Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

LUẬN VĂN:Phát triển kinh tế nông nghiệp ở tỉnh Kiên Giang potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (808.93 KB, 96 trang )















LUẬN VĂN:

Phát triển kinh tế nông nghiệp
ở tỉnh Kiên Giang















mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài
Kiên Giang là một tỉnh lớn và cũng là một trong số ít tỉnh ở đồng bằng sông Cửu
Long có điều kiện để phát triển nền kinh tế đa dạng với thế mạnh về nông, công, ngư
nghiệp và dịch vụ - du lịch. Với chính sách mở cửa, tăng cường hợp tác và giao lưu quốc
tế của Đảng và Nhà nước, đã tạo đà phát triển và mở rộng ra cơ hội, triển vọng phát triển
kinh tế. Nhưng hiện nay lĩnh vực nông nghiệp ở tỉnh Kiên Giang phát triển chậm hơn một
số tỉnh thành trong cả nước. Theo xu hướng phát triển chung việc sử dụng nguồn tài
nguyên vốn có của nông nghiệp, nông thôn ở tỉnh Kiên Giang có những vấn đề cần quan
tâm là:
- Diện tích hoang hóa vẫn còn, xu hướng độc canh cây lúa còn thống trị, cây công
nghiệp ngắn ngày, cây màu đã có trồng thử nhưng chưa phát triển được. Người nông dân còn
cân nhắc, lựa chọn giữa mô hình trồng lúa và mô hình thủy sản- rừng, song mô hình nào tối
ưu vẫn chưa có lời giải đáp rõ ràng.
Việc sử dụng đất dưới dạng đa canh hóa vẫn còn khó khăn, do quy trình sản xuất
và tiêu thụ chưa khép kín.
Trong sản xuất nông nghiệp, nhân dân đã biết tận dụng nguồn nước mưa. Xem
đó là một quỹ nước có ý nghĩa chiến lược nhất là đối với vùng ven biển bị xâm nhập mặn
như Kiên Giang. Tuy vậy vấn đề thiếu nước ngọt vẫn chưa được giải quyết ở đây. Hệ
thống công trình thủy lợi chưa đáp ứng được nhu cầu cho sản xuất nông nghiệp.
- Đời sống nhân dân vùng nông nghiệp còn nhiều khó khăn, đời sống văn hóa
tinh thần, trình độ dân trí, cơ sở y tế, giáo dục còn thấp.
- Sản lượng lương thực hàng năm tăng không ổn định, phát triển nông nghiệp toàn
diện chưa được quan tâm đúng mức, nhiều tài nguyên tự nhiên bị lãng phí do khai thác chưa
hợp lý, nổi bật là nguồn cá đồng và rừng tràm. Diện tích cây ăn trái và cây công nghiệp chưa
phát triển tương xứng với tiềm năng.




Những hạn chế về các điều kiện tự nhiên, xã hội và những hạn chế do con người
tác động vào thiên nhiên không đúng quy luật đã ảnh hưởng trực tiếp đến tốc độ tăng
trưởng kinh tế- xã hội trên địa bàn tỉnh Kiên Giang, đặc biệt là khu vực nông nghiệp.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên và qua những kết quả cũng như kinh nghiệm
thực hiện nhiều dự án cho thấy việc điều tra, nghiên cứu cơ sở khoa học của những thành
tựu cũng như tồn tại trong khai thác, sản xuất nông nghiệp, tài nguyên, môi trường của
tỉnh Kiên Giang là rất cần thiết, nhằm cung cấp những luận cứ khoa học, để định hướng
quy hoạch và phát triển vùng nông nghiệp, nông thôn một cách bền vững.
Đồng thời, phát triển kinh tế nông nghiệp là nhằm ổn định và phát triển kinh tế -
xã hội đất nước nói chung và tỉnh Kiên Giang nói riêng, khắc phục sự cách biệt giữa
thành thị và nông thôn, góp phần xóa đói giảm nghèo. Trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nền kinh tế phát triển rất nhanh, nếu chỉ chú trọng phát triển kinh tế ở thành
thị thì sự phân hóa giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn diễn ra rất nhanh, khoảng cách
về mức sống ngày càng lớn, tạo ra sự bất ổn cả về kinh tế lẫn xã hội.
Kinh tế nông nghiệp là một lãnh vực sản xuất ra những sản phẩm tất yếu cho xã
hội, mà khu vực thành thị không thay thế được, chẳng hạn như lương thực, thực phẩm,
nguyên liệu nông nghiệp
Phát triển kinh tế nông nghiệp là cần thiết vì nó là nơi vừa cung cấp nguyên liệu,
vừa là thị trường cho phát triển công nghiệp thành thị.
Phát triển kinh tế nông nghiệp còn nhằm giải quyết việc làm, hạn chế làn sóng di
dân ra các đô thị, góp phần bảo vệ môi trường sinh thái
Nói chung, phát triển kinh tế nông nghiệp trên địa bàn tỉnh Kiên Giang là một
vấn đề cấp thiết, nổi lên hàng đầu, là một chiến lược lớn nhằm phát triển kinh tế - xã hội
trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa; thực hiện tốt Nghị quyết 06/NQ-TW của
Bộ Chính trị về một số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn.
Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài " Phát triển kinh tế nông nghiệp ở tỉnh
Kiên Giang " làm luận văn thạc sĩ khoa học kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu




Thời gian qua, kể từ khi bước vào thời kỳ đẩy mạnh cộng nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn theo đường lối đổi mới của Đảng ở nước ta, vấn đề phát triển
kinh tế nông nghiệp với những mức độ khác nhau đã có nhiều công trình, nhiều nhà khoa
học quan tâm nghiên cứu như:
- Nguyễn Đình: Công nghiệp hóa nông nghiệp, nông thôn các nước châu á và
Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997.
- Hồng Vinh (chủ biên): Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn -
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998.
- Phẩm An Ninh: Xu hướng chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp trong quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Đồng Nai, Luận án tiến sĩ kinh tế, Hà nội, 1999.
- Hội thảo quốc gia: Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tại Hà Nội từ ngày 16-1-2000 đến ngày 18-1-2000.
Tuy nhiên chưa có đề tài nào nghiên cứu sâu về phát triển kinh tế nông nghiệp ở
tỉnh Kiên Giang.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài luận văn
Điều tra đánh giá tương đối có hệ thống và toàn diện những thành tựu và những
tồn tại trong sản xuất nông nghiệp, nông thôn, tài nguyên môi trường,đưa ra những định
hướng và các giải pháp phát triển nông nghiệp toàn diện, nâng cao năng suất và hiệu quả
các hoạt động sản xuất, phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hệ thống dân cư, bảo vệ môi
trường sinh thái tự nhiên, từng bước hiện đại hóa nông nghiệp ở tỉnh.
Bổ sung và hoàn chỉnh các luận cứ khoa học cho công tác quy hoạch phát triển vùng
nông nghiệp ổn định trong thời gian tới ở Kiên Giang.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu sự phát triển kinh tế nông nghiệp trên địa bàn tỉnh
Kiên Giang, các lĩnh vực khác chỉ đề cập đến chừng mực nhất định để làm rõ thêm lĩnh
vực phát triển kinh tế nông nghiệp.




