoảng 1/3 còn
phải sống ở mức nghèo chung. Bên cạnh đó các điều kiện khác ở nông thôn còn kém xa
so với thành thị. Ví dụ về nhà ở, về phương tiện, về hưởng thụ văn hóa
1.2.3. Tác động và yêu cầu về nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
1.2.3.1. Tác động của nguồn nhân lực nông nghiệp, nông thôn



Nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng đối với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn. Nguồn nhân lực như đã nói ở trên, trước hết phản ánh qua
số lượng lao động trong độ tuổi lao động. Yếu tố về số lượng lao động tác động tới tiến
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn mang tính đặc thù, đặc biệt là
khi xét nó trong mối tương quan với quy mô và tốc độ tăng dân số. Nếu lao động quá ít
thì không đủ đáp ứng cho nhu cầu lao động của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Nhưng ngược lại nếu lao động quá lớn, và đằng sau đó là quy mô dân số quá đông và tốc
độ tăng dân số nhanh thì đây là khó khăn, thách thức đối với tiến trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Xét về mặt này, công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn ở nước ta sẽ gặp nhiều khó khăn.
Khía cạnh thứ hai có liên quan đến nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn đó là chất lượng nguồn nhân lực, bao gồm cả chất lượng
nguồn nhân lực lao động trực tiếp và nguồn lao động quản lý. Trong thời đại của tiến bộ
khoa học - công nghệ diễn ra nhanh chóng, chất lượng nguồn nhân lực có vai trò quan
trọng đối với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Liên quan
đến chất lượng nguồn nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, ta thấy hệ thống giáo
dục và đào tạo ở nước ta trong những năm qua đã có bước phát triển khá trên nhiều
phương diện. Tuy nhiên, so với nhiều quốc gia khác, chất lượng đào tạo của nước ta còn
chưa ngang bằng, hơn thế nữa các cơ sở đào tạo người lao động có tay nghề, kỹ năng bậc
cao, nhất là việc đào tạo kỹ thuật và kỹ năng cho những người lao động trực tiếp trong
nông nghiệp, công nghiệp cũng như dịch vụ phục vụ nông nghiệp còn chưa được chú ý
đầy đủ. Mặt khác, tính thủ cựu trong lối tư duy, làm ăn của nông dân nước ta nói chung
còn mang nặng dấu ấn của người tiểu nông do cơ chế bao cấp, kế hoạch hóa tập trung còn
là thách thức lớn đối với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
1.2.3.2. Yêu cầu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn về
nguồn nhân lực.
Như trên đã phân tích, nguồn nhân lực có vai trò rất quan trọng, góp phần quyết
định thành công của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn



nước ta. Chính vì vậy, công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
đòi hỏi phải được thực hiện bằng đội ngũ những người lao động đủ về số lượng, đảm bảo
về chất lượng, hợp lý về cơ cấu và hiệu quả trong sử dụng.
- Về số lượng: Căn cứ vào mục tiêu phát triển và cơ cấu các ngành để có kế
hoạch sử dụng lao động, đảm bảo đủ số lượng lao động tham gia, phấn đấu giảm dần sự
mất cân đối giữa cung và cầu lao động trong điều kiện nguồn nhân lực nông thôn vẫn có
xu hướng gia tăng.
- Về chất lượng: Sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ
đã tạo ra những điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình toàn cầu hóa. Thế giới đang từng
bước phát triển nền kinh tế tri thức. Chính vì vậy, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước nói chung và công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nói
riêng đòi hỏi một đội ngũ những người lao động có chất lượng cao, tinh thông nghề
nghiệp, sáng tạo và có tác phong công nghiệp.
- Về cơ cấu nguồn nhân lực: Đảm bảo sự hợp lý trong phân bố nguồn nhân lực
giữa các ngành và các vùng. Trong mỗi ngành, mỗi địa phương cũng phải tính đến tỷ lệ
hợp lý giữa các trình độ chuyên môn kỹ thuật giữa các nhà nghiên cứu hoạch định chính
sách, các nhà quản lý và người trực tiếp sản xuất
1.3. Kinh nghiệm phát triển và sử dụng nguồn nhân lực trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở một số tỉnh trong nước
1.3.1. Kinh nghiệm của Sơn La
Sơn La là một tỉnh miền núi phía tây bắc nước ta, có diện tích 1.405,5 km
2
, với dân
số 906.800 người (tương đương tỉnh Bắc Ninh). Trong đó, người trong độ tuổi lao động
chiếm 46% dân số. Tỷ lệ lao động khu vực nông thôn chiếm 78,88% số lao động của
tỉnh. Tỷ lệ thời gian sử dụng lao động còn thấp mới đạt 68 - 70%. Như vậy 1/4 thời gian
nông nhàn cần các ngành nghề, dịch vụ tạo nguồn thu nhập cho bà con nông dân Sơn La.
Vấn đề này đặt ra cho tỉnh Sơn La một bài toán khó cần phải giải quyết. Mặt khác, mỗi
năm Sơn La có khoảng 7.000 học sinh tốt nghiệp trung học cơ sở chỉ có 1700 - 2000 em

×