Tải bản đầy đủ (.doc) (58 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại nhà máy văn phòng phẩm đông anh- hà nội giai đoạn 2010- 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.21 KB, 58 trang )

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và phát triển
Họ tên sinh viên: Nguyễn Văn Đại Lớp: Kế hoạch 48B
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA KẾ HOẠCH VÀ PHÁT TRIỂN
----------
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Đề tài :
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SẢN XUẤT
KINH DOANH TẠI NHÀ MÁY VĂN PHÒNG PHẨM
ĐÔNG ANH- HÀ NỘI GIAI ĐOẠN 2010- 2011
Sinh viên thực hiện : NGUYỄN VĂN ĐẠI
MSSV : CQ480513
Lớp : KẾ HOẠCH 48B
Giáo viên hướng dẫn : PGS.TS PHẠM VĂN VẬN
Hà Nội, 05/2010
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và phát triển
MỤC LỤC
MỤC LỤC........................................................................................................2
LỜI MỞ ĐẦU...................................................................................................1
Họ tên sinh viên: Nguyễn Văn Đại Lớp: Kế hoạch 48B
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và phát triển
DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG, BIỂU
Sơ đồ 1. Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý nhà máy văn phòng phẩm Đông Anh..........26
Sơ đồ 2. Sơ đồ tổ chức bộ máy sản xuất tại nhà máy văn phòng phẩm Đông Anh....27
Bảng 1: Một số chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh của chi nhánh (nhà
máy văn phòng phẩm Đông Anh).................................................................................
Bảng 2. Bảng kết quả xuất khẩu của chi nhánh giai đoạn 2007- 2009...........................
Bảng 3. Bảng phản ánh hiệu quả kinh doanh của nhà máy văn phòng
phẩm Đông Anh...........................................................................................................
Bảng 4. Bảng phản ánh hiệu quả theo chỉ tiêu tổng hợp...............................................
Bảng 5. Bảng phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động và vốn cố định.......................


Bảng 6: Bảng phản ánh kết quả sử dụng lao động....................................................35
Họ tên sinh viên: Nguyễn Văn Đại Lớp: Kế hoạch 48B
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và phát triển
DANH MỤC CHỮ TỪ VIẾT TẮT
CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
WTO : World Trade Organization ( Tổ chức thương mại thế
giới)
NSLĐ : Năng suất lao động.
CBCNV : Cán bộ công nhân viên.
EU : European Union. ( liên minh Châu Âu )
Họ tên sinh viên: Nguyễn Văn Đại Lớp: Kế hoạch 48B
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và phát triển
LỜI MỞ ĐẦU
Vào cuối năm 2007, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên thứ 150 của
Tổ chức thương mại thế giới ( tên tiếng Anh là: World Trade Organization- WTO).
Sự kiện quan trọng đó mở ra những cơ hội phát triển kinh tế và cũng có nhiều thách
thức cần phải vượt qua. Để có thể đứng vững trong môi trường cạnh tranh khắc
nghiệt và tận dụng triệt để mọi cơ hội để phát triển đòi hỏi các doanh nghiệp phải
luôn vận động, tìm tòi hướng đi cho phù hợp. Khả năng đứng vững này chỉ có thể
khẳng định bằng hoạt động kinh doanh có hiệu quả.
Qua đó vấn đề hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được đặt lên
hàng đầu đối với mọi doanh nghiệp. Vì hoạt động kinh doanh có hiệu quả mới có thể
đảm bảo cho doanh nghiệp đứng vững, đủ sức mạnh trên thị trường, có đủ điều kiện
tăng tích lũy cho doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng lợi
nhuận, cải thiện thu nhập cho người lao động, đóng góp nhiều hơn cho nhà nước, …
Từ lý do trên mà việc nghiên cứu và xem xét vấn đề nâng cao hiệu quả kinh
doanh là một đòi hỏi tất yếu đối với mỗi doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh
hiện nay. Việc nâng cao hiệu quả kinh doanh đang là một bài toán khó đòi hỏi mỗi
doanh nghiệp đều phải đi tìm lời giải, nó đòi hỏi doanh nghiệp luôn phải nhạy bén ,
linh hoạt trong quá trình sản xuất kinh doanh.

Vấn đề hiệu quả kinh doanh luôn được ban lãnh đạo Nhà máy văn phòng phẩm
Đông Anh quan tâm, xem đây là căn cứ và công cụ thực hiện mục tiêu kinh doanh
của mình. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề nâng cao hiệu quả kinh doanh,
trong thời gian thực tập tại nhà máy văn phòng phẩm Đônh Anh cùng với sự hướng
dẫn tận tình của thầy giáo Phạm Văn Vận em đã chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh tại nhà máy văn phòng phẩm Đông Anh- Hà Nội
giai đoạn 2010- 2011” làm đề tài nghiên cứu của mình.
Nội dung bài viết bao gồm các phần sau:
Chương 1: Lý luận chung về hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Chương 2: Thực trạng hiệu quả sản xuất kinh doanh của nhà máy văn phòng phẩm
Đông Anh.
Họ tên sinh viên: Nguyễn Văn Đại Lớp: Kế hoạch 48B
1
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và phát triển
Chương 3: Phương hướng và các biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
tại nhà máy văn phòng phẩm Đông Anh.
Với trình độ và thời gian hạn chế nên trong quá trình làm chuyên đề em không
tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự quan tâm góp ý của thầy cô để
em có thể hoàn thiện bài viết và rút ra những kinh nghiệm cho bản thân.
Em xin cảm ơn thầy giáo PGS.TS Phạm Văn Vận đã tận tình hướng dẫn giúp
đỡ, gợi ý, sửa chữa cho em trong suốt quá trình em viết chuyên đề này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo nhà máy, các phòng ban chức
năng đặc biệt là phòng kế hoạch của nhà máy văn phòng phẩm Đông Anh đã tạo điều
kiện thuận lợi, hướng dẫn và cung cấp tài liệu cho em trong thời gian thực tập tại nhà
máy để em có thể hoàn thành chuyên đề thực tập tốt nghiệp.
Họ tên sinh viên: Nguyễn Văn Đại Lớp: Kế hoạch 48B
2
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và phát triển
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ HIỆU QUẢ SẢN XUẤT
KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP

1. Khái niệm và bản chất hiệu quả sản xuất kinh doanh.
1.1. Một số khái niệm cơ bản.
1.1.1 Khái niệm hiệu quả.
Ngày nay khi đề cập đến vấn đề hiệu quả thì người ta vẫn chưa có được một
khái niệm thống nhất. Bởi vì ở mỗi một lĩnh vực khác nhau, xem xét trên các góc độ
khác nhau thì người ta có những cách nhìn nhận khác nhau về vấn đề hiệu quả. Như
vậy ở mỗi lĩnh vực khác nhau thì người ta có một khái niệm khác nhau về hiệu quả,
và thông thường khi nói đến hiệu quả của một lĩnh vực nào đó thì người ta gắn ngay
tên của lĩnh vực đó liền ngay sau hiệu quả. Để hiểu rõ hơn chúng ta xem xét các vấn
đề hiệu quả ở trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị và xã hội. Tương ứng với các lĩnh
vực này là 3 phạm trù hiệu quả: hiệu quả kinh tế, hiệu quả chính trị và hiệu quả xã
hội.
• Hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt được các mục
tiêu kinh tế của một thời kỳ nào đó. Nếu đứng trên phạm vi từng yếu tố riêng lẻ thì
chúng ta có phạm trù hiệu quả kinh tế, và xem xét vấn đề hiệu quả trong phạm vi các
doanh nghiệp thì hiệu quả kinh tế chính là hiệu quả kinh doanh của một doanh
nghiệp. Hiểu theo mục đích cuối cùng thì hiệu quả kinh tế là hệ số giữa kết quả thu
về và chi phí bỏ ra để đạt được hiệu quả đó. Trong đó kết quả thu về chỉ là kết quả
phản ánh những kết quả kinh tế tổng hợp như là: doanh thu, lợi nhuận, giá trị sản
lượng công nghiệp,… nếu ta xét theo từng yếu tố riêng lẻ thì hiệu quả kinh tế là thể
hiện trình độ và sử dụng các yếu tố đó trong quá trình sản xuất kinh doanh, nó phản
ánh kết quả kinh tế thu được từ việc sử dụng các yếu tố tham gia vào quá trình kinh
doanh.
Cũng giống như một số chi tiết khác hiệu quả là một chỉ tiêu chất lượng tổng
hợp phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố trong quá trình sản xuất, đồng thời là một
phạm trù kinh tế gắn liền với nền sản xuất hang hóa. Sản xuất hàng hóa có phát triển
Họ tên sinh viên: Nguyễn Văn Đại Lớp: Kế hoạch 48B
3
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và phát triển

hay không là nhờ đạt hiệu quả cao hay thấp. Nói một cách khác chỉ tiêu hiệu quả kinh
tế phản ánh về mặt định lượng và định tính trong sự phát triển kinh tế.
Nhìn ở tầm vi mô của từng doanh nghiệp riêng lẻ hiệu quả kinh tế được biểu
hiện qua phạm trù hiệu quả kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh là một chỉ tiêu phản ánh
đầy đủ các mặt của cả một quá trình kinh doanh của một doanh nghiệp.
• Hiệu quả xã hội và hiệu quả chính trị:
Hiệu quả xã hội là một phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản
xuất xã hội nhằm đạt được các mục tiêu xã hội nhất định. Nếu đứng trên phạm trù
toàn xã hội và nền kinh tế quốc dân thì hiệu quả xã hội và hiệu quả chính trị là chỉ
tiêu phản ánh ảnh hưởng của hoạt động kinh doanh đối với việc giải quyết những yêu
cầu và mục tiêu chung của toàn bộ nền kinh tế xã hội. Bởi vậy hai loại hiệu quả này
đều có vị trí quan trọng trong việc phát triển đất nước một cách toàn diện và bền
vững. Đây là chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển của xã hội ở các mặt: trình độ tổ
chức sản xuất, trình độ quản lý, mức sống bình quân… Thực tế cho thấy ở các nước
tư bản chủ nghĩa các doanh nghiệp tư bản chỉ chạy theo hiệu quả kinh tế mà không
đặt vấn đề hiệu quả chính trị xã hội đi kèm và dẫn đến tình trạng thất nghiệp, khủng
hoảng có tính chu kỳ, ô nhiễm môi trường, chênh lệch giàu nghèo quá lớn,… Chính
vì vậy mà Đảng và Nhà nước ta đã có những đường lối và chính sách cụ thể để đồng
thời tăng hiệu quả kinh tế kèm với tăng hiệu quả chính trị xã hội. Tuy nhiên chúng ta
không thể chú trọng thái quá đến hiệu quả chính trị xã hội, một bài học rất lớn từ thời
kỳ chế độ bao cấp đã cho chúng ta thấy rõ được điều đó.
1.1.2 Khái niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh.
1.1.2.1 Khái niệm hoạt động sản xuất kinh doanh.
Hoạt động kinh doanh, theo luật định, là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả
các công đoạn của quá trình đầu tư, sản xuất, tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch
vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.( Giáo trình kế hoạch kinh doanh- ThS. Bùi
Đức Tuân, khoa kế hoạch và phát triển, trường Đại học Kinh tế quốc dân, xuất bản
năm 2005).
Như vậy theo khái niêm trên thì hoạt động kinh doanh không chỉ bao gồm
các hoạt động thương mại mà còn có nội dung rất rộng, bao gồm: đầu tư, sản xuất,

