Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

LUẬN VĂN: Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.78 MB, 92 trang )















LUẬN VĂN:


Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam






















mở đầu


1. Tính cấp thiết của đề tài
Quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta, từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung
quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, doanh nghiệp
nhà nước luôn được coi là bộ phận trọng yếu của kinh tế nhà nước, là lực lượng vật chất
quan trọng để kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
ở nước ta trong 20 năm đổi mới, nhất là từ sau Nghị quyết Trung ương 3 khoá IX,
hệ thống doanh nghiệp nhà nước đã được sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả và sức cạnh
tranh, đã có những đóng góp đáng kể vào GDP, tổng thu ngân sách nhà nước và thực hiện
các nhiệm vụ chính trị - xã hội khác. Tuy vậy, hệ thống doanh nghiệp nhà nước ở nước ta
vẫn còn nhiều yếu kém, sức cạnh tranh thấp, Vì thế, trong Văn kiện Đại hội lần thứ X
của Đảng đã đưa ra chủ trương: "Tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả
và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước" [18, tr.232].
Đối với tỉnh Quảng Nam, một tỉnh vừa mới được chia tách từ đơn vị hành chính
Quảng Nam - Đà Nẵng. Từ năm 1997 đến nay doanh nghiệp nhà nước của tỉnh đã có
những bước phát triển và đóng góp nhất định vào sự phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Song, các doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Nam hầu hết là quy mô vừa và nhỏ, trừ một số
ít doanh nghiệp đang có nhiều nỗ lực để duy trì khả năng hoạt động trong điều kiện chưa
hội đủ các yếu tố của nền kinh tế thị trường, thì phần lớn các doanh nghiệp nhà nước đang

trong tình trạng sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, cần phải có giải pháp sắp xếp, đổi mới
và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh.
Vì thế, đề tài nghiên cứu “Hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà
nước tỉnh Quảng Nam” là cần thiết và có ý nghĩa lý luận, thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có nhiều tác giả, nhiều nhà lý luận nghiên cứu về hiệu quả sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng, nghiên cứu về các giải

pháp đổi mới hoạt động của doanh nghiệp nhà nước dưới các góc độ khác nhau, tiêu biểu
như:
- Những giải pháp nâng cao hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước - tác giả PGS.TSKH
Đỗ Nguyên Khoát đăng trên tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 5/2004.
- Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp nhà
nước ở nước ta hiện nay của Đoàn Ngọc Phúc, đăng trên tạp chí Khoa học Chính trị, số 6
năm 2002.
- Nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam của TS Lê Khoa,
đăng trên tạp chí Phát triển kinh tế, tháng 4/2002.
- Thực hiện thắng lợi chủ trương của Đảng về nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà
nước của tác giả Hồ Xuân Hùng đăng trên tạp chí Cộng sản, số 8 tháng 4/2004.
- Một số giải pháp đổi mới quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nhà nước của Phạm
Đức Trung đăng trên tạp chí Quản lý nhà nước, số 11 năm 2003.
- Nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội
nhập của TS Nguyễn Đăng Nam đăng trên tạp chí Tài chính, số 1+2 năm 2003.
- Để kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay của PGS.TS Nguyễn Đình Kháng.
- Các giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả của hệ thống doanh nghiệp nhà nước ở
nước ta của GS.TS Chu Văn Cấp.
- Nâng cao hiệu quả hoạt động của Công ty nhà nước trong quá trình hội nhập của TS
Nguyễn Văn Quảng đăng trên tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 2/2005.
- Nâng cao khả năng cạnh tranh - vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp Việt Nam

tham gia AFTA của Đoàn Nhật Dũng đăng trên tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 281 tháng
10/2001.
- Tác động của rào cản trong cạnh tranh đối với khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp Việt Nam của Đặng Thành Lê đăng trên tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 304
tháng 9/2003.
- Một số quan điểm chỉ đạo bảo đảm nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp
nhà nước trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Đỗ Huy Hà đăng trên tạp chí Kinh
tế và Dự báo, số 9/2004.

Và rất nhiều công trình khác.
Tuy nhiên cho đến nay vẫn còn ít đề tài nghiên cứu một cách cụ thể và có hệ thống
về hiệu quả sản xuất kinh doanh doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Nam dưới góc độ khoa
học kinh tế chính trị. Do đó, đề tài luận văn này không trùng lặp với các công trình, bài
viết đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
- Nghiên cứu thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam
hiện nay, qua đó đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn
tỉnh Quảng Nam. Trên cơ sở đó, đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản để nâng cao
hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam đến năm 2010.
3.2. Nhiệm vụ
- Khái quát những vấn đề lý luận chung về doanh nghiệp nhà nước, hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp nhà nước và sự cần thiết nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp nhà nước trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta nói chung và ở
Quảng Nam nói riêng.
- Đánh giá thực trạng hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam, những
kết quả và tồn tại, nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế.
- Đề xuất quan điểm, phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả
kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam đến năm 2010.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng
Tất cả các doanh nghiệp nhà nước ở Quảng Nam thuộc sự quản lý nhà nước của
tỉnh, có quan hệ trực tiếp và tác động ảnh hưởng đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội
của địa phương.
4.2. Giới hạn phạm vi và thời gian nghiên cứu
- Đi sâu nghiên cứu các mối quan hệ kinh tế, các định hướng chung, tổng quát, cũng
như các quan điểm liên quan đến việc nâng cao hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà
nước, đề tài không đi vào mặt kỹ thuật, nghiệp vụ cụ thể để nâng cao hiệu quả kinh doanh của
doanh nghiệp nhà nước.

- Phạm vi nghiên cứu là các doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam có 100% vốn
nhà nước và hoạt động kinh doanh trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
- Không nghiên cứu các doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích cũng như các
doanh nghiệp nhà nước của Trung ương và của các tỉnh, thành phố đóng chân và hoạt động
trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
- Thời gian nghiên cứu từ 2001 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan
điểm, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp tổng hợp và các phương pháp phân tích thống kê để xử lý số
liệu và kết quả điều tra khảo sát thực tiễn, đặc biệt là phương pháp tổng kết thực tiễn để rút
ra các bài học kinh nghiệm.
6. Đóng góp khoa học của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ
quan hữu quan của tỉnh hoạch định chính sách, giải pháp cải cách doanh nghiệp nhà nước
của tỉnh nói riêng, phát triển kinh tế - xã hội nói chung, đồng thời ứng dụng hợp lý các giải
pháp đối với các doanh nghiệp nhà nước của tỉnh Quảng Nam đang tồn tại và hoạt động.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn
gồm 3 chương, 6 tiết
Chương 1: Doanh nghiệp nhà nước và hiệu quả kinh doanh.
Chương 2: Thực trạng hoạt động và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà
nước tỉnh Quảng Nam.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao hiệu qủa kinh doanh của doanh
nghiệp nhà nước tỉnh Quảng Nam.