Mốc thời gian nghiên cứu chủ yếu kể từ khi đổi mới đến nay và theo suốt quá
trình đổi mới đất nước. Địa bàn nghiên cứu: tỉnh Kiên Giang.
5. Những đóng góp mới về khoa học
Trên cơ sở vận dụng lý luận chung vào việc phân tích tình hình cụ thể ở một lĩnh
vực địa phương, để từ đó nhận định, đánh giá và đề xuất những định hướng, giải pháp có
tính khả thi cho việc phát triển kinh tế nông nghiệp, trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.
6. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu và ý nghĩa của luận văn
6.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin và
những công trình nghiên cứu khoa học có nội dung gần gũi với đề tài làm cơ sở lý luận,
đặc biệt là Nghị quyết 06/NQ-TW ngày 10 tháng 11 năm 1998 của Bộ Chính trị về một
số vấn đề phát triển nông nghiệp và nông thôn.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng những phương pháp chung của kinh tế chính trị, phương pháp khảo sát
thực tế, phân tích, tổng hợp, so sánh, để rút ra kết luận.
6.3. ý nghĩa của luận văn
Luận văn nhằm đóng góp những cơ sở khoa học về đánh giá tình hình, rút ra
nguyên nhân, đề xuất những định hướng và giải pháp phát triển kinh tế nông nghiệp ở
tỉnh Kiên Giang, để hoạch định các chính sách và phương pháp tổ chức, quản lý của Nhà
nước đối với lĩnh vực này tốt hơn.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.



Chương 1
VAI Trò Của kinh tế NÔNG Nghiệp
Đối Với Phát Triển KINH Tế -Xã Hội ở Tỉnh KIÊN GIANG


1.1. Nhận thức lý luận thực tiễn về kinh tế nông nghiệp và vai trò của Kinh tế
nông nghiệp
Sau 15 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng về phát triển kinh tế nhiều
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định
hướng XHCN, đã làm cho kinh tế nông nghiệp phát triển tốt là nhờ có ba tác nhân quan
trọng đã tác động đến nền kinh tế nước ta trong thời gian qua là:
- Chỉ thị 100/CT-TW ngày 13-01-1981 của Ban Chấp hành TW Đảng (khóa IV)
về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động, có ý nghĩa rất quyết định trong việc xác
định quyền tự chủ về sức lao động của nông dân.
- Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, tháng 4 năm 1988 với nội dung chủ yếu là
khoán hộ, đã xác nhận hộ nông dân được quyền tự chủ ruộng đất lâu dài và làm chủ thêm
nhiều tư liệu sản xuất chủ yếu khác như: sức kéo và công cụ sản xuất.
- Nghị quyết Trung ương 5 (khóa VII), ban hành tháng 6 năm 1993 và sau đó là
Luật Đất đai ban hành tháng 9/1993 đã chủ trương xây dựng các nông, lâm ngư trại với
quy mô thích hợp, tạo thêm cho các tổ chức kinh tế, cá nhân người lao động và hộ nông
dân quyền làm chủ đất đai trong khuôn khổ quản lý của Nhà nước.
Chính nhờ những chỉ thị, nghị quyết nêu trên, nông dân gần như đã nhận được
toàn bộ quyền tự chủ về sức lao động, vốn, đất đai, tư liệu sản xuất nông nghiệp khác. Họ
phấn khởi thật sự và sản xuất nông nghiệp tăng rõ rệt, đời sống nông dân ngày một cải
thiện, bộ mặt nông thôn có nhiều thay đổi.
1.1.1. Vậy thế nào là nông nghiệp, kinh tế nông nghiệp?
- Khái niệm nông nghiệp: Nông nghiệp là một ngành kinh tế quốc dân, một trong
những bộ phận chủ yếu của sản xuất vật chất, sản xuất thực phẩm cho nhân dân và



nguyên liệu cho công nghiệp. Trong nông nghiệp, việc sản xuất sản phẩm không những
gắn liền với quá trình kinh tế, mà cũng gắn liền với quá trình tự nhiên của tái sản xuất.
Muốn kinh doanh nông nghiệp một cách đúng đắn điều quan trọng là hiểu biết và khéo sử
dụng các quy luật kinh tế của sự phát triển động vật và thực vật. Nông nghiệp bao gồm

hai tổng hợp ngành: ngành trồng trọt và chăn nuôi. Ngành trồng trọt bao gồm sản xuất
ngũ cốc, cây công nghiệp, khoai tây, trồng rau, làm vườn, nghề trồng cỏ Ngành chăn
nuôi bao gồm việc nuôi súc vật lớn có sừng, cừu, lợn, gia cầm
Trong nông nghiệp ruộng đất là một trong những tư liệu sản xuất chủ yếu. Đặc
điểm của ruộng đất với tư cách tư liệu sản xuất là: nếu sử dụng ruộng đất đúng đắn, thì độ
phì của đất không bị cạn kiệt, mà tăng lên. Đặc trưng cho nông nghiệp là tính chất thời vụ
của những công việc quan trọng nhất về sản xuất, sản phẩm, là sự tách rời khá lớn giữa
thời gian sản xuất và thời kỳ làm việc do đặc điểm của sản xuất nông nghiệp tạo nên.
Nông nghiệp truyền thống Việt Nam là một nền nông nghiệp thâm canh lúa nước
và trồng màu, nay đã phân chia thành nhiều ngành sản xuất. Từ Cách mạng tháng Tám
năm 1945 đến nay, nông nghiệp Việt Nam đã đạt được những tiến bộ quan trọng: sản
xuất nông nghiệp trở nên phong phú và đa dạng, phát huy được tiềm năng của các vùng
tự nhiên đồng bằng, trung du, miền núi, bộ giống cây (nhất là lúa và giống cây lương
thực) và vật nuôi được cải biến; hệ thống thủy lợi phát triển; phân bón và thuốc trừ sâu
được cung cấp tương đối đầy đủ. Sản lượng và năng suất trồng trọt và chăn nuôi đều tăng
rõ rệt.
- Khái niệm kinh tế nông nghiệp: Kinh tế nông nghiệp là một ngành kinh tế của
quốc dân có chức năng phân tích ảnh hưởng của các quy luật kinh tế trong nông nghiệp,
áp dụng những thành tựu kinh tế vào thực tế lãnh đạo các cơ sở nông nghiệp, tạo điều
kiện phát triển lực lượng sản xuất.
Kinh tế nông nghiệp còn là một môn khoa học nghiên cứu những vấn đề kinh tế
của sản xuất nông nghiệp: mối quan hệ giữa người và người, tác động và sự vận dụng cụ
thể các quy luật kinh tế về sản xuất và phân phối sản phẩm trong nội bộ ngành nông
nghiệp.



Kinh tế nông nghiệp theo nghĩa rộng, nghĩa hẹp: Nông nghiệp theo nghĩa rộng
(bao gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp) theo nghĩa hẹp nó là một ngành trực tiếp trồng
trọt lương thực, chăn nuôi. ở luận văn này nông nghiệp được nghiên cứu theo nghĩa rộng

của nó.
1.1.2. Vấn đề nông nghiệp trong một số lý thuyết kinh tế
+ Kinh tế học Mác-Lênin
- Học thuyết kinh tế của Các Mác
Các Mác là người kế thừa có chọn lọc những tư tưởng khoa học
của các nhà kinh tế trước đó người đứng gần Mác nhất là Adam - Smít
và Ricácđô.
- Trong quá trình phân tích Mác đã chỉ ra việc chuyển xã hội từ nền kinh tế tự
nhiên, sinh tồn, tự cấp, tự túc sang nền kinh tế hàng hóa là một tất yếu. Kinh tế hàng hóa
là nền kinh tế từ chậm phát triển sang phát triển.
- Nền kinh tế sinh tồn, tự cấp tự túc đó chính là nền kinh tế mà nông nghiệp là
hoạt động sản xuất chủ yếu, vậy để phát triển phải làm chuyển động ngành này.
- Trong các lý thuyết của Mác, học thuyết về phân công lao động xã hội và sự
hình thành các ngành kinh tế quốc dân có nói tới khía cạnh nông nghiệp là một ngành sản
xuất. Mác cho rằng sự phân công lao động đã làm "cơ sở chung của mọi nền sản xuất
hàng hóa".
Có ba loại phân công:
+ Phân công lao động chung thành những ngành lớn.
+ Phân công lao động đặc thù (loại và thứ).
+ Phân công lao động cá biệt trong xưởng thợ.
Và cơ sở của mọi sự phân công đó là: Sự tách rời giữa chăn nuôi và trồng trọt,
giữa nông nghiệp và công nghiệp, sự xuất hiện nhiều ngành nghề khác nhau và giữa
thành thị với nông thôn. Những sự tách rời đó xảy ra khi nào? Điều đó chỉ có được khi có