chế biến, các hoạt động thương mại gắn liền với sản xuất và chế biến, các hoạt động
Họ tên sinh viên: Nguyễn Văn Đại Lớp: Kế hoạch 48B
4
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và phát triển
thương mại thuần túy và các hoạt động cung cấp dịch vụ. Hoạt động kinh doanh có
thể được tiếp cận theo nhiều cách khác nhau, chẳng hạn:
- Theo tính chất của hoạt động chúng ta có hoạt động sản xuất ( sản phẩm
hoặc dịch vụ) và hoạt động thương mại.
- Theo bản chất kinh tế, chúng ta có thể có các doanh nghiệp công nghiệp,
thương nghiệp, nông nghiệp, tài chính, …
Hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm mục đích tạo ra của cải vật chất cho
xã hội và tạo ra lợi nhuận cho các chủ thể tham gia hoạt động kinh doanh. Bản chất
của hoạt động kinh doanh là tạo ra giá trị cho các loại sản phẩm hoặc dịch vụ. Giá trị
của sản phẩm và dịch vụ được tạo ra nhờ vào các giá trị sử dụng cho phép thỏa mãn
những nhu cầu khác nhau của khách hàng. Dù cho hoạt động kinh doanh có phục vụ
nhu cầu nào của khách hàng đi chăng nữa thì nhiệm vụ của các đơn vị sản xuất kinh
doanh là phải tăng thêm giá trị cho sản phẩm dịch vụ. Giá trị gia tăng cho phép doanh
nghiệp trả thù lao cho người lao động, bù đắp những hao mòn trong quá trình sản
xuất kinh doanh và thực hiện các nghĩa vụ khác đối với nhà nước thông qua các
khoản đóng góp về thuế và các hình thức khác theo luật định. Do vậy, nhiệm vụ hàng
đầu của hoạt động sản xuất kinh doanh là phải tạo ra giá trị cho sản phẩm và dịch vụ
1.1.2.2 Khái niệm hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế biểu hiện tập trung của sự phát
triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực trong quá trình
tái sản xuất mở rộng nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh. Nó là thước đo ngày càng
quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và là căn cứ cơ bản để đánh giá việc thực hiện
mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong từng thời kỳ.
Bất kỳ một cá nhân hay tổ chức nào khi tham gia vào hoạt động kinh doanh
cũng muốn đạt được tối đa hóa hiệu quả hoạt động kinh doanh của mình. Nhưng
trước hết cần phải nắm vững được thế nào là hiệu quả kinh doanh.

Theo Adam Smith thì “ hiệu quả kinh doanh là hiệu quả đạt được trong hoạt
động kinh tế, là doanh thu tiêu thụ hàng hóa”. Quan điểm này cho thấy hiệu quả kinh
doanh chỉ được đánh giá dưới góc độ doanh thu tiêu thụ hàng hóa. Thực tế hiện nay
cho thấy quan điểm này đã không còn phù hợp, vì nếu như tốc độ tăng của doanh thu
nhỏ hơn tốc độ tăng chi phí thì lợi nhuận không những không tăng thêm mà sẽ giảm
xuống.
Họ tên sinh viên: Nguyễn Văn Đại Lớp: Kế hoạch 48B
5
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và phát triển
Quan điểm thứ hai cho rằng :” hiệu quả kinh doanh được đo bằng hiệu số
giữa kết quả đạt được và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó”.
Một quan điểm khác thì cho rằng :”hiệu quả kinh doanh phản ánh trình độ
sử dụng các nguồn lực của xã hội trong lĩnh vực kinh doanh thông qua những chỉ tiêu
đặc trưng kinh tế kỹ thuật được xác định bằng tỉ lệ so sánh giữa các đại lượng phản
ánh kết quả đạt được về kinh tế với các chi phí bỏ ra hoặc nguồn nhân lực đã được
huy động vào lĩnh vực kinh doanh”.
Tóm lại, hiệu quả kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh lợi ích thu
được từ các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trên cơ sở so sánh lợi ích thu
được với chi phí bỏ ra trong suốt quá trình kinh doanh của doanh nghiệp.
Với khái niệm này thì ta có thể xác định hiệu quả kinh doanh một cách cụ
thể bằng phương pháp định lượng thông qua các chỉ tiêu hiệu quả cụ thể và từ đó có
thể tính toán, so sánh được. Lúc này phạm trù hiệu quả kinh doanh là một phạm trù
cụ thể và là biểu hiện trực tiếp của lợi nhuận, doanh thu, … Ngoài ra nó cũng biểu
hiện mức độ phát triển của doanh nghiệp theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác
các nguồn lực trong quá trình sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh. Lúc này
phạm trù hiệu quả kinh doanh là một phạm trù trừu tượng và nó phải được định tính
thành mức độ quan trọng hoặc vai trò của nó trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Như
vậy cần phải hiểu hiệu quả kinh doanh một cách toàn diện trên cả hai mặt định lượng
và định tính.
Về mặt định lượng, hiệu quả kinh doanh biểu hiện mối quan hệ tương quan