Chương 1
Doanh nghiệp nhà nước và hiệu quả kinh doanh

1.1. Doanh nghiệp Nhà nước và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa
1.1.1. Khái niệm về doanh nghiệp nhà nước
Doanh nghiệp nhà nước được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau ở các nước, do
cách tiếp cận khác nhau về khoa học hoặc do để thực hiện các số liệu thống kê với mục
đích khác nhau.
Theo tổ chức phát triển Công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) doanh nghiệp nhà
nước được định nghĩa là các tổ chức kinh tế thuộc sở hữu nhà nước hoặc do nhà nước kiểm
soát có thu nhập chủ yếu từ việc tiêu thụ hàng hoá và cung cấp dịch vụ. Theo định nghĩa
này, doanh nghiệp nhà nước bao gồm các doanh nghiệp hoàn toàn thuộc sự quản lý của
các Bộ, Ngành, các doanh nghiệp mà nhà nước giữ phần lớn cổ phần, song do sự phân tán
của cổ đông mà nhà nước nắm giữ quyền chi phối.
ở nước ta, khái niệm doanh nghiệp nhà nước trong hệ thống pháp luật Việt Nam
thay đổi qua nhiều thời kì, tương ứng với sự thay đổi về quan niệm đối với sở hữu nhà
nước, thay đổi trong cơ chế quản lý kinh tế. Năm 1995 Nhà nước ta đã ban hành Luật
doanh nghiệp nhà nước và định nghĩa: “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do nhà
nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công
ích nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội do nhà nước giao. Doanh nghiệp nhà nước

có tư cách pháp nhân, có quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt
động kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý. Doanh nghiệp nhà nước
có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở chính trên lãnh thổ Việt Nam” [26, tr.1]. Điểm
mới về những thay đổi trong chính sách và cơ cấu kinh tế ở nước ta quy định bởi nội dung
định nghĩa này được phản ánh:
Thứ nhất, doanh nghiệp nhà nước do Nhà nước đầu tư, thành lập và quản lý, nghĩa
là hoàn toàn thuộc sở hữu nhà nước. Các quy chế hoạt động của doanh nghiệp nhà nước
phải căn cứ vào ý chí của chủ sở hữu. Mối quan hệ giữa nhà nước với người lao động
không đơn thuần là quan hệ nhà nước với chủ thể pháp luật mà còn là quan hệ giữa chủ sở

hữu với người được chủ sở hữu giao quản lý tài sản. Đây là điểm khác biệt đối với doanh
nghiệp tư nhân cũng như các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác.
Thứ hai, doanh nghiệp nhà nước dưới tác động của cạnh tranh và dưới tác động của
các nhu cầu phúc lợi xã hội, an ninh, quốc phòng được phân thành doanh nghiệp nhà nước
hoạt động kinh doanh và doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích. Việc phân chia này
được đưa ra lần đầu tiên và được đề cập trong Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 1995.
Thứ ba, tư cách pháp nhân của doanh nghiệp nhà nước đã xác định tính chất vô hạn
trong quan hệ với các chủ thể khác đồng thời khẳng định giới hạn trách nhiệm của nhà
nước trong phạm vi phần vốn mà Nhà nước đầu tư vào doanh nghiệp nhà nước. Đây là vấn
đề mà doanh nghiệp nhà nước cần chú ý khi tham gia các giao dịch dân sự, thương mại với
các doanh nghiệp, các tổ chức khác.
Tuy nhiên, khái niệm doanh nghiệp nhà nước đã được phát triển tương đối sâu
trong định nghĩa và các quy định của Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003, được thể
hiện ở điều I: “Doanh nghiệp nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu toàn bộ vốn
điều lệ hoặc có cổ phần, vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức Công ty nhà nước,
Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn” [27, tr.7-8]. Có thể hiểu rằng: Khái niệm
của Luật doanh nghiệp nhà nước năm 2003 chứa đựng nhiều đổi mới phản ánh những thay
đổi khá cơ bản trong nhận thức của các nhà lập pháp và hoạch định chính sách của nước ta
đối với thành phần kinh tế nhà nước cũng như các thành phần kinh tế khác.
Thứ nhất, việc xác định doanh nghiệp nhà nước không hoàn toàn dựa vào tiêu chí

sở hữu như trước đây mà tiêu chí để xác định doanh nghiệp nhà nước theo Luật Doanh
nghiệp nhà nước năm 2003 là quyền kiểm soát và chi phối doanh nghiệp nhà nước. Đây
chính là điểm mới trong cách tiếp cận doanh nghiệp nhà nước.
Thứ hai, thừa nhận sự tồn tại bình đẳng của các hình thức sở hữu trong một doanh
nghiệp nhà nước. Nghĩa là có những loại doanh nghiệp nhà nước mà trong đó các hình
thức sở hữu khác nhau hoàn toàn bình đẳng với nhau trên nguyên tắc của nền dân chủ cổ
phần. Bất kì là Nhà nước, các nhà đầu tư, các doanh nhân nếu góp vốn nhiều thì có nhiều
khả năng chi phối doanh nghiệp nhà nước.
Thứ ba, thừa nhận khả năng chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước thành doanh nghiệp
thông thường, thông qua cơ chế chuyển nhượng, mua bán cổ phần - Nghĩa là trong quá

trình tồn tại, do sự vận động của cổ phần giữa các cổ đông với nhau dẫn đến nhà nước
không còn nắm giữ được đủ số lượng cổ phần chi phối thì sẽ không bảo đảm được quyền
chi phối, và do vậy doanh nghiệp đó sẽ không còn là doanh nghiệp nhà nước nữa.
Có thể nói, Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003 đã đa dạng hoá các doanh
nghiệp nhà nước trên tiêu chí quyền chi phối. Khác với trước đây, doanh nghiệp nhà nước
chỉ tồn tại dưới dạng doanh nghiệp nhà nước độc lập hoặc Tổng Công ty nhà nước thì nay
doanh nghiệp nhà nước cũng có thể tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau. Chính sự đa dạng
về hình thức tồn tại của doanh nghiệp nhà nước sẽ làm sinh động thành phần kinh tế công,
làm cho nó thích ứng hơn với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, theo nội dung khái niệm của Luật Doanh nghiệp nhà nước 2003 thì doanh
nghiệp nhà nước là một pháp nhân do nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý,
có thẩm quyền kinh tế bình đẳng với các doanh nghiệp và hạch toán kinh tế độc lập trong
phạm vi vốn do doanh nghiệp quản lý. Doanh nghiệp nhà nước cũng có nhiều loại hình
khác nhau tuỳ theo qui mô kinh doanh, chức năng, nhiệm vụ, mức độ liên kết kinh doanh
và hoạt động độc lập mà có tên gọi khác nhau như: Tập đoàn kinh tế, Tổng Công ty nhà
nước, Công ty nhà nước có hoặc không có Hội đồng quản trị.
Trên cơ sở mục đích hoạt động, quy mô, hình thức và cách tổ chức quản lý mà
doanh nghiệp nhà nước được phân thành các loại doanh nghiệp khác nhau, như: Doanh
nghiệp nhà nước hoạt động kinh doanh; doanh nghiệp nhà nước hoạt động công ích; doanh

nghiệp nhà nước độc lập; doanh nghiệp nhà nước thành viên; doanh nghiệp nhà nước có
hội đồng quản trị và doanh nghiệp nhà nước không có hội đồng quản trị.



