sự nâng cao năng suất lao động xã hội, đặc biệt là trong nông nghiệp, tức nông nghiệp
phải đạt tới một sự phát triển nhất định.
- Trong học thuyết về địa tô, Mác chỉ ra tính chất nhiều vẻ của nông nghiệp trong
những điều kiện khác nhau, sự khác nhau đó xuất phát không chỉ về vị trí và chất lượng

của đất đai mà còn do sự khác nhau về cách thức đầu tư tư bản vào ruộng đất. Và việc
đầu tư tư bản vào ruộng đất phụ thuộc vào chính những thay đổi về kỹ thuật, thâm canh
Lý luận về địa tô của Mác là một chỉ dẫn về một nền nông nghiệp phát triển không chỉ
tăng quy mô diện tích mà bằng thâm canh cao. Tư bản kinh doanh trong lĩnh vực nông
nghiệp, đã biến hầu hết nông phẩm thành những thương phẩm trong trao đổi hàng hóa đạt
đến nền nông nghiệp của kinh tế thị trường.
- Học thuyết kinh tế của V.I.Lênin
Lênin là người kế thừa học thuyết Mác và phát triển trong điều kiện lịch sử mới.
- Trong tác phẩm "Chủ nghĩa tư bản phát triển ở Nga" phân tích sự giải thể của
công xã nông thôn dẫn đến một sự phân hóa và phân tầng xã hội của nông thôn, tới sự
mở rộng sản xuất hàng hóa và do đó tới chủ nghĩa tư bản.
Tư tưởng cơ bản của Lênin ở đây là nhấn mạnh tới tầm quan trọng của sự giải thể
nền sản xuất truyền thống và sản xuất hàng hóa là con đường dẫn đến phát triển. Ông còn
nhấn mạnh đến sự xuất hiện một thứ chủ nghĩa tư bản trong nông nghiệp tức là phát triển
một nền nông nghiệp thương phẩm.
- Sau Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, đất nước Xô viết bắt tay vào xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Nhưng nội chiến lại xảy ra. Chính sách "Cộng sản thời chiến" được
thực thi trong thời gian này, đặc điểm nổi bật là dùng chính sách "trưng thu lương thực".
Nội chiến kết thúc nước Nga rơi vào một cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng
đặc biệt là ngành nông nghiệp bị giảm sút rất nhiều so với trước chiến tranh. Là người rất
nhạy cảm về chính trị và kinh tế, đã sớm nhận ra sự suy sụp không tránh khỏi của nền
kinh tế nếu cứ duy trì "chính sách cộng sản thời chiến". Mùa xuân 1921 Người đã đề ra
"chính sách kinh tế mới" hay mô hình NEP như một chiến lược quá độ dần dần sang chủ
nghĩa xã hội.



+ Về tư tưởng: Nhanh chóng khắc phục sự khủng hoảng kinh tế và chính trị của
nước Nga lúc này. Khơi dậy tính năng động trong nông nghiệp và nông dân sau đó đến
tiểu thủ công nghiệp và các ngành kinh tế khác qua động lực lợi ích kinh tế, chuyển chế

độ trưng thu lương thực sang chế độ thuế lương thực.
+ Về biện pháp:
- Thiết lập quan hệ hàng hóa tiền tệ giữa Nhà nước và nông dân, giữa công
nghiệp và nông nghiệp, giữa công nhân và nông dân.
- Khôi phục và tổ chức nền sản xuất công nghiệp cho phù hợp với yêu cầu của
công nhân và nông dân.
- Coi thương nghiệp là "mắt xích đặc biệt" để phục vụ thực hiện những nhiệm vụ
phát triển nông nghiệp, liên kết công - nông nghiệp.
- Thực hiện hạch toán kinh tế. Hướng hoạt động tài chính tín dụng vào việc khôi
phục phát triển nông nghiệp.
- Sử dụng sức mạnh của nền kinh tế nhiều thành phần thực hiện rộng rãi các hình
thức kinh tế quá độ của chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Vấn đề hợp tác hóa nông nghiệp: theo nguyên tắc tự nguyện, tiến hành từ thấp
đến cao và quản lý dân chủ.
Tóm lại: Chiến lược quá độ dần sang chủ nghĩa xã hội trong NEP chính là "bắt
đầu từ nông dân", đây là đột phá khẩu để khôi phục và thúc đẩy kinh tế hàng hóa trong
nông nghiệp phát triển. Một tiền đề cho sự phát triển kinh tế - xã hội và sự đứng vững của
chính quyền Xô viết.
- Kinh tế học hiện đại
Kinh tế học hiện đại là một trong những trường phái kinh tế lớn nhất hiện nay,
gồm nhiều nhà kinh tế học ở các nước tư bản phát triển. Lý thuyết kinh tế của họ giải
quyết các vấn đề của nền kinh tế thị trường hiện đại. Đặc trưng của kinh tế học hiện đại là
dùng phương pháp toán học để mô tả và tham gia điều hành nền kinh tế. Lý thuyết "bàn
tay vô hình" của A.Smith là nguyên lý chi phối trong các nền kinh tế hoạt động theo cơ



chế thị trường. Khi trình độ xã hội hóa cao của sản xuất làm cho nền kinh tế thị trường có
nguy cơ thất bại, thuyết "bàn tay hữu hình" của Keynes ra đời nhằm cứu nguy cho chủ
nghĩa tư bản. Sự can thiệp của Nhà nước vào kinh tế cho phép kiểm soát được chu kỳ

kinh tế và làm cho nền kinh tế tăng trưởng. Sau một thời gian áp dụng rộng rãi học thuyết
của Keynes, những nhược điểm của học thuyết bộc lộ ra, đó là sự can thiệp quá sâu của
Nhà nước vào nền kinh tế. Những biện pháp can thiệp của Nhà nước làm cho cơ chế linh
hoạt vốn có của thị trường bị sơ cứng. Sự phục hồi của trường phái tự do kinh doanh,
trường phái thể chế đã phê phán mạnh mẽ lý thuyết của Keynes và giúp cho chủ nghĩa tư
bản thích ứng với bước phát triển mới của nó. ở đây chúng ta lưu ý tới trường phái thể
chế mới vì đối tượng nghiên cứu của nó khác hẳn các trường phái lý thuyết kinh tế tư bản
khác. Trường phái này đưa yếu tố "thể chế ", yếu tố "kết cấu" vào trong quá trình phân
tích xã hội tư bản. Trường phái này cho rằng hệ thống kinh tế chỉ là một bộ phận của tổng
hợp nhiều thể chế trong nền văn hóa của con người, do đó nghiên cứu giải quyết vấn đề
phát triển phải nghiên cứu cả tổng thể thể chế xã hội. Vai trò của Nhà nước trong đời
sống kinh tế là kế hoạch hóa, kiểm soát nền kinh tế bằng các chính sách để khắc phục
những khuyết tật của thị trường.
Như vậy kinh tế học hiện đại không trực tiếp đề cập tới vấn đề nông nghiệp trong
phát triển kinh tế nhưng trong các luận điểm của nó đã chỉ ra cách thức để phát triển đó là
nền kinh tế thị trường có sự can thiệp của Nhà nước ở một mức độ nhất định. Việc
chuyển sang kinh tế thị trường ở những nước kinh tế kém phát triển, trong đó nông
nghiệp là nền tảng thì vai trò của Nhà nước đặc biệt quan trọng. Những thay đổi thể chế
trong lĩnh vực nông nghiệp là hết sức cần thiết để gạt bỏ những vật cản bám rễ sâu trong
các xã hội này. Thực tiễn lịch sử cho thấy những bài học thành công trong việc chuyển
nền kinh tế nông nghiệp kém phát triển trở thành các nền kinh tế nông nghiệp hàng hóa
chính là từ những bước khởi đầu của sự thay đổi chính sách đối với nông nghiệp.
Tóm lại: Trên đây là những tư tưởng cơ bản của các lý thuyết kinh tế. Các lý
thuyết kinh tế kể trên có những quan điểm khác nhau về vai trò của nông nghiệp trong
phát triển kinh tế:



- Hầu hết các quan điểm đều cho rằng kinh tế nông nghiệp có vai trò quan trọng
trong quá trình phát triển kinh tế, do đó muốn phát triển kinh tế xã hội cần phải chú ý tới

phát triển kinh tế nông nghiệp.
Trong số những lý thuyết đó còn có thuyết phân tích sâu hơn: cách làm thế nào
để kinh tế nông nghiệp phát triển và đi từ đâu.
Ngoài ra những lý thuyết không trực tiếp đề cập tới vấn đề kinh tế nông nghiệp,
nhưng từ những quan điểm của các lý thuyết này đã đưa ra những gợi ý cho sự phát triển
kinh tế nông nghiệp, chẳng hạn:
- Lưu ý tới các "cực tăng trưởng" trong nông nghiệp.
- Chú ý tới lợi thế so sánh của nông nghiệp trong trao đổi quốc tế tức chú ý tới
những nông sản xuất khẩu đem lại ngoại tệ.
- Lưu ý tới sự thay đổi cơ chế, tác động của nó tới sự phát triển của kinh tế nông
nghiệp.
Việc chắt lọc những ý tưởng trong các lý thuyết kinh tế trên là hết sức cần thiết
để hiểu biết và vận dụng vào quá trình đổi mới kinh tế nông nghiệp, phát triển nông
nghiệp ở Việt Nam hiện nay.
1.1.3. Kinh nghiệm về phát triển kinh tế nông nghiệp ở một số nước trên thế
giới
Nước ta phát triển kinh tế xã hội có những điều kiện bên ngoài và bên trong khác
với các nước đã hoàn thành công nghiệp hóa. Tuy vậy, nghiên cứu những bài học lịch sử,
nhất là về phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn lại trở nên cần thiết cho sự sáng tạo
của nước ta, tránh được những giáo điều sao chép và ảnh hưởng của chủ nghĩa kinh
nghiệm trong hoạt động thực tiễn.
Trong vấn đề này, chúng tôi chú ý đến bài học phát triển kinh tế nông nghiệp
nông thôn của các nước quanh ta và cả những bài học ở những nước xã hội chủ nghĩa
trước đây.
+ Kinh nghiệm về phát triển nông nghiệp nông thôn ở các nước châu á



* Kinh nghiệm Hàn Quốc
Nước này mở đầu công nghiệp hóa vào cuối thập kỷ 50, đầu thập

kỷ 60 đã hoàn thành công nghiệp hóa khoảng 30 năm. Bài học tổng quát của Hàn Quốc
về chính sách nông nghiệp nông thôn trong công nghiệp hóa là giải quyết mối quan hệ
giữa kinh tế với chính trị ở nông thôn, giữa công nghiệp với nông nghiệp.
- Lần thứ nhất, với chính sách "hy sinh" nông nghiệp (kèm giá nông sản thấp hơn
giá thành) để thực hiện công nghiệp hóa, làm cho mức sống nông thôn giảm sút, nên đã
gây ra làn sóng di dân từ nông thôn ra thành thị (khoảng 1,3 triệu người) từ 1955-1960.
Bối cảnh đó đã là nhân tố đưa đến cuộc đảo chính quân sự của Pắc Chung Hy (5-1961).
Chính quyền mới đã thi hành nhiều chính sách có lợi cho nông nghiệp nông thôn, chủ
yếu là về tài chính tín dụng, nên đã ổn định nông nghiệp nông thôn và tạo ra thị trường
nội địa rộng lớn cho công nghiệp hóa, cải thiện đời sống cho hàng chục triệu nông dân.
- Lần thứ hai, khi chuyển hướng thực hiện chiến lược công nghiệp hóa hướng về
xuất khẩu, chính quyền thực hiện trả lương thấp cho công nhân và trở lại kìm giá nông
sản, hạ thấp mức sống của nông dân nông thôn. Vì vậy, một làn sóng mới chừng 1,4 triệu
cư dân nông thôn lại đổ ra thành thị, gây nhiều khó khăn cho đô thị. Bối cảnh đó đã thúc
đẩy một cuộc nổi dậy tự phát của dân chúng vào tháng 8-1971.
Do sức ép bên trong và bên ngoài (quan hệ Nam - Bắc Triều Tiên) Chính phủ
buộc phải trở lại vấn đề nông nghiệp nông thôn với "Chương trình phát triển nông thôn"
gồm bốn nội dung chính:
+ Tăng vốn vay cho nông dân (từ 1,3 tỷ Won năm 1969 lên 78 tỷ Won năm
1974;
+ Mua ngũ cốc với giá cao ở nông thôn và bán giá hạ cho thành thị;
+ Thay giống lúa cũ bằng giống lúa mới năng suất cao;
+ Khuyến khích xây dựng hợp tác xã sản xuất và đội lao động sửa chữa đường
xá, cầu cống, nhà ở.



Chính sách này có những kết quả tích cực, nhưng sau đó đã bộc lộ nhược điểm
trợ giá mua lúa gạo cao đã gây ra thâm hụt ngân sách lớn, xây dựng hợp tác xã và đội lao
động theo mệnh lệnh hành chính khiến nông dân bất mãn. Đó là bối cảnh gây ra tình hình

chính trị - xã hội căng thẳng, đưa đến cuộc đảo chính quân sự của Chun Đô Hoan vào 12-
1979. Tiếp đó, chịu sức ép của chính sách ngoại thương với Mỹ, đã làm cho nông nghiệp
Hàn Quốc đình đốn. Từ năm 1975-1985 bình quân thu nhập của một hộ nông dân tăng
6,6 lần, trong khi số nợ mà họ đi vay tăng 63 lần.
- Tình hình chính trị căng thẳng đã buộc Chính phủ phải đưa ra "kế hoạch tổng
thể về phát triển nông nghiệp nông thôn" tháng 4-1989 và đề ra "Mười năm cải tiến cơ
cấu nông thôn" nhằm công nghiệp hóa nông nghiệp, đào tạo lại nguồn nhân lực ở nông
thôn, mở rộng quy mô các nông trại, nâng cao đời sống dân cư nông thôn lên ngang với
mức bình quân của một hộ làm công ăn lương ở đô thị.
* Kinh nghiệm Thái lan
Nhìn lại quá trình cải cách, công nghiệp hóa của Thái Lan mấy thập kỷ qua, có
thể rút ra mấy vấn đề:
- Là nước xuất khẩu gạo lớn nhất châu á, nhưng phần lớn nông dân nhiều thời kỳ
lâm vào thiếu đói, vì 85% số hộ nông dân không có ruộng đất, chịu lĩnh canh và làm
thuê. Giai cấp địa chủ chống lại chính sách hạn chế tập trung ruộng đất của Chính phủ.
- Thực hiện chiến lược công nghiệp hóa, đã tập trung 95% nguồn vốn Nhà nước
cho xây dựng cơ sở hạ tầng và công nghiệp, nên coi nhẹ phát triển kinh tế nông nghiệp
nông thôn và bảo vệ tài nguyên.
- Tập trung xây dựng công nghiệp ở một số đô thị (80% cơ sở công nghiệp ở
Băng Cốc và phụ cận) đã phá hủy sự cân bằng về bố trí không gian lãnh thổ, đưa đến mở
rộng sự ngăn cách về trình độ phát triển giữa các vùng, nhất là đô thị với nông thôn. Phần
lớn nông dân bị bần cùng hóa, đưa đến phong trào đấu tranh của nông dân.
- Tình hình trên là một trong những nhân tố dẫn tới khủng hoảng chính trị - xã
hội (5 Chính phủ thay nhau trong vòng 1973-1980). Về sau, nhờ đề xuất của một nhóm
nhà khoa học xã hội hàng đầu, Chính phủ đề ra chiến lược mới "Chiến lược phát triển có



lựa chọn", đặt trọng tâm vào phát triển nông nghiệp và nông thôn, tạo tiền đề vững chắc
cho công nghiệp hóa, trong đó khâu then chốt là phát triển công nghiệp chế biến lương

thực, thực phẩm như sợi dây liên kết công nghiệp với nông nghiệp, nhờ đó đã lấy lại thế
cân bằng trong phát triển kinh tế trong thập kỷ 80.
Như vậy bài học của Thái Lan cũng xoay quanh mối quan hệ nông nghiệp với
công nghiệp, nông thôn với đô thị. Mối quan hệ này giải quyết như thế nào tùy thuộc vào
giai cấp cầm quyền. Do đó, vấn đề hệ thống chính trị phải trở thành nhân tố bên trong của
sự phát triển, chứ không phải là nhân tố bên trên, bên ngoài.
* Kinh nghiệm Đài Loan
Do địa vị chính trị đặt ra, đòi hỏi chính quyền Đài Loan tìm ra chính sách kinh tế
- xã hội phù hợp để tồn tại. Sức ép đó có lẽ là động lực quan trọng để Đài Loan trở thành
mô hình giải quyết quan hệ giữa công nghiệp hóa với nông nghiệp - nông thôn thành công
hơn cả trong số những nước công nghiệp mới. Chỉ trong vòng 3 thập kỷ, Đài Loan đã từ
một vùng nông nghiệp kém phát triển trở thành một trong mấy "con rồng" châu á. Từ
năm 1952-1990, sản lượng nông nghiệp tăng 4,5 lần, về giá trị tăng từ 700 triệu USD lên
12 tỷ USD, riêng nông sản xuất khẩu tăng từ 114 triệu USD lên hơn 4 tỷ USD.
- Đem lại ruộng đất cho nông dân, tạo điều kiện hình thành các trang trại gia đình
quy mô nhỏ. Đến năm 1991, tổng số trang trại lên đến 823.256 với quy mô trung bình là
1,08 ha.
Đa dạng hóa sản xuất nông nghiệp và công nghiệp hóa nông thôn. Nhờ đó nông
dân có tích lũy để thực hiện nền nông nghiệp đa canh, đồng thời mấy chục vạn lao động
nông nghiệp đã làm ngành nghề khác. Nhờ cơ sở nông nghiệp nông thôn phát triển đã tạo
môi trường vì điều kiện cho sản lượng công nghiệp tăng 50 lần từ 1952-1990.
- Đầu tư cho kết cấu hạ tầng kỹ thuật và cả hạ tầng xã hội để phát triển nông
nghiệp nông thôn. Nhờ đó kinh tế thị trường nông thôn rộng khắp, điều kiện sản xuất và
sinh hoạt ở nông thôn khác trước, giáo dục bắt buộc từ 6-9 năm, tỷ lệ tăng dân số giảm
dần (từ 3,2% năm 1962 xuống 1,5% năm 1985).



- Chú ý phát triển đồng đều giữa các vùng trong nước, không tập trung quá mức
vào các khu công nghiệp và đô thị. Tính đến đầu thập kỷ 80, Đài Loan chỉ có 17,7% cơ

sở công nghiệp đặt ở 5 thành phố lớn (trái lại, ở Thái Lan trên 80% cơ sở công nghiệp tập
trung ở Băng Cốc ), 42% đặt ở vùng phụ cận, 32% đặt ở nông thôn. Đó là một không
gian hợp lý của công nghiệp hóa. Nhờ đó, mức thu nhập không chênh lệch lớn: 20% dân
số giàu nhất, dân số nghèo nhất thì năm 1950 là 15/1 đã giảm xuống 4/1 vào những năm
1990.
- Phát triển cách sử dụng ruộng đất phù hợp với yêu cầu phát triển nông nghiệp
từng bước. Công nghiệp hóa nông nghiệp đòi hỏi mở rộng quy mô sản xuất để ứng dụng
tiến bộ khoa học kỹ thuật mà không đụng chạm đến quyền sở hữu ruộng đất trang trại,
nhưng chuyển quyền sử dụng cho người khác mở rộng quy mô canh tác. Phương thức này
vốn là sáng kiến của nông dân, sau được thể chế hóa trong "Luật phát triển nông nghiệp"
(1983).
Để mở rộng quy mô sản xuất, ngoài phương thức ủy thác, nông dân còn áp dụng
hình thức làm chung các công việc như làm đất, thu hoạch, mua bán giữa các hộ, hình
thức tổ chức dịch vụ, hội khuyến nông trở thành phổ biến. Một số nơi đã tổ chức hợp tác
xã sản xuất thử nghiệm, nhưng không được nông dân hưởng ứng.
* Ngoài kinh nghiệm các nước nói trên, trong định hướng chính sách nông nghiệp
của các nước châu á đang phát triển cũng cho thấy mấy hướng đi.
- Coi trọng phát triển nông nghiệp như một bảo đảm cho ổn định kinh tế xã hội.
Từ đó có giải pháp đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp cho thị trường trong nước và xuất
khẩu, nhằm tiết kiệm ngoại tệ vì bảo đảm được nông phẩm, vừa gia tăng nguồn thu ngoại
tệ vì có xuất khẩu. Hơn nữa, phát triển nông nghiệp toàn diện thì mới bảo đảm ổn định kinh
tế xã hội nông thôn.
- Nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm nhằm cải thiện cơ cấu và chất lượng sản
phẩm nông nghiệp. Từ đó đòi hỏi hiện đại hóa nông nghiệp và đa dạng hóa sản phẩm.
- Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước theo ba hướng: Phát triển hoạt động đối
ngoại nhằm khơi thông và mở rộng thị trường, sử dụng mềm dẻo hàng rào thuế quan; Hỗ



trợ ổn định giá nông sản, nhất là mặt hàng chiến lược, đồng thời khuyến khích nông dân

đầu tư dài hạn và có lợi; Chính phủ xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư nghiên cứu khoa học
và đào tạo nhân lực, đồng thời cấp phát tín dụng cho nông dân vay.
* Bài học về phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn ở các nước XHCN trước
đây
Nét nổi bật và phổ biến trong chính sách phát triển kinh tế nông nghiệp nông
thôn ở các nước này là đưa nông dân đi vào con đường hợp tác hóa dưới dạng các hình
thức nông trang, nông trường, hợp tác xã hay công xã nhân dân tùy theo mỗi nước.
Mục đích giống nhau của các hình thức ấy là xóa bỏ mọi hình thức bóc lột trong
nông nghiệp nông thôn và ngăn chặn sản sinh mầm mống tư bản chủ nghĩa. Từ mục đích
ấy để giải quyết vấn đề quan hệ sản xuất trong nông thôn: Chuyển từ sở hữu cá thể và tư
nhân hoàn toàn sang sở hữu tập thể ruộng đất và công cụ sản xuất; thực hiện chủ nghĩa
bình quân trong phân phối nhằm ngăn chặn phân hóa giàu nghèo; áp dụng thể chế quản lý
do trên quyết định.
Về mặt xã hội: vai trò nhà nước có ý nghĩa quyết định về mặt giáo dục, y tế, công việc
làm, nhà ở Nhờ đó tỷ lệ người biết chữ trong nông thôn gần như đạt 100%, số người được
học lên các cấp, kể cả đại học ngày càng nhiều. Sức khỏe được chăm sóc, hầu hết miễn phí.
Nhìn chung, nông thôn không có tình trạng đói nghèo, nhưng cũng không có người giàu. Đời
sống nông thôn ổn định, chầm chậm trôi đi, lặp đi lặp lại những kinh nghiệm đã biết.
Sai lầm cơ bản trong chính sách này là ở: Thay đổi quan hệ sản xuất nhưng
không dựa trên sự liên tục giải phóng và phát triển lực lượng sản xuất. Hình thức quan hệ
sản xuất ấy đến lúc không phù hợp, đã trở thành cản trở nông nghiệp nông thôn phát
triển, mặc dù có một số nước đã công nghiệp hóa nông nghiệp.
- Giải quyết vấn đề xã hội đã kéo dài đến mức không gắn liền với phát triển kinh
tế. Vì vậy cơ cấu xã hội dân cư đến lúc không gắn với kết quả của chuyển dịch cơ cấu và
phân công lao động trong kinh tế thị trường.
- Phát triển kinh tế nông nghiệp nông thôn hầu như chỉ là công việc của nhà nước
chứ không còn là sự nghiệp của nhân dân. Vì thế mặc dù có lúc được phúc lợi bao cấp




tốt, học hành nhiều, nhưng mức sống lại thấp. Chế độ bao cấp kinh tế và giáo dục tư
tưởng đã tạo ra tính thụ động theo kế hoạch có sẵn, và tâm lý chịu ổn bề trên.
- Không hình thành được động lực cho dân trong sự nghiệp phát triển nông thôn,
người dân không thể làm chủ nông thôn như mục tiêu đã định. Vì thế trong hệ thống quản
lý nông nghiệp nông thôn sản sinh trì trệ, tham nhũng, lộng quyền và thoái hóa.
Như vậy, chính sách kinh tế nông nghiệp nông thôn ấy là xa rời cả về lý luận và
thực tiễn, nên không đạt được mục tiêu kinh tế và cả mục tiêu xã hội.
1.2 Vai trò kinh tế nông nghiệp trong sự phát triển kinh tế nói chung và ở
tỉnh Kiên Giang
Nông nghiệp là khu vực kinh tế truyền thống, tập trung tuyệt đại đa số lao động
của xã hội; nó chịu ảnh hưởng to lớn của điều kiện đất đai, khí hậu và là khu vực duy
nhất sản xuất ra lương thực - thực phẩm. Do những đặc điểm nổi bật đó, kinh tế nông
nghiệp có vai trò hết sức quan trọng đối với sự phát triển của toàn bộ nền kinh tế, đồng
thời bản thân nó chịu ảnh hưởng to lớn của quá trình phát triển.
Nông nghiệp là thị trường hết sức quan trọng đối với cả tư liệu tiêu dùng. Với
78,5% dân số (hơn 50 triệu người) sống ở nông thôn, khu vực này là thị trường có nhiều
tiềm năng. Song điều đó còn phụ thuộc rất lớn vào chính sách thu nhập của Nhà nước.
Một chính sách thu nhập không đúng đắn, bất lợi cho nông nghiệp, thu hẹp lợi nhuận của
nông dân, tất yếu sẽ làm giảm quy mô tích lũy và tiêu dùng ở khu vực nông thôn sẽ dẫn
tới một kết quả là thu hẹp khu vực công nghiệp và dịch vụ.
- Hệ sinh thái của nước ta phụ thuộc rất lớn vào nông nghiệp. Trong sản xuất,
nông nghiệp sử dụng một khối lượng hóa chất lớn gồm hàng triệu tấn phân bón, hàng
chục nghìn tấn thuốc trừ sâu, diệt cỏ. Hoạt động kinh tế nông nghiệp gần như trải rộng
trên hầu hết lãnh thổ, tác động mạnh mẽ tới sự hình thành hệ sinh thái từ nguồn nước,
không khí, thảm thực vật tới đất đai. Vì vậy, giải quyết vấn đề sinh thái phải gắn liền với
chính sách phát triển nông nghiệp.
- ổn định chính trị - xã hội là nhân tố quan trọng bậc nhất đối với sự phát triển.
Song, bản thân vấn đề này lại phụ thuộc vào những yếu tố khác, trong đó có vấn đề nông




nghiệp. Là ngành kinh tế duy nhất cung cấp lương thực - thực phẩm đáp ứng nhu cầu cơ
bản nhất và lớn nhất của tiêu dùng xã hội, nông nghiệp tác động trực tiếp tới trạng thái
chính trị - xã hội. Mặt khác, nó là khu vực kinh tế cung cấp 50% toàn bộ thu nhập quốc
dân, và thu nhập của 80% dân số nước ta phụ thuộc vào nông nghiệp. Chính vì vậy, sự
thịnh, suy của kinh tế nông nghiệp tác động mạnh mẽ tới tâm trạng chính trị của đa số
dân cư.
Đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp để nó có thể cung cấp lương thực - thực phẩm
nuôi sống toàn bộ dân cư, đồng thời có sản phẩm thặng dư xuất khẩu là một giải pháp có
ý nghĩa to lớn cả về kinh tế, chính trị, xã hội. Thực tế ở nước ta và các nước khác nông
nghiệp đều là cơ sở kinh tế cho sự ổn định xã hội - tiền đề quan trọng của sự phát triển và là
bước đi ban đầu cho mọi sự phát triển.
Về vai trò của nông nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội, Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VII của Đảng cũng khẳng định: "Phát triển nông, lâm, ngư nghiệp gắn
với công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn
mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế - xã hội". Song, phải
thấy rằng, đề cao tuyệt đối nông nghiệp cũng sai lầm như coi nhẹ nông nghiệp và đều làm
suy yếu nền kinh tế quốc dân. Công nghiệp và dịch vụ mới có thể tạo nên sự phát triển
mạnh và mức tăng trưởng cao. Điều cần khẳng định ở đây là, trong tình trạng lạc hậu
hiện nay của nước ta, phải biết dựa vào nông nghiệp để xác lập những điều kiện ban đầu
cho sự phát triển. Về tầm cỡ quốc gia, theo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới,
muốn công nghiệp hóa nhanh và phát triển kinh tế thành công, trước hết phải có nền nông
nghiệp mạnh mới đảm bảo tăng trưởng kinh tế, tạo sự phát triển công bằng xã hội, giải
quyết vấn đề về nghèo đói, di cư và nhiều vấn đề khác. Đối với tỉnh Kiên Giang, kinh tế
nông nghiệp phát triển có tác động trên nhiều mặt:
Một là, kinh tế nông nghiệp đã đóng góp rất lớn vào quá trình phát triển kinh tế
của tỉnh Kiên Giang
Kiên Giang với diện tích 6.224,5km
2
, trong đó trên 98% diện tích thuộc khu vực