giữa kết quả thu được và chi phí để có được kết quả đó, hiệu quả định lượng chỉ có
được khi kết quả lớn hơn chi phí.
Về mặt định tính, hiệu quả kinh doanh phản ánh trình độ quản lý trong
doanh nghiệp cũng như trình độ chuyên môn của nhân viên, công nhân trong toàn thể
doanh nghiệp.
Cả hai mặt định lượng và đinh tính của phạm trù hiệu quả kinh doanh có
quan hệ chặt chẽ tương tác lẫn nhau.
1.2 Bản chất hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Trước hết ta cần phân biệt rõ ranh giới giữa hai phạm trù hiệu quả và kết
quả. Kết quả là phạm trù phản ánh những cái gì thu được sau một quá trình kinh
doanh nào đó. Kết quả bao giờ cũng là mục tiêu của doanh nghiệp có thể được biểu
Họ tên sinh viên: Nguyễn Văn Đại Lớp: Kế hoạch 48B
6
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và phát triển
hiện bằng đơn vị hiện vật hoặc đơn vị giá trị. Các đơn vị cụ thể được sử dụng tùy
thuộc vào đặc trưng của sản phẩm mà quá trình kinh doanh tạo ra, nó có thể là tấn, tạ,
kg, m3, lít….. Các đơn vị giá trị có thể là đồng, triệu đồng, ngoại tệ…Kết quả cũng
có thể phản ánh mặt chất lượng của sản xuất kinh doanh hoàn toàn định tính như uy
tín, danh tiếng của doanh nghiệp, chất lượng sản phẩm…Cần chú ý rằng không phải
chỉ kết quả định tính mà kết quả định lượng của một thời kỳ kinh doanh nào đó
thường là rất khó xác định bởi nhiều lý do như kết quả không chỉ là sản phẩm hoàn
chỉnh mà còn là sản phẩm dở dang, bán thành phẩm. Hơn nữa hầu như quá trình sản
xuất lại tách rời quá trình tiêu thụ nên ngay cả sản phẩm sản xuất xong ở một thời kỳ
nào đó cũng chưa thể kết luận rằng liệu sản phẩm đó có tiêu thụ được không và bao
giờ thì tiêu thụ được và thu được tiền về…..
Trong khi đó hiệu quả là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản
xuất. Trình độ lợi dụng các nguồn lực không thể đo bằng các đơn vị hiện vật hay giá
trị mà là một phạm trù tương đối. Cần chú ý rằng trình độ lợi dụng các nguồn lực chỉ
có thể hiểu và phản ánh bằng số tương đối: Tỷ số giữa kết quả và hao phí nguồn lực,
tránh nhầm lẫn giữa phạm trù hiệu quả kinh doanh với phạm trù mô tả sự chênh lệch

giữa kết quả và hao phí nguồn lực. Chênh lệch giữa kết quả và chi phí nguồn lực luôn
là tuyệt đối, phạm trù này chỉ phản ánh mức độ đạt được về một mặt nào đó nên cũng
mang bản chất là kết quả của quá trình kinh doanh và không bao giờ phản ánh được
trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất.
Vậy hiệu quả kinh doanh là một phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các
nguồn lực phản ánh mặt chất lượng của quá trình kinh doanh, phức tạp và khó tính
toán bởi cả phạm trù kết quả và hao phí nguồn lực gắn với một thời kỳ cụ thể nào đó
điều khó xác định một cách chính xác.
Khái niệm hiệu quả kinh doanh đã cho thấy bản chất của nó là phản ánh mặt
chất lượng của các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, phản ánh trình độ lợi
dụng các nguồn lực để đạt được mục tiêu của doanh nghiệp. Tuy nhiên để hiểu rõ và
ứng dụng được phạm trù hiệu quả kinh doanh vào việc xác lập các chỉ tiêu, các công
thức cụ thể để đánh giá tính hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp thì chúng ta cần nắm rõ một vài vấn đề sau:
1.2.1 Phạm trù hiệu quả kinh doanh thực chất là mối quan hệ so sánh giữa kết
quả đạt được và chi phí bỏ ra để sử dụng các yếu tố đầu vào và có tính đến
các mục tiêu của doanh nghiệp.
Họ tên sinh viên: Nguyễn Văn Đại Lớp: Kế hoạch 48B
7
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và phát triển
Mối quan hệ so sánh ở đây có thể là so sánh tuyệt đối và cũng có thể là so sánh
tương đối.
Về mặt so sánh tuyệt đối thì hiệu quả kinh doanh là:
H = K - C trong đó:
H: hiệu quả kinh doanh
K: kết quả đạt được
C: chi phí bỏ ra để sử dụng các nguồn lực đầu vào
Còn về so sánh tương đối thì:
H = K/C
Do đó để tính được hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp ta phải tính kết quả