Sơ đồ 1.1: Các loại hình doanh nghiệp nhà nước
theo Luật Doanh nghiệp nhà nước năm 2003

























Nguồn: [5, tr.248].
Như vậy, trải qua quá trình thay đổi của các thời kì, khái niệm doanh nghiệp nhà
nước đã được hoàn thiện hơn, quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp nhà nước được mở
rộng và qui định chi tiết tại các Điều 12, 13, 14, 15, 16, 17, 18, 19, 20 chương III, Điều 57,
Doanh nghiệp nhà nước

Công ty nhà nước

DN hoạt động theo Luật DN có
cổ phần 100% hoặc chi phối
của nhà nước
Loại
100%

vốn NN
DN có cổ
phần, vốn
góp NN
trên 50%
vốn Điều
l


DN do
NN hoặc
DNNN
có quyền
chi phối

Công ty
NN
không có
HĐQT

Công ty
NN có
HĐQT

Loại
Độc lập

Tổng
công ty
TCT do

NN
Quyết
định đầu
tư và
thành
Lập
TCT
chuyên
đầu tư
và kinh
doanh
vốn NN
Loại do
các
công ty
tự đầu
tư và
thành
lập


Công ty
cổ phần
nhà
nước
Công ty
TNHH
nhà
nước 1
thành

viên
Công ty
TNHH
nhà
nước có
2 thành
viên trở
lên

58, 59 chương V, Điều 70, 71 mục 3 chương VI của Luật Doanh nghiệp nhà nước năm
2003, thể hiện căn bản quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước trên
cơ sở bảo toàn, phát triển và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn do nhà nước đầu tư hoặc
do doanh nghiệp tự huy động, đồng thời phải tự chịu trách nhiệm trước kết quả lỗ lãi trong
quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, và phải thực hiện đầy đủ, kịp thời các
nghĩa vụ đối với Nhà nước, đối với chủ sở hữu, đối với người lao động theo quy định của
pháp luật.
1.1.2. Vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
Định hướng xã hội chủ nghĩa là xác định và điều khiển hướng phát triển nền kinh tế
quốc dân theo con đường đi tới chủ nghĩa xã hội, mô hình xã hội lí tưởng của Cách mạng
Việt Nam mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chọn. Đây được coi là nguyên tắc lớn, có
tính bao trùm, xuyên suốt và vạch rõ hướng đích cho cả quá trình phát triển lâu dài, ổn
định của đất nước trên mọi lĩnh vực, trong đó có phát triển kinh tế. Nguyên tắc này cũng
vạch rõ mục tiêu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là
phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất của xã hội chủ
nghĩa, nâng cao đời sống nhân dân. Mặt khác, nguyên tắc này cũng xác định nền kinh tế
thị trường mà Việt Nam đang nỗ lực xây dựng là nền kinh tế trong đó có nhiều hình thức
sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhưng kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà
nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc
dân. Định hướng này đã được Đảng ta chủ trương ngay từ Đại hội VI (tháng 12/1986) của

Đảng, đánh dấu bước ngoặt của quá trình đổi mới nền kinh tế nước ta từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Và tiếp tục
khẳng định trong các lần Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX và tại Đại hội lần
thứ X của Đảng định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta được
khẳng định là: “Thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống
nhân dân, đẩy mạnh xoá đói giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn lên làm giàu chính
đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả hơn” [18, tr.77]. Điều này

cũng có nghĩa rằng, yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
đòi hỏi phải nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng kinh tế của nhà nước.Vì rằng: “Kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng
và điều tiết nền kinh tế, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng
phát triển. Kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân” [18, tr.83]. Trong khi đó doanh nghiệp nhà nước là bộ
phận chính yếu, quan trọng của kinh tế nhà nước, một lực lượng vật chất cơ bản để kinh tế
nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo, đóng góp vào quá trình tăng trưởng kinh tế, thực hiện
tốt các mục tiêu kinh tế - xã hội của nhà nước. Do vậy, vai trò của doanh nghiệp nhà nước
trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa luôn gắn liền với việc tham gia
tích cực vào quá trình gia tăng nguồn lực kinh tế của nhà nước với tư cách vừa là chủ thể
kinh doanh, là lực lượng trực tiếp tạo cơ sở vật chất cho xã hội, vừa là lực lượng kinh tế
nòng cốt của nhà nước dẫn dắt, mở đường cho các thành phần kinh tế khác cùng phát triển.
Như vậy, thể hiện trên 3 khía cạnh: Kinh tế, chính trị - xã hội và môi trường có thể
khái quát nội dung vai trò của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa như sau:
- Là công cụ chủ yếu tạo ra sức mạnh vật chất để nhà nước giữ vững sự ổn định xã
hội, điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Là lực lượng kinh tế nòng cốt đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
bảo đảm những cân đối lớn cho nền kinh tế góp phần tạo ra môi trường, tiền đề và mở đường hỗ

trợ cho các thành phần kinh tế khác phát triển, thúc đẩy sự tăng trưởng bền vững của toàn bộ
nền kinh tế, lôi cuốn các thành phần kinh tế khác cùng tham gia vào quỹ đạo đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.
- Là lực lượng xung kích đi đầu trong việc ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và
công nghệ, nêu gương về năng suất, chất lượng và hiệu quả, góp phần thúc đẩy nhanh
chóng tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Là lực lượng đối trọng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước, không
ngừng đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh doanh, là lực lượng nòng cốt, chủ lực
trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.