nông nghiệp. Hiện nay có 80% dân số và 79,8% lao động sống ở vùng nông nghiệp với
sản xuất chính là nông - lâm nghiệp, khai thác và nuôi trồng thủy sản, ngoài ra khu vực



này cũng có điều kiện để phát triển nông nghiệp công nghiệp chế biến và dịch vụ. Nông
nghiệp Kiên Giang đã đóng góp rất lớn vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Trong những năm qua, GDP từ khu vực nông nghiệp chiếm 70% trong GDP của tỉnh,
hàng năm đã sản xuất từ 1,5 - 2 triệu tấn lúa, 25.000 - 30.000 tấn thịt, trên 200.000 tấn
tôm cá các loại trong giai đoạn tới tỷ trọng GDP từ khu vực nông nghiệp sẽ giảm dần
còn 50% GDP toàn tỉnh, nhưng nông nghiệp vẫn đóng vai trò rất quan trọng trong quá
trình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh như: đảm bảo nhu cầu lương thực, thực phẩm,
cung cấp khối lượng hàng hóa lớn về nông hải sản.
Hai là, tạo nguồn thu ngoại tệ quan trọng thông qua xuất khẩu hàng nông lâm
thủy sản
Hàng năm tỉnh cung cấp một lượng lớn lúa hàng hóa từ, 800.000 đến 1 triệu tấn
phục vụ cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Do vậy hàng xuất khẩu nông sản chủ yếu
là gạo, chiếm tỷ trọng từ 50% - 70% trong tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của tỉnh, góp
phần tiêu thụ sản phẩm ở nông thôn, tăng nguồn thu ngoại tệ cho tỉnh. Kim ngạch xuất
khẩu hàng nông sản năm 1998 đạt 19,4 triệu USD, trong đó gạo 76.224 tấn, tăng gấp 4
lần so với năm 1990. Về giá gạo xuất khẩu còn phụ thuộc nhiều vào thị trường và giá gạo
thế giới cũng như chất lượng gạo và công tác tiếp thị của các doanh nghiệp nhà nước.
Tình hình sản xuất gạo 1990 - 1998 của tỉnh

Hạng mục 1990 1992 1993 1995 1996 1997 1998
Lượng gạo xuất khẩu
(tấn)
19.39
7
23.02

2
30.73
8
38.81
6
159.27
7
218.46
1
76.22
4
Giá trị (triệu USD) 4,65 4,80 5,83 11,0 43,4 51,9 19,4
Giá bán trung bình
(USD/ tấn)
240 208 190 283 272 238 255
Nhìn chung, lao động xuất nhập khẩu nông sản trong thời gian qua có nhiều cố
gắng nhưng vẫn còn nhiều tồn tại, yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu so với sản lượng hàng



hóa của tỉnh (chỉ xuất được khoảng 20% lượng hàng hóa của tỉnh). Mặt khác, một số sản
phẩm nông sản có khối lượng hàng hóa lớn nhưng chưa xuất khẩu được như tiêu, hạt
điều, hột vịt muối, nước dứa cô đặc và đóng hộp. Hàng tư liệu và vật tư phục vụ sản xuất
nông nghiệp như máy móc phân bón, thuốc trừ sâu nhập khẩu còn hạn chế.
Ba là, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho lao động nông thôn, một bộ phận
lao động của xã hội
Năm 1998 dân số tỉnh Kiên Giang là 1.491.998 người, trong đó số dân sống ở
vùng nông thôn là 1.187.367 người chiếm tỷ lệ 79,58%, nguồn lao động 870.625 người
chiếm 58,32% so với số dân toàn tỉnh (trong đó nguồn lao động khu vực nông thôn có
732.334 người chiếm 84,15% lao động).

Theo kết quả điều tra lao động việc làm năm 1997 cho thấy chất lượng lao động
của tỉnh còn thấp, nhất là khu vực nông thôn tỷ lệ lao động không có chuyên môn kỹ
thuật chiếm 70% - 93%; lao động nông nhàn còn lớn, chỉ mới sử dụng 50% quỹ thời gian
trong năm. Nhiệm vụ đào tạo cho lực lượng lao động nông thôn là nhiệm vụ hết sức cần
thiết và bức xúc trong giai đoạn sắp tới. Nhìn chung nguồn lao động ở nông thôn của tỉnh
rất dồi dào, đây là một lợi thế nhưng cũng là sức ép đối với nền kinh tế, tỉnh sẽ có kế
hoạch để đào tạo và giải quyết việc làm cho số lao động nông thôn. Bởi vì đời sống dân
cư nông thôn từng bước có được cải thiện, thu nhập bình quân đầu người tăng, tỷ lệ hộ
nghèo đói giảm đáng kể, bộ mặt nông thôn được thay đổi một bước nhưng đời sống của
một bộ phận dân cư còn gặp nhiều khó khăn, thu nhập bình quân ở khu vực nông thôn
còn thấp khoảng cách xa so với thành thị, tình trạng sang nhượng cầm cố ruộng đất có xu
hướng tăng, nhà ở tạm bợ còn nhiều, tỷ lệ sử dụng điện còn thấp, nước sinh hoạt một số
còn khó khăn, điều kiện về chăm sóc sức khỏe học hành còn hạn chế. Nhìn chung đời
sống vật chất và tinh thần khu vực nông thôn hiện nay còn thấp kém.
Bốn là, nơi bảo vệ làm giàu môi trường sinh thái bền vững
Ngày nay sự tàn phá môi trường tự nhiên, khí hậu đất đai biến động theo chiều
hướng bất lợi - điều kiện ngoại cảnh thay đổi, thì việc cố gắng duy trì một nền nông



nghiệp sinh thái bền vững với đối tượng là sinh vật (cây trồng, vật nuôi ) là thử thách có
tính chất sống còn của nhân loại.
Đối với nước ta nói chung và Kiên Giang nói riêng trong quá trình sản xuất nông
nghiệp, về cơ bản, có hai loại tác động tổng hợp sản sinh ra sản phẩm: tác động của con
người, bao gồm kết cấu hạ tầng, giống cây, giống con các biện pháp kỹ thuật canh tác,
chăn nuôi, công nghệ sau thu hoạch tác động của tự nhiên, bao gồm khí hậu, đất, nước,
rừng và các loại sinh vật tự nhiên. Hai mặt có tính tổng hợp này tác động qua lại lẫn
nhau, qua đó con người khai thác và sử dụng tài nguyên thiên nhiên theo hướng có lợi
cho cộng đồng.
Các tác động tự nhiên, khí hậu thuộc phạm vi rộng lớn phụ thuộc vào trái đất, khí

quyển, bởi tác nhân vũ trụ, đất canh tác, nước tưới cho nông nghiệp, độ che phủ của rừng
cây, các tác động vừa phụ thuộc tự nhiên, vừa phụ thuộc con người. Sức con người (lao
động trí tuệ và khoa học kỹ thuật) càng lớn mạnh càng có khả năng khống chế, hạn chế
được các mặt bất lợi của đất và nước. Đồng thời con người phải bảo vệ quỹ đất nông
nghiệp, nguồn nước và mở rộng diện tích rừng. Đó là điều kiện làm cơ sở cho việc bảo vệ
làm giàu môi trường sinh thái bền vững.
Chương 2
Thực Trạng KINH Tế NÔNG Nghiệp ở KIÊN GIANG
Những NĂM QUA Và Một Số Vấn Đề Đặt RA
Cần Giải Quyết

2.1 Đặc điểm tự nhiên- xã hội có ảnh hưởng trực tiếp đến kinh tế nông
nghiệp ở tỉnh Kiên Giang
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên kinh tế-xã hội ở tỉnh Kiên Giang
a) Ranh giới và vị trí tỉnh Kiên Giang
Tỉnh Kiên Giang nằm ở phía Tây Bắc vùng đồng bằng sông Cửu Long, ranh giới
hành chính được xác định như sau:



* Phía Bắc giáp nước Cộng hòa nhân dân Campuchia.
* Phía Nam giáp các tỉnh Cà Mau và Bạc Liêu.
* Phía Đông giáp các tỉnh An Giang, Cần Thơ.
* Phía Tây giáp Vịnh Thái Lan.
Theo ranh giới này, Tỉnh Kiên Giang có diện tích tự nhiên 6.224,5 km
2
, bao gồm 2
huyện đảo (Phú Quốc, Kiên Hải) và 11 huyện thị ở đất liền (thị xã Rạch Giá, Hà Tiên, các
huyện: Kiên Lương, Hòn Đất, Tân Hiệp, Châu Thành, Giồng Riềng, Gò Quao, An Biên, An
Minh, Vĩnh Thuận), trải rộng trên 4 vùng sinh thái: Tứ giác Long Xuyên, Tây sông Hậu, bán

đảo Cà Mau và hải đảo.
Tỉnh có trên 200 km bờ biển ở đất liền, 105 hòn đảo, 56,8 km đường biên giới quốc
gia và nhiều cảnh quan nổi tiếng, cùng với ưu thế về vị trí địa lý và tài nguyên phong phú đã
tạo cho Kiên Giang có các lợi thế nổi bật nghề đánh bắt hải sản, phát triển nông nghiệp, công
nghiệp và thương mại - du lịch.
b) Điều kiện tự nhiên
* Khí hậu:
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa gần xích đạo với những đặc trưng
chính như sau:
Nắng nhiều: Trung bình từ 6,5 - 7,5 giờ/ngày, có chiều hướng tăng dần theo trục
từ Tây sang Đông. Năng lượng bức xạ tổng cộng lớn, trung bình từ 150-160kcal/cm
2

năm. Nhiệt độ cao và ôn hòa, nhiệt độ trung bình năm từ 27 - 28
0
C, tháng có nhiệt độ
trung bình thấp nhất là tháng 12 và tháng giêng nhiệt độ cũng nằm trong khoảng 25 -
26
0
C. Tháng có nhiệt độ cao nhất là tháng 4 và tháng 5 nhiệt độ trung bình cũng chỉ
khoảng từ
28-29
0
C.

Nắng nhiều, bức xạ dồi dào, nhiệt độ cao và ít có thiên tai là những thuận lợi
rất cơ bản cho phát triển nông nghiệp của Kiên Giang nói riêng và đồng bằng sông Cửu
Long nói chung.




Lượng mưa lớn, mùa mưa đến sớm và kết thúc muộn hơn các tỉnh khác ở đồng
bằng sông Cửu Long. Hạn chế rõ nét trong chế độ mưa ở đây là trong thời kỳ đầu của
mùa mưa thường hay gặp hạn. Hạn đầu vụ ít ảnh hưởng với các vùng phù sa được tưới
nhưng lại rất nghiêm trọng với đất mặn, đất phèn nằm ở cuối nguồn nước ngọt. Mưa
nhiều trong thời kỳ cuối mùa mưa cũng có tác hại do gây ngập úng, nhất là gặp các năm
lũ lớn thì tác hại của mưa nhiều trong thời kỳ này càng rõ. Vì vậy để tăng vụ và sản xuất
ổn định cần phải đặc biệt coi trọng biện pháp cung cấp nước vào mùa khô và tiêu tưới
trong mùa lũ.
* Nguồn nước - thủy văn:
+ Nguồn nước:
Nước mặt:
- Sông Hậu là nguồn cung cấp nước mặt chủ yếu cho Kiên Giang, theo số liệu
của Phân viện khảo sát và quy hoạch thủy lợi Nam bộ lưu lượng sông Hậu đo tại đầu
nguồn (Châu Đốc) và cuối nguồn (Cần Thơ) như sau:
Bảng 1: Lưu lượng nước sông Hậu tại Châu Đốc và Cần Thơ

Chỉ tiêu Đơn vị Châu Đốc Cần Thơ
Lưu lượng trung bình
Lưu lượng nhỏ nhất
Lưu lượng lớn nhất
m
3
/s
m
3
/s
m
3
/s

2.400
300
5.400
835

13.680
- Nước sông Hậu được đưa về Kiên Giang qua các kênh trục chính như: Vĩnh Tế,
Tri Tôn, Mười Châu Phú, Ba Thê, Kiên Hảo - Chóc Năng Gù, Rạch Giá - Long Xuyên,
Đòn Dông (kênh Tròn), Cái Sắn, Thốt Nốt, Ô Môn, các kênh HK, kênh Xà No. Khi được
nạo vét và mở rộng có thể cung cấp nước tưới cho hầu hết diện tích đất nông nghiệp của
vùng Tây sông Hậu, tứ giác Long Xuyên và phần phía đông của bán đảo Cà Mau.
- Chất lượng nước mặt từ nguồn Sông Hậu nhìn chung là tốt, hàm lượng phù sa
trung bình 250g/m
3
. Nhưng phù sa đã bị kết lắng hầu hết ở các khu vực đầu nguồn thuộc



An Giang và Cần Thơ. Hai yếu tố gây ô nhiễm nguồn nước ở đây là phèn và xâm nhập
mặn từ biển Tây.
Bảng 2: Hàm lượng mặn (S) và độ PH trong nước
tại một số khu vực

Trạm Năm
Tháng 4 Tháng 5 Tháng 6 Tháng 7
PH S PH S PH S PH S
Tri Điền
Sóc Xoài
Kiên Bình
Vọng Thê

Vĩnh Điều
Tri Tôn
An Biên
1992
1992
1992
1992
1992
1992
1991
6,2
6,8
6,7
3,5
3,6
4,0
7,0
6,4
7,4
6,2
5,3
0,4
0,3
30,0
3,2
3,9
3,0
4,0
1,6
0,7

23,8
8,6
8,5
19,8
0,4
1,6
0,7
23,8
2,7
3,1
2,5
3,2
3,4
3,7
4,0
9,9
24,1
16,7
0,6
0,4
0,4
17,7
2,8
3,4
3,0
3,3
3,4
3,6
3,7
0,8

2,8
0,9
0,6
0,5
0,4
0,5
+ Vùng bán đảo Cà Mau thường bắt đầu bị xâm nhập mặn từ cuối tháng 11, thời
kỳ từ cuối tháng 12 đến đầu tháng 5 hầu hết các kênh rạch trong vùng bị nhiễm mặn.
+ Vùng tứ giác Long Xuyên và Tây sông Hậu xâm nhập mặn diễn ra từ tháng 4
đến tháng 6 đầu tháng 7, trong đó tháng 4 có tần suất lớn và mức độ nặng nhất, trong
những năm bình thường mặn xâm nhập sâu từ
7 - 8km (tính từ cửa kênh). ứng năm hạn nặng nước mặn xâm nhập vào sâu từ 11 - 12
km.
Nguồn nước ngầm:
Theo số liệu của chương trình cấp nước đô thị Kiên Giang, trong phạm vi của
tỉnh có 7 phức hệ chứa nước:
(1) Phức hệ chứa nước các trầm tích Hôloxem (Q.IV)

×