đạt được và chi phí bỏ ra. Nếu xét mối quan hệ giữa kết quả và hiệu quả thì kết quả
nó là cơ sở để tính ra hiệu quả kinh doanh, kết quả sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp có thể là những đại lượng có khả năng đong, cân, đo đếm như số sản phẩm
tiêu thụ mỗi loại, doanh thu bán hàng, lợi nhuận, thị phần…. như vậy kết quả sản
xuất kinh doanh thường là mục tiêu của doanh nghiệp.
1.2.2 Phân biệt hiệu quả kinh tế và hiệu quả kinh tế xã hội với hiệu quả kinh
doanh của doanh nghiệp.
Hiệu quả xã hội phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực nhằm đạt được các
mục tiêu về xã hội nhất định. Các mục tiêu xã hội thường là: giải quyết công ăn việc
làm cho người lao động trong phạm vi toàn xã hội phạm vi từng khu vực, nâng cao
trình độ văn hóa, nâng cao mức sống, đảm bảo vệ sinh môi trường… Còn hiệu quả
kinh tế xã hội phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực nhằm đạt được các mục tiêu
cả về kinh tế xã hội trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân cũng như trên phạm vi
từng vùng, từng khu vực của nền kinh tế. Hiệu quả kinh tế xã hội của một hoạt động
kinh tế xác định trong mối quan hệ giữa hoạt động đó với tư cách là tổng thể các hoạt
động kinh tế hoặc là một hoạt động cụ thể về kinh tế với nền kinh tế quốc dân và đời
sống xã hội.
Hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp chính là hiệu quả thu được từ hoạt
động kinh doanh của từng doanh nghiệp. Biểu hiện trực tiếp của hiệu quả kinh doanh
là số lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được hoặc lỗ phải chịu. Nó được tính bằng sự
chênh lệch giữa doanh thu và chi phí. Hay nó được xác định trong mối quan hệ giữa
Họ tên sinh viên: Nguyễn Văn Đại Lớp: Kế hoạch 48B
8
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và phát triển
chi phí đã bỏ ra và doanh thu nhận được. Trong doanh nghiệp cụ thể thì hiệu quả kinh
doanh còn phản ánh trình độ quản lý và năng lực kinh doanh của doanh nghiệp đó
nhằm mục tiêu cuối cùng là tối ưu hóa lợi nhuận. Hiệu quả kinh doanh còn là một
công cụ hữu hiệu giúp nhà quản lý có thể điều chỉnh các hoạt động trong quá trình
kinh doanh cho phù hợp. Hiệu quả sản xuất kinh thì quá trình kinh doanh càng hiệu
quả.

Hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội có mối quan hệ mật thiết
với nhau. Trong nhiều trường hợp, hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội
vận động cùng chiều, nhưng lại có một số trường hợp hai mặt đó lại mâu thuẫn với
nhau. Có những hoạt động kinh doanh không mang lại lợi nhuận, thậm chí có thể
thua thiệt, nhưng doanh nghiệp vẫn kinh doanh vì lợi ích chung để thực hiện mục tiêu
kinh tế xã hội nhất định điều đó xảy ra đối với các doanh nghiệp công ích.
1.2.3 Hiệu quả trước mắt với hiệu quả lâu dài.
Các chỉ tiêu hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp phụ thuộc rất lớn vào mục
tiêu của doanh nghiệp do đó mà tính chất hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh ở
các giai đoạn khác nhau. Xét về tính lâu dài thì các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của
toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh doanh trong suốt quá trình hoạt động của doanh
nghiệp là lợi nhuận và các chỉ tiêu về doanh lợi. Xét về tính hiệu quả trước mắt (hiện
tại) thì nó phụ thuộc vào các mục tiêu hiện tại mà Doanh nghiệp đang theo đuổi.
Trong thực tế để thực mục tiêu bao trùm lâu dài của doanh nghiệp là tối đa hóa lợi
nhuận, có rất nhiều doanh nghiệp hiện tại không đạt được mục tiêu là lợi nhuận mà
lại thực hiện các mục tiêu nâng cao năng suất và chất lượng của sản phẩm, nâng cao
uy tín danh tiếng của doanh nghiệp, mở rộng thị trường cả về chiều rộng lẫn chiều
sâu… do đó mà các chỉ tiêu hiệu quả ở đây về lợi nhuận là không cao nhưng chỉ tiêu
có liên quan đến các mục tiêu đã đề ra của doanh nghiệp là cao thì chúng ta không
thể kết luận là doanh nghiệp đang hoạt động không có hiệu quả, mà phải kết luận là
doanh nghiệp đang hoạt động có hiệu quả. Như vậy các chỉ tiêu hiệu quả mà tính hiệu
quả trước mắt có thể là trái với các chỉ tiêu hiệu quả lâu dài, nhưng mục đích của nó
lại là nhằm thực hiện chỉ tiêu hiệu quả lâu dài.
2.Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp.
2.1. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả kinh doanh trong doanh nghiệp.
2.1.1.Đối với doanh nghiệp.
Họ tên sinh viên: Nguyễn Văn Đại Lớp: Kế hoạch 48B
9
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và phát triển
Sản xuất kinh doanh có đạt hiệu quả hay không luôn là điều kiện sống còn đối