- Là lực lượng nắm những vị trí, lĩnh vực then chốt trong nền kinh tế, là công cụ
trọng yếu để Nhà nước thực sự là “bàn tay” hữu hình điều tiết vĩ mô nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Là lực lượng tiên phong đảm nhận hoạt động trên các lĩnh vực có tính chiến lược
đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nhằm giữ vững sự ổn định về chính trị. Cung ứng các
hàng hoá, dịch vụ thiết yếu trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng như: giao thông, thuỷ lợi, điện,
nước, thông tin; trên lĩnh vực xã hội như: y tế, giáo dục và an ninh quốc phòng.
- Giữ vững vai trò nòng cốt chi phối trong lưu thông hàng hoá, tiền tệ và xuất nhập
khẩu, những ngành hàng quan trọng, lĩnh vực trọng yếu nhằm đảm bảo sự tăng trưởng của
đất nước, góp phần quan trọng trong việc ngăn ngừa và khắc phục những khiếm khuyết từ
mặt trái của cơ chế thị trường.
- Là lực lượng tạo nền tảng cho chế độ xã hội mới- xã hội chủ nghĩa; đi đầu thực
hiện các chính sách xã hội, tạo việc làm ổn định cho người lao động, đặc biệt là tham gia
hỗ trợ phát triển các vùng khó khăn, kém phát triển như: miền núi, biên giới, hải đảo, vùng
sâu, vùng xa
- Là lực lượng biết sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên và
gương mẫu trong việc gìn giữ môi trường sinh thái, bảo vệ sức khoẻ cho nhân dân.
Như vậy, điều không thể thiếu được trong yêu cầu xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là vai trò doanh nghiệp nhà nước, bộ phận cấu thành chính
yếu của kinh tế nhà nước, là lực lượng vật chất chủ yếu để kinh tế nhà nước thực hiện vai

trò chủ đạo đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế, thực hiện các chính sách xã hội, đi đầu
trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và là lực lượng chủ lực trong hội nhập kinh
tế quốc tế, mở đường và thu hút các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng xã
hội chủ nghĩa. Theo đó, doanh nghiệp nhà nước càng hoạt động có hiệu quả thì kinh tế nhà
nước càng phát huy vai trò chủ đạo, thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển bền vững về kinh
tế xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ
văn minh. Ngược lại, nếu doanh nghiệp nhà nước hoạt động kém hiệu quả sẽ dẫn đến làm
suy yếu đi vai trò của kinh tế nhà nước và do đó sẽ tác động ngược đến qui trình phát triển
của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy mà Đại hội lần thứ IX của Đảng đã tiếp tục
khẳng định: “Tiếp tục đổi mới và phát triển kinh tế nhà nước để thực hiện tốt vai trò chủ

đạo trong nền kinh tế. Kinh tế nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để
nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị
trí then chốt trong nền kinh tế, đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ, nêu gương
về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành luật pháp” [17, tr.189].
1.2. Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
1.2.1. Khái niệm về hiệu quả kinh doanh
Kinh doanh là việc sử dụng một nguồn lực có hạn nào đó để đầu tư vào hoạt động
sản xuất, hay dịch vụ nhằm sinh lợi, đồng thời cung cấp cho xã hội một lượng hàng hoá
hay giá trị dịch vụ đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của xã hội. Mục đích kinh tế của kinh
doanh là bằng mọi hình thức tạo ra lợi nhuận và do đó mục đích kinh doanh là mong muốn
dành những lợi thế về phía mình để có được hiệu quả cao nhất.
Hiệu quả là mục tiêu quan trọng hàng đầu mà doanh nghiệp phải đạt được trong quá
trình tổ chức hoạt động kinh doanh.
Từ nội dung định nghĩa nêu trên, có thể hiểu rằng: Hiệu quả kinh doanh là một khái
niệm bao hàm sự tổng hoà của mối quan hệ, của hệ thống chỉ tiêu chất lượng được qui
định như là những thước đo phản ánh tình trạng hoạt động của một doanh nghiệp.
Nói cách khác, hiệu quả kinh doanh là việc lựa chọn, sử dụng hợp lý các nguồn lực
về vốn, tài nguyên thiên nhiên, nhân lực và áp dụng các phương pháp quản lí, dây chuyền
công nghệ, thiết bị sao cho các mục tiêu trong kinh doanh đạt đến sự tối ưu, về chi phí thì

tối thiểu, mà lợi nhuận là tối đa, thoả mãn được nhu cầu của người tiêu dùng đồng thời
thực hiện được các nghĩa vụ đối với Nhà nước, tạo ra lợi ích cho xã hội, góp phần vào quá
trình tăng trưởng của nền kinh tế.
Trong nền kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hiệu quả kinh
doanh quyết định sự tồn tại và phát triển của một doanh nghiệp, đặc biệt đối với doanh nghiệp
nhà nước thì hiệu quả kinh doanh ngoài mục tiêu phải hướng tới thì đòi hỏi phải được thể hiện
cả trên 3 khía cạnh, đó là: hiệu quả kinh tế thuần tuý, hiệu quả về chính trị - xã hội và hiệu quả
về môi trường.
- Hiệu quả kinh tế thuần tuý là hiệu quả nhằm vào mục đích tối đa hoá lợi nhuận
trong các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thông qua các chỉ số về doanh thu, lợi

nhuận, thu nhập bình quân, nộp ngân sách nhà nước năm sau cao hơn năm trước và được
thể hiện trong các nhóm chỉ tiêu sau:
Doanh thu
+ Hiệu suất sử dụng vốn =

Vốn
Chỉ tiêu này cho biết toàn bộ vốn kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ luân
chuyển được bao nhiêu vòng, qua đó có thể đánh giá được khả năng sử dụng tài sản của
doanh nghiệp theo tiêu chí của các tổ chức ngân hàng thương mại. Trong những trường
hợp cụ thể người ta có thể tính hiệu quả sử dụng riêng cho từng loại vốn cố định hay vốn
lưu động.
Lợi nhuận hoạt động kinh doanh
+ Tỷ suất lợi nhuận vốn =
Vốn sử dụng bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh 1 đồng vốn kinh doanh sử dụng trong kì sẽ tạo ra được bao nhiêu
đồng lợi nhuận, cho phép đánh giá khả năng sinh lợi của tổng vốn.
Lợi nhuận hoạt động kinh doanh
+ Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu =
Vốn chủ sở hữu bình quân

Chỉ tiêu này phản ánh đồng vốn chủ sở hữu sử dụng trong kì có thể tạo ra bao nhiêu
đồng lợi nhuận.
Lợi nhuận hoạt động kinh doanh
+ Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu =
Doanh thu thuần
Đây là chỉ tiêu phản ánh mỗi đồng doanh thu thuần mà doanh nghiệp thu được
trong kì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận.
Tổng tài sản lưu động
+ Khả năng thanh toán chung =
Tổng nợ ngắn hạn

Đây là chỉ tiêu phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp. Nếu chỉ số này ≥ 1 có
nghĩa là doanh nghiệp không có nguy cơ rơi vào tình trạng vỡ nợ.
- Hiệu quả chính trị xã hội là hiệu quả mà doanh nghiệp đạt được và đóng góp
vào sự phát triển vững mạnh của đất nước, tạo việc làm và mang lại thu nhập ổn định
cho người lao động, giữ vững trật tự an ninh cho xã hội, góp phần xoá đói giảm nghèo,
nâng cao mức sống về vật chất và tinh thần cho nhân dân. Với tư cách là bộ phận quan
trọng của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
thì những lợi ích thuần tuý về hiệu quả kinh tế doanh nghiệp nhà nước, trong quá trình
tổ chức các hoạt động kinh doanh phải luôn hướng đến mục tiêu vì lợi ích cộng đồng
thông qua việc tiên phong thực hiện kịp thời và đầy đủ các chính sách xã hội của Nhà
nước.
- Hiệu quả về môi trường là hiệu quả được tạo ra từ các doanh nghiệp trên lĩnh vực
gìn giữ và bảo vệ môi trường sinh thái, khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên,
đóng góp tích cực vào quá trình cải thiện về môi trường xanh - sạch - đẹp, khắc phục triệt
để những ảnh hưởng về vệ sinh công nghiệp, đảm bảo điều kiện sống của nhân dân và
người lao động.
Như vậy, một doanh nghiệp nhà nước kinh doanh có hiệu quả theo các tiêu chí hiện
hành là phải bảo toàn và phát triển vốn, phải tính đủ khấu hao tài sản cố định, lương bình
quân phải bằng hoặc vượt mức bình quân của doanh nghiệp cùng ngành nghề trên địa bàn,

trả đầy đủ các khoản nợ đến hạn, nộp đủ các khoản thuế theo luật định, có lãi và lập đủ các
quỹ của doanh nghiệp như: Dự phòng tài chính, trợ cấp mất việc làm, đầu tư phát triển,
khen thưởng, phúc lợi. Ngoài ra phải thực hiện đầy đủ các chính sách xã hội đối với người
lao động: Bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, chăm lo đời sống tinh thần đối với người lao
động, hưởng ứng và đóng góp tích cực các hoạt động vì mục tiêu lợi ích cộng đồng thông
qua trợ giúp giảm nghèo, xoá nhà tạm, hỗ trợ sinh viên nghèo vượt khó, tham gia khắc
phục thiên tai Mặt khác, phải tạo ra và tham gia tích cực trong quá trình bảo vệ và cải
thiện môi trường xanh - sạch - đẹp, tạo sự an toàn cho xã hội và mang lại cuộc sống yên
lành cho nhân dân và người lao động.
Tất cả những tiêu chí về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước vừa nêu
trên sẽ là những nhân tố quan trọng đóng góp vào quá trình phát triển bền vững của

kinh tế địa phương và toàn bộ nền kinh tế nước ta đang vận hành theo cơ chế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi lẽ hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước
bao giờ cũng được đặt trong mối quan hệ tổng thể của nền kinh tế, đặt trong yêu cầu lợi
ích chung của đất nước và dân tộc.

1.2.2. Các tiêu chí, yếu tố cấu thành và ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh
1.2.2.1. Các tiêu chí đánh giá hiệu qủa kinh doanh của doanh nghiệp
- Trong nền kinh thế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp nhà
nước được giao quyền tự chủ ngày càng cao, tuy nhiên do đặc điểm của doanh nghiệp nhà
nước thuộc sở hữu nhà nước về kinh tế nên việc đánh giá hiệu quả kinh doanh phải dựa
trên cơ sở tốc độ “tăng trưởng kinh tế” thông qua hệ thống các tiêu chí như:
+ Doanh số sản lượng phải bảo đảm liên tục tăng, hoàn thành chỉ tiêu sản lượng đối
với ngành, nhà nước có chỉ tiêu kế hoạch giao thực hiện.
+ Tỉ suất lợi nhuận trên vốn, giá trị gia tăng trên vốn phải đạt mức năm sau cao hơn
năm trước đồng thời cao hơn định mức hiệu quả sử dụng vốn của nhà nước vào kinh
doanh.
+ Bảo toàn và tăng trưởng vốn, tự tích luỹ đầu tư mở rộng các hoạt động kinh
doanh.

- Tình hình tài chính lành mạnh, đảm bảo được khả năng thanh toán nợ đến hạn.
- Các khoản đóng góp cho ngân sách tối thiểu phải tương ứng với vốn đầu tư của
Nhà nước.
- Nộp đầy đủ và đúng hạn các nghĩa vụ thuế theo qui định của pháp luật.
- Việc làm và đời sống của người lao động trong doanh nghiệp được ổn định và
nâng cao.
- Chấp hành tốt các chế độ, chính sách và pháp luật trong hoạt động kinh doanh như
là các chính sách về bảo hiểm, chế độ báo cáo tài chính kế toán, kiểm toán, chính sách về
lao động và tiền lương, chính sách cải thiện và bảo vệ môi trường, đồng thời với việc tham
gia các hoạt động và mục tiêu của xã hội.
Hệ thống các tiêu chí trên đây, là những thành tố rất quan trọng làm cơ sở để đánh
giá một cách toàn diện, chính xác và khách quan hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp

nhà nước. Hệ thống tiêu chí này cũng đã được Thủ tướng Chính phủ thống nhất ban hành
tại Quyết định 271/TTg ngày 31/12/2003 và đang được áp dụng đới với việc đánh gía hiệu
quả kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước.
1.2.2.2. Các yếu tố cấu thành và ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh
Thứ nhất, chiến lược kinh doanh và các chính sách hỗ trợ
Một trong những nhiệm vụ quan trọng đối với doanh nghiệp nhà nước là xây dựng
và phát triển chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp mình trên cơ sở những dự báo về sự
tăng trưởng nền kinh tế cùng với những ảnh hưởng của các yếu tố về chính trị, kinh tế - xã
hội và những tiền đề được xem là yếu tố nội lực của doanh nghiệp. Thông qua đó phân tích
những điểm mạnh, điểm yếu những cơ hội và nguy cơ mà doanh nghiệp có được để đón
bắt và ngăn ngừa những biến động có thể xảy ra liên quan đến quá trình kinh doanh của
doanh nghiệp, như là sự bão hoà thị trường, sự thay đổi các quan niệm giá trị, sự xuất hiện
công nghệ mới, các yếu tố liên minh khu vực cũng như toàn cầu hoá xu hướng phát triển
nền kinh tế hay là vấn đề môi trường, vệ sinh công nghiệp Như vậy, chiến lược kinh
doanh có thể hiểu là những định hướng kinh doanh, những phương pháp hay sự lựa chọn
và những khả năng thực hiện các công việc kinh doanh đã được đặt ra.
Đi cùng với chiến lược kinh doanh là các chính sách hỗ trợ được xem như là các

giải pháp tối ưu về nguồn lực nhằm thực hiện các mục tiêu của chiến lược kinh doanh, đó
là:
- Chính sách về nguồn vốn: Bao gồm các nguồn tài chính mà doanh nghiệp cần huy
động để phục vụ cho hoạt động kinh doanh.
- Chính sách về sản xuất: Là hoàn thiện quá trình sản xuất khai thác tiềm năng
nguồn lao động, kế hoạch tăng, giảm năng lực sản xuất phù hợp với chiến lược kinh
doanh, điều hành và bố trí hợp lý các qui trình sản xuất với khả năng đổi mới thiết bị công
nghệ, nhằm tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm.
- Chính sách nghiên cứu và phát triển: Tập trung các vấn đề như là tiến bộ kỹ thuật,
phát huy sáng kiến, thu thập ý tưởng mới, phát minh sáng chế và tăng cường trách nhiệm
đối với chất lượng sản phẩm.
- Chính sách maketing: Nhằm giữ vững thị trường và khách hàng tiềm năng đồng
thời mở rộng thị trường mới để tăng cường tiêu thụ sản phẩm.

- Chính sách nhân sự: Xây dựng được đội ngũ những người lao động có phẩm chất, tư
cách đạo đức, có giác ngộ chính trị, có phong cách và thói quen lao động công nghiệp để xứng
đáng là lực lượng lao động tiên tiến, có ý thức kỉ luật lao động, có khả năng ứng dụng các tiến
bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ.
- Chính sách tài chính: Nhằm ổn định khả năng thanh toán, tự đầu tư về lợi nhuận,
đầu tư ra ngoài hợp lý, kế hoạch tăng vốn tự có, loại bỏ các rủi ro tiền tệ.
- Chính sách thu thập và xử lí thông tin: Trên cơ sở những tin tức mới được thu
nhập, được hiểu và được đánh giá là có ích trong việc ra quyết định về sản xuất và kinh
doanh của doanh nghiệp.
- Chính sách xã hội: Là công cụ mà chủ thể lãnh đạo sử dụng để định hướng, điều
chỉnh hành vi, hành động của con người, bảo vệ và thoả mãn nhu cầu về quyền lợi của mọi
thành viên trong doanh nghiệp mình như: Thu nhập, việc làm, khát vọng cá biệt về uy thế,
thăng tiến, bảo hành quyền lợi sử dụng sản phẩm của khách hàng và chăm lo công tác từ
thiện, an sinh xã hội.
- Chính sách về lợi nhuận: Đây là mục tiêu hàng đầu đối với mọi hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp. Lợi nhuận tối đa sẽ tạo mọi điều kiện cho doanh nghiệp phát

triển sản xuất kinh doanh, làm tốt nghĩa vụ đóng góp cho Nhà nước theo luật định và tạo
nguồn tăng thu nhập cho người lao động.
Những chính sách này là sự tương hỗ lẫn nhau trong mối quan hệ tổng hoà thúc đẩy
quá trình hiệu xuất hoá chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ hai, trình độ công nghệ, thiết bị
- Thiết bị là một bộ phận về “phần cứng” của công nghệ. Thiết bị nói chung là các
công cụ và máy móc tạo ra và hình thành dây chuyền sản xuất của doanh nghiệp để sản
xuất ra sản phẩm phục vụ nhu cầu xã hội.
- Công nghệ là tổng hợp các phương tiện kỹ thuật, kỹ năng, phương pháp được
dùng đến để chế biến và sản xuất vật phẩm hàng hoá. Ngoài phần cứng là thiết bị, máy
móc còn có phần mềm bao gồm: con người, thông tin, phương pháp, tổ chức quản lý, trong
đó tri thức khoa học là chủ yếu.
- Công nghệ còn là hệ thống các giải pháp mà con người sử dụng trong quá trình
thực hiện một mục tiêu cụ thể như: Chế tạo sản phẩm, xây dựng một công trình hay thực

hiện một dịch vụ nào đó, thể hiện dưới hai dạng: Công nghệ quy trình là các phương thức
chế tạo sản phẩm hàng hoá và công nghệ sản phẩm được đề cập với bản chất, đặc tính và
tính hữu ích của sản phẩm sản xuất ra.
Đối với doanh nghiệp nhà nước đổi mới nâng cao trình độ công nghệ, thiết bị là
động lực giúp doanh nghiệp tạo ra lợi thế cạnh tranh trên thị trường vì lẽ kết quả của đổi
mới công nghệ thiết bị là làm cho chất lượng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp tăng lên,
đáp ứng nhu cầu khắt khe của khách hàng và tạo ra được uy tín với thị trường. Đổi mới
công nghệ, thiết bị sẽ làm tăng năng suất lao động, giảm bớt được hao phí lao động trên
một sản phẩm dẫn đến hạ giá thành và do đó số lượng cũng như chất lượng sản phẩm sẽ
tăng lên do được ứng dụng những tiến bộ của khoa học công nghệ mới.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì việc đổi mới công
nghệ, thiết bị là yếu tố vô cùng quan trọng đối với hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
nhà nước.
Thứ ba, chất lượng nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này được hiểu là lực lượng

lao động trong một doanh nghiệp và là nhân tố quyết định việc tổ chức sử dụng có hiệu
quả các nguồn lực khác trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó. Nói
cách khác, nguồn lực lao động đó là nhân tố quyết định việc tái tạo sử dụng, phát triển các
nguồn lực chủ yếu của quá trình sản xuất. Nguồn lực lao động còn là nhân tố sáng tạo ra
công nghệ, thiết bị và sử dụng chúng vào quá trình phát triển kinh tế, làm thay đổi cơ cấu
chi phí, giảm giá thành sản phẩm do quá trình tăng năng suất lao động. Có thể nói, đây là
yếu tố cấu thành quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp, vì rằng con người nói chung, nguồn lực lao động nói riêng, vừa là yếu tố quan
trọng, vừa là kết quả của quá trình lao động sản xuất xã hội. Nếu quá trình tái sản xuất xã
hội không đạt được sự gắn kết hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã
hội thì chưa thể gọi là đạt được mục tiêu đặt con người ở vị trí trung tâm của mọi quá trình
phát triển.
Đảng và Nhà nước ta cũng đã khẳng định, mục tiêu và động lực phát triển kinh tế
xã hội là vì con người và do con người. Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa vai trò của nguồn nhân lực càng được khẳng định thông qua trình độ về

chuyên môn, về thể chất, về kỹ thuật cao, đánh dấu bước phát triển nguồn lực lao động
ứng với sự phát triển của nền kinh tế.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là yếu tố không chỉ góp phần tạo nên hiệu quả hoạt
động của doanh nghiệp mà còn là yếu tố cấu thành sự phát triển bền vững của nền kinh tế.
Đối với doanh nghiệp nhà nước việc thường xuyên đào tạo nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực để phục vụ cho doanh nghiệp mình và cung cấp cho xã hội là một trong
những nhiệm vụ cơ bản nhằm tạo ra hiệu quả kinh doanh vì mục tiêu xã hội.
Thư tư, ổn định việc làm và nâng cao thu nhập
Đây là hai đại lượng luôn gắn liền với cuộc sống thiết thân của người lao động và
luôn vận động trong mối quan hệ hữu cơ. Vì rằng: Việc làm luôn luôn, bao giờ và lúc nào
cũng là nhu cầu cần thiết của con người trong xã hội. Đó là một đòi hỏi tự nhiên bởi con
người được sinh ra để sống và làm việc, nhưng để có đủ điều kiện làm việc con người phải
đáp ứng lại nhu cầu tiêu dùng cá nhân thông qua thu nhập, và phải từ thu nhập thường
xuyên trên cơ sở việc làm ổn định. Lúc sinh thời, Bác Hồ của chúng ta cũng từng nói: “Phát

triển sản xuất để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân” [28, tr.212]. Nghĩa
là: đời sống được nâng cao là nhằm phục vụ cho sản xuất và sản xuất phải nhằm mục đích
nâng cao đời sống của con người, bởi vì như Mác đã từng nói: “Chính con người mới là
nhân tố tạo ra mọi giá trị”. Trong thực tế hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nhà
nước vấn đề việc làm và thu nhập đã trở thành yếu tố cấu thành và ảnh hưởng trực tiếp đến
hiệu quả, nó tuỳ thuộc vào các chính sách giải quyết việc làm và phân phối thu nhập mà
doanh nghiệp đã lựa chọn. Nếu sử dụng chính sách phù hợp sẽ tạo được việc làm ổn định
cho người lao động và do vậy sẽ khai thác được những tiềm năng to lớn thông qua trình độ
bậc thợ, tay nghề, kỹ năng kỹ xảo và ý thức tổ chức kỷ luật của người lao động nhằm tăng
năng suất lao động, tạo điều kiện tăng các chỉ số kinh doanh của doanh nghiệp. Đồng thời
thực hiện phân phối thu nhập công bằng trên cơ sở kết quả kinh doanh và kết quả đóng góp
của người lao động sẽ là nguồn lực thúc đẩy sản xuất phát triển, tạo ra được việc làm ổn
định cho người lao động. Thực hiện chính sách khuyến khích và phát huy sáng kiến cải
tiến kỹ thuật thông qua các chế độ khen thưởng và phúc lợi xã hội nhằm tạo động lực để
thi đua lao động, gắn bó với doanh nghiệp bởi tinh thần trách nhiệm của người lao động.

Từ đó, tạo ra một phong trào thi đua lao động sản xuất thường xuyên và góp phần mang lại
hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp.
Thứ năm, chất lượng sản phẩm
Theo tổ chức quốc tế về tiêu chuẩn hoá ISO thì thuật ngữ chất lượng được định
nghĩa là: “Toàn bộ các đặc tính của một thực thể tạo cho thực tế đó có khả năng thoả mãn
các nhu cầu đã công bố hay còn tiềm ẩn” [40, tr.16].
Như vậy, chất lượng được đo bởi sự thoả mãn nhu cầu. Nếu một sản phẩm hay dịch
vụ nào đó mà không đáp ứng được nhu cầu, không được thị trường chấp nhận thì coi như
là kém chất lượng, cho dù trình độ công nghệ đã chế tạo ra sản phẩm đó có thể rất hiện đại.
Đây chính là yếu tố then chốt để các nhà quản lý, các doanh nghiệp nhà nước định ra
những chính sách phù hợp với chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, vì lẽ hoạt động
của doanh nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào khách hàng của mình bởi các chỉ tiêu chất
lượng sản phẩm và dịch vụ sẽ mang lại giá trị và giá trị sử dụng đối với khách hàng, làm
cho khách hàng thoả mãn, ưa chuộng tạo dựng nên niềm tin và sự gắn bó giữa khách hàng

với doanh nghiệp.
Mặt khác, do chất lượng được đo bởi nhu cầu, mà nhu cầu thì biến động theo thực
tế phát triển của kinh tế, xã hội, theo mức sống của người tiêu dùng được nâng cao nên
chất lượng sản phẩm, dịch vụ cũng luôn thay đổi cho phù hợp với nhu cầu theo thời gian,
không gian, điều kiện sử dụng Do vậy nó không chỉ giới hạn ở mức độ sản xuất sản phẩm
và dịch vụ thoả mãn lại nhu cầu của khách hàng mà phải liên tục nâng cao chất lượng hơn
nữa để tạo nên lợi thế so sánh với các sản phẩm và dịch vụ của các đối thủ cạnh tranh,
nhằm giữ vững khả năng chiếm lĩnh thị trường, duy trì khách hàng truyền thống và thu hút
khách hàng mới.
Chất lượng cũng không phải chỉ là thuộc tính của sản phẩm, hàng hoá mà chất
lượng có thể áp dụng cho mọi thực thể, đó sẽ là sản phẩm một hoạt động, một quá trình,
một doanh nghiệp hay một con người. Một khi nền kinh tế nước ta đang trong điều kiện
tham gia vào tiến trình hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực thì việc các doanh
nghiệp cung cấp cho khách hàng những sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao là hoàn toàn
cần thiết và nó sẽ là yếu tố cơ bản, là chất xúc tác hiện hữu mang lại hiệu quả kinh doanh

cho doanh nghiệp. Do vậy, doanh nghiệp cần phải thường xuyên nâng cao chất lượng sản
phẩm và hàng hoá, dịch vụ.

Thứ sáu, gìn giữ môi trường sinh thái
Môi trường sinh thái là những giá trị nguyên sinh của tài nguyên thiên nhiên, hình
thành và tồn tại trong tự nhiên được xem là một trong những yếu tố nguồn lực cơ bản của
quá trình sản xuất. Đó là tất cả những của cải vật chất thuộc về thiên nhiên mà con người
có thể sử dụng để thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của mình, bao gồm: đất đai, rừng,
biển, sông ngòi, khoáng sản, nguồn nước, nhiệt năng, khí hậu, thời tiết
Quá trình phát triển các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng chính là quá trình làm
thay đổi đối tượng lao động, biến các tài nguyên thiên nhiên thành các sản phẩm tiêu dùng
để phục vụ cho nhu cầu của con người. Tuy nhiên, do trữ lượng tài nguyên có hạn, vả lại
có những tài nguyên không tái tạo được hoặc chu kì tái tạo chậm dẫn đến sự cạn kiệt tài
nguyên. Mặt khác, quá trình khai thác tài nguyên đã làm phá vỡ môi trường sinh thái do

chất thải rắn, chất thải khí tăng lên, đặc biệt là khai thác gỗ và phá rừng bừa bãi sẽ dẫn đến
thay đổi thời tiết khí hậu gây ra thiên tai, lũ lụt, làm ô nhiễm nguồn nước ảnh hưởng trực
tiếp đến đời sống và sức khoẻ của con người.
Đây là yếu tố vô cùng quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp, đòi hỏi ý thức của mọi thành viên trong doanh nghiệp phải biết sử dụng tiết kiệm
các nguồn tài nguyên thiên nhiên, biết bảo vệ môi trường sinh thái, đồng thời, phải tạo môi
trường làm việc hợp lý cho mỗi thành viên trong doanh nghiệp của mình cả về không gian,
không khí, khí hậu, ánh sáng, thông gió Thực hiện tốt yếu tố này chính là sử dụng hiệu
quả năng lực làm việc của mọi thành viên trong doanh nghiệp vừa tăng năng suất lao động,
vừa gìn giữ được môi trường sinh thái, đạt được mục tiêu hiệu quả về môi trường, là yếu tố
của sự phát triển bền vững.
Thứ bảy, chi phí kinh doanh
Đây là các khoản chi phí đầu vào của doanh nghiệp phát sinh trong quá trình sản
xuất kinh doanh, bao gồm: chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp.
Chi phí trực tiếp: là chi phí được phân bổ thẳng vào những sản phẩm như là chi phí
nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng, chi phí nhân công, ca máy,

Chi phí gián tiếp: là chi phí quản lý doanh nghiệp bao gồm: tiền lương, thu nhập
khác, tiền ăn ca của bộ máy quản lý, cước điện thoại, tiền điện, nước, quảng cáo, thông tin,
bảo hiểm, đào tạo, chuyên gia, giao tế, khấu hao và các chi phí quản lý khác.
Nếu quản lý và phân bổ hợp lý cơ cấu chi phí kinh doanh thì doanh nghiệp sẽ tiết
kiệm được chi phí trong giá thành sản phẩm và do đó sẽ mang lại lợi nhuận cao hơn.
Ngược lại, không quản lý tốt chi phí kinh doanh thì chi phí sẽ bằng hoặc lớn hơn doanh
thu, khi đó sẽ không mang lại hiệu quả cho doanh nghiệp trong quá trình hoạt động kinh
doanh. Do vậy, chi phí kinh doanh cũng chính là yếu tố cấu thành và ảnh hưởng trực tiếp
đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Thứ tám, năng lực quản lí
Có thể hiểu rằng: Hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp bao gồm nhiều nội
dung và nhiều cách tiếp cận, nhưng xét cho cùng thì năng lực quản lý chính là một chức năng
vô cùng quan trọng thể hiện những phương thức tác động đến các quá trình hoạt động kinh

doanh của doanh nghiệp, như là:
- Quản lý quá trình sản xuất: bao gồm toàn bộ các hoạt động có tính chất qui trình
trên cơ sở phối hợp các yếu tố lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động đã có để
chế biến, sản xuất ra sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ. Qui trình đó chính là: hoạch định, xây
dựng kế hoạch sản xuất, điều khiển quá trình vận hành chế biến, kiểm tra chất lượng, giữ
gìn bí quyết, kiểu dáng và phát huy sáng kiến cải tiến kỹ thuật của các thành viên.
- Quản lý tài chính và quá trình tác nghiệp, bao gồm: Tạo vốn, sử dụng vốn, chủ
yếu là quản lý quá trình lưu thông, thanh toán và các quan hệ tín dụng, cũng như các quy
trình, hệ thống tác nghiệp, báo cáo.
- Quản lý vật tư, chi phí các yếu tố đầu vào kể cả các chi phí trực tiếp và gián tiếp
trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, cơ cấu hợp lý giá thành
nhằm tối đa hoá lợi nhuận.
- Quản lý nhân sự thông qua kết quả công việc được thống kê, cập nhật, đồng thời lập kế
hoạch, tuyển dụng, bố trí nhân sự theo đúng ngành nghề, kĩ năng đào tạo phù hợp với nhu cầu
phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Quản lý các kênh thông tin cần thiết, liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp,
kiểm tra chọn lọc và xử lý thông tin kịp thời, chính xác.

- Thực hiện tốt các mối quan hệ pháp lý trong và ngoài doanh nghiệp cũng như tổ
chức thường xuyên các hoạt động quần chúng, phúc lợi trong doanh nghiệp.
- Phát huy vai trò lãnh đạo của tổ chức cơ sở Đảng trong doanh nghiệp nhà nước.
Tuy nhiên, Đảng không can thiệp sâu hoặc làm thay công việc chuyên môn của Giám đốc
doanh nghiệp. Thông qua Đại hội công nhân viên chức hàng năm mà thực hiện tốt qui chế
dân chủ ở cơ sở trong doanh nghiệp nhà nước.
Nếu duy trì tốt yếu tố này sẽ là điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Thứ chín, quyết định của Giám đốc doanh nghiệp
Giám đốc doanh nghiệp là người được chủ sở hữu doanh nghiệp giao cho quyền
được quản lý, điều hành doanh nghiệp theo chế độ một thủ trưởng, chịu trách nhiệm trước
chủ sở hữu và tập thể người lao động về mọi hoạt động cũng như kết quả kinh doanh của

doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp nhà nước thì Giám đốc doanh nghiệp được Nhà nước
bổ nhiệm và hưởng lương theo chế độ do Nhà nước qui định.
Lao động của Giám đốc doanh nghiệp phải là lao động của nhà hoạt động xã hội,
biết tuân thủ và hiểu đầy đủ những vấn đề về luật pháp, nhất là luật kinh tế, luật dân sự,
các chính sách chế độ qui định của nhà nước có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Sản phẩm lao động của Giám đốc doanh nghiệp là các quyết định mang tính hệ
trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến nhiều lĩnh vực, nhiều mối quan hệ, nhiều con người trong
doanh nghiệp, đó là hành vi sáng tạo mang tính chỉ thị tác động vào đối tượng quản lý
nhằm giải quyết những vấn đề chín muồi trên cơ sở nắm vững các qui luật vận động của
đối tượng.
Quyết định đúng, kịp thời sẽ mang lại hiệu quả cao còn ngược lại, quyết định sai,
không kịp thời, sẽ mang lại hậu quả nghiêm trọng. Do vậy, trước khi ra quyết định cần
phải nghiên cứu vấn đề một cách tỉ mỉ, sâu sắc, đồng thời phải thảo luận và lắng nghe ý
kiến của cộng sự.
Do tính chất quan trọng của quyết định nên đòi hỏi Giám đốc phải là người có kiến
thức về chuyên môn, am hiểu về pháp luật, có năng lực quản lý và kinh nghiệm thực tiễn,
có tư duy sáng tạo, biết quan sát và tổ chức công việc, đồng thời phải có ý chí, nghị lực và

×