với mọi doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp phải đối mặt với bài toán sản xuất kinh
doanh với điều kiện nguồn lực là hữu hạn. Doanh nghiệp phải giải quyết ba vấn đề cơ
bản là: sản xuất cái gì? Sản xuất cho ai? Sản xuất như thế nào? Các vấn đề cơ bản đó
cần được giải quyết với mục tiêu cuối cùng là tạo ra doanh thu, lợi nhuận càng cao
càng tốt cho doanh nghiệp. Và để đạt được mục tiêu đó thì việc nâng cao hiệu quả
sản xuất là một vấn đề tất yếu mà mỗi doanh nghiệp luôn phải chú trọng, không
ngừng nâng cao nó.
Nâng cao hiệu quả kinh doanh sẽ giúp cho doanh nghiệp sản xuất sản xuất
được nhiều hàng hóa hơn, giảm thiểu chi phí xuông mức thấp nhất tạo ra nền móng
phát triển, mở rộng kinh doanh một cách bền vững.
Việc kinh doanh có hiệu quả còn giúp cho doanh nghiệp tạo ra lợi thế cạnh
tranh để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường ẩn chứa nhiều rủi ro và thách
thức. Doanh nghiệp phải có được lợi nhuận và đạt được lợi nhuận ngày càng cao.
Hiện nay thị trường của doanh nghiệp không chỉ còn bó hẹp trong một khu
vực, một vùng hay một quốc gia nữa. Thị trường của doanh nghiệp đã vươn ra ngoài
quốc gia, là tất cả các quốc gia, các cùng dân cư trên thế giới. Đặc biệt khi Việt Nam
đã trở thành thành viên chính thức của Tổ chức thương mại thế giới WTO thì thị
trường hàng hóa cho các doanh nghiệp trở nên lớn hơn rất nhiều. Thị trường đó luôn
tiềm ẩn những hứa hẹn sự phát triển mới, những kỳ vọng về sản lượng bán được,
những con số doanh thu hấp dẫn nhưng nó cũng tiềm ẩn trong đó không ít những khó
khăn thách thức. Các doanh nghiệp có thể có chỗ đứng riêng trước những công ty
lớn, những tập đoàn nổi tiếng đã có nhiều lợi thế kinh doanh? Lúc này hơi nóng của
canh tranh không chỉ ở thị trường bên ngoài mà còn len lỏi vào từng vùng trong nước
cũng mạnh mẽ và khắc nghiệt không kém. Thị trường rộng lớn, thuận lợi nhiều, khó
khăn cũng không ít buộc các doanh nghiệp phải tìm được ra hướng phát triển riêng
cho mình để không những không bị lấn át mà còn phải ngày càng phát triển, mở rộng
sản xuất. Và nền móng cho mọi hướng đi đó chính là đạt được hiệu quả cao trong sản
xuất kinh doanh. Có đạt được hiệu quả kinh doanh thì doanh nghiệp mới có thế hạn
chế và vượt qua các thách thức cũng như tận dụng triệt để hơn những thuận lợi để
phát triển. Có đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp mới có thể thu

được lợi nhuận và tìm được chỗ đứng riêng, mới có thể phát triển sản xuất, mở rộng
thị trường.
Họ tên sinh viên: Nguyễn Văn Đại Lớp: Kế hoạch 48B
10
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và phát triển
Trong cơ chế thị trường việc nâng cao hiệu quả kinh doanh vô cùng quan
trọng. Nó là cơ sở cơ bản đảm bảo cho sự tồn tại của doanh nghiệp. Sự tồn tại của
doanh nghiệp được xác định bằng sự tạo ra hàng hóa, dịch vụ cho xã hội. Để làm
được điều đó thì trước hết doanh nghiệp cần phải bù đắp được chi phí và kinh doanh
có lãi. Có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu tái sản xuất trong nền kinh tế. Vì vậy
mà nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trở thành một yêu cầu tất yếu. Tuy nhiên
trong nền kinh tế thị trường thì doanh nghiệp không những cần tồn tại mà nó còn phải
phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh. Để làm được điều đó thì ngoài việc phải bù
đắp được chi phí thì doanh nghiệp cần phải có tích lũy mới có thể đảm bảo cho quá
trình tái sản xuất mở rộng. Và đạt được hiệu quả kinh doanh cao sẽ giúp cho quá
trình tích lũy diễn ra nhanh hơn, và một lần nữa việc nâng cao hiệu quả kinh doanh
lại được nhấn mạnh.
Nâng cao hiệu quả kinh doanh còn là một nhân tố thúc đẩy sự tiến bộ và
sáng tạo trong kinh doanh của doanh nghiệp. Chính việc thúc đẩy cạnh tranh yêu cầu
các doanh nghiệp phải tự tìm tòi, đầu tư tạo nên sự tiến bộ trong kinh doanh.
Mục tiêu cuối cùng của các doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động kinh
doanh đó chính là tối đa hóa lợi nhuận. Nếu doanh nghiệp sử dụng các nguồn lực một
cách tiết kiệm thì lợi nhuận thu được càng lớn. Nâng cao hiệu quả kinh doanh cũng
chính là nâng cao khả năng sinh lời trên mỗi đơn vị đầu vào, từ đó đòi hỏi doanh
nghiệp cần biết cách kết hợp và sử dụng một cách tiết kiệm các yếu tố đầu vào đó. Vì
vậy nâng cao hiệu quả kinh doanh cũng chính là điều kiện để doanh nghiệp tối đa hóa
lợi nhuận, là con đường nâng cao sức cạnh tranh và khả năng tồn tại, phát triển của
mỗi doanh nghiệp.
Tóm lại, đạt được hiệu quả sản xuất kinh doanh và nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh luôn là vấn đề được quan tâm của doanh nghiệp và trở thành điều

kiện sống còn để doanh nghiệp có thế tồn tại và phát triển bền vững trong nền kinh tế
thị trường.
2.1.2.Đối với người lao động.
Một nhân tố đầu vào không thể thiếu trong quá trình sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp đó chính là nguồn nhân lực. Nguồn nhân lực trong doanh nghiệp là
các thành viên trong ban quản trị, các nhân viên văn phòng và những người công
nhân lao động. Mỗi người có vai trò và nhiệm vụ khác nhau trong quá trình tiến hành
Họ tên sinh viên: Nguyễn Văn Đại Lớp: Kế hoạch 48B
11
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và phát triển
sản xuất kinh doanh. Khi tham gia vào quá trình sản xuất con người đóng vai trò chủ
đạo, là chủ thể sáng tạo và chi phối toàn bộ quá trình đó và hướng nó tới mục tiêu
kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy nguồn nhân lực không chỉ đơn thuần là số
lượng lao động đã có mà còn bao gồm các yếu tố khác như: thể lực, trí lực, thái độ và
phong cách làm việc
Cũng giống như các nguồn lực khác, số lượng và đặc biệt là chất lượng
nguồn nhân lực đóng một vai trò hết sức quan trọng trong quá trình kinh doanh tạo ra
của cải vật chất, các dịch vụ phục vụ nhu cầu người tiêu dùng.
Người lao động làm việc trong doanh nghiệp trước hết là do động cơ kinh
tế, mong có thu nhập cao để đảm bảo cho bản thân và gia đình họ một cuộc sống no
đủ. Đây là động cơ quan trọng và có tính trực tiếp của người lao động. Họ luôn mong
muốn có một công việc ổn định với thu nhập cao.
Mối quan hệ giữa người lao động và hiệu quả kinh doanh của doanh
nghiệp là mối quan hệ hai chiều. Nếu người lao động làm việc chăm chỉ, sáng tạo thì
sẽ làm tăng năng suất lao động và từ đó góp phần thúc đẩy nâng cao hiệu quả sản
xuất kinh doanh. Trong sản xuất kinh doanh thì nhân tố con người là một nhân tố đầu
vào đặc biệt và luôn luôn thay đổi. Năng suất lao động, sự sáng tạo, khả năng lao
động ở mỗi cá nhân là không giống nhau. Hiệu quả trong công việc của từng cá nhân
sẽ làm tăng năng suất lao động chung cho toàn bộ doanh nghiệp. Điều này sẽ làm
giảm chi phí, tận dụng tối đa nguồn nhân lực và sử dụng một cách tiết kiệm các yếu

tố đầu vào khác. Và cũng chính vì thế mà hiệu quả sản xuất kinh doanh chung của
doanh nghiệp được nâng cao. Còn nếu nguồn nhân lực làm việc không hiệu quả, sử
dụng lãng phí tài nguyên, nó sẽ tạo ra một hệ quả tất yếu là năng suất lao động thấp
và làm giảm tính hiệu quả trong quá trình sản xuất kinh doanh, kéo theo sự giảm sút
về doanh thu. Ngược lại điều kiện lao động của người lao động được cải thiện là
nhân tố để tăng năng suất lao động, tăng khả năng làm việc và bảo đảm sức khoẻ, an
toàn cho người lao động. Việc nâng cao hiệu quả kinh doanh sẽ có sự tác động trực
tiếp tới đời sống của họ, nếu như doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả cao, tạo công ăn
việc làm, cuộc sống được nâng lên nhờ tăng lương, các khoản thưởng, chế độ xã hội,
còn nếu như các doanh nghiệp làm ăn không có hiệu quả sẽ có nhiều người lao động
bị thất nghiệp, lương thấp trực tiếp làm giảm thu nhập của họ. Khi doanh nghiệp kinh
doanh đạt hiệu quả cao không những tạo ra sự phát triển vững chắc cho bản thân
doanh nghiệp mà nó còn tạo ra một nơi làm việc ổn định làm cho người lao động yên
Họ tên sinh viên: Nguyễn Văn Đại Lớp: Kế hoạch 48B
12
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và phát triển
tâm làm việc. Mặt khác việc kinh doanh hiệu quả nó còn tạo ra sức hút đối với những
người lao động ở nơi khác về tạo ra nhiều sự lựa chọn cho doanh nghiệp trong quá
trình tuyển chọn nhân sự vào làm việc.
Mặt khác, có đạt được hiệu quả trong sản xuất kinh doanh thì doanh nghiệp
mới tăng được lợi nhuận và từ đó mới có thể tăng lương mà chăm lo tốt hơn cho đời
sống của người lao động. Lúc này việc khen thưởng đãi ngộ sẽ được tổ chức thường
xuyên hơn nhằm khích lệ tinh thần làm việc và thi đua trong doanh nghiệp.
2.1.3.Đối với nhà nước.
Bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động kinh doanh đều chịu sự tác động của
nhà nước. Nhà nước tác động lên các doanh nghiệp thông qua các chính sách, hệ
thống pháp luật,… Các doanh nghiệp kinh doanh phải thực hiện các nghĩa vụ nhất
định đối với nhà nước. Ví dụ như nộp thuế thu nhập doanh nghiệp, ngoài ra doanh
nghiệp còn giải quyết giúp cho nhà nước công ăn việc làm cho một bộ phận dân cư.
Chính vì những lý do trên mà hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp có những

ảnh hưởng nhất định tới nhà nước. Khi mà doanh nghiệp kinh doanh càng hiệu quả
thì nó đóng góp vào cho ngân sách nhà nước càng nhiều. Đối với các doanh nghiệp
sản xuất thì nó còn góp phần tiết kiệm các nguồn lực trong nước đặc biệt là nguồn tài
nguyên thiên nhiên. Doanh nghiệp kinh doanh đạt hiệu quả cao thì sẽ có tích lũy, có
thể tiến hành tái sản xuất mở rộng và ngày càng tạo ra nhiều công ăn việc làm hơn
cho người lao động giúp nhà nước giải quyết giảm thấp được lượng lao động nhàn
rỗi, giảm tỉ lệ thất nghiệp, nâng cao đời sống nhân dân. Còn nếu như mà doanh
nghiệp kinh doanh không đạt hiệu quả thì nó kéo theo những hệ quả ngược lại. Lúc
đó, lợi nhuận nếu có thì cũng rất thấp đồng nghĩa với mức độ đóng góp vào ngân
sách chung giảm. Và tất nhiên doanh nghiệp cũng không tạo ra nhiều tích lũy để có
thể đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng, do vậy nó cũng không tạo thêm được
công ăn việc làm cho người lao động. Trầm trọng hơn là khi doanh nghiệp làm ăn
thua lỗ thì nó sẽ dẫn tới thu hẹp quy mô sản xuất kinh doanh hoặc phá sản làm tăng
thêm lao động nhàn rỗi và tăng tỷ lệ thất nghiệp làm nảy sinh các vấn đề xã hội khác
(như các tệ nạn, mức sống người lao động mất việc giảm,…)
2.2.Các nhân tố ảnh hưởng đến việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp.
Họ tên sinh viên: Nguyễn Văn Đại Lớp: Kế hoạch 48B
13
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và phát triển
Hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp là một chỉ tiêu chất lượng tổng
hợp, nó có liên quan tới tất cả các mặt trong hoạt động kinh doanh, do đó chịu tác
động của nhiều nhân tố khác nhau.
2.2.1.Nhân tố thị trường đầu vào và thị trường đầu ra của doanh nghiệp.
Thị trường có thể được khái niệm theo nhiều cách khác nhau. Chúng được xem
xét từ nhiều góc độ và được đưa ra vào các giai đoạn khác nhau trong quá trình phát
triển kinh tế hàng hóa. Nếu hiểu theo nghĩa hẹp thị trường là địa điểm hay không gian
của trao đổi hàng hóa, đó là nơi gặp gỡ giữa người bán, người mua, hàng và tiền và ở
đó diễn ra các hoạt động mua bán. Nếu hiểu theo nghĩa rộng thì thị trường là các hiện
tượng kinh tế được phản ánh thông qua trao đổi và lưu thông hàng hóa cùng với các

quan hệ giữa người với người trong quá trình trao đổi, mua bán hàng hóa và các dịch
vụ.
Thị trường đầu vào của doanh nghiệp là thị trường cung cấp các hàng hóa,
dịch vụ cho quá trình sản xuất cúa doanh nghiệp. Các yếu tố đầu vào chủ yếu bao
gồm lao động, các nguyên liệu, nhiên liệu, máy móc thiết bị và các yếu tố đầu vào
khác sử dụng trong quá trình sản xuất. Các yếu tố đầu vào sẽ chi phối, quyết định
tính hiệu quả của giai đoạn đầu ( thường là giai đoạn sản xuất, tạo sản phẩm) của quá
trình sản xuất kinh doanh. Tính hiệu quả trong giai đoạn này phụ thuộc vào chất
lượng của bản thân các yếu tố đầu vào. Nếu trình độ lao động cao, nguồn nguyên
nhiên vật liệu có chất lượng tốt, máy móc vận hành trơn tru thì sẽ giúp cho quá trình
sản xuất đạt được hiệu suất cao, nâng cao được hiệu quả của quá trình sản xuất tạo
tiền đề cho việc kinh doanh đạt được hiệu quả cao. Và ngược lại chất lượng các yếu
tố đầu vào không được đảm bảo như nguồn nhân lực yếu kém, trình độ thấp, nguồn
nguyên nhiên vật liệu không ổn định, chất lượng thấp, máy móc cũ kỹ nhanh phải sửa
chữa sẽ làm giảm hiệu suất sản xuất, giảm năng suất lao động. Điều này sẽ làm hạ
thấp hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Thị trường đầu ra của doanh nghiệp là thị trường mà ở đó doanh nghiệp bán sản
phẩm, dịch vụ của mình. Ở trong thị trường của mình doanh nghiệp có những lợi thế
cạnh tranh và có một vị trí nhất định. Thị trường đầu ra quyết định số lượng bán cho
nên nó có ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu của doanh nghiệp. Do đó nó quyết định
quá trình tái sản xuất và tính hiệu quả của quá trình kinh doanh. Thị trường mà lớn và
ổn định, có ít đối thủ cạnh tranh thì công việc kinh doanh sẽ đạt được nhiều thuận lợi,
doanh thu thu về ổn định và tăng dần theo thời gian cùng với quá trình tái sản xuất
Họ tên sinh viên: Nguyễn Văn Đại Lớp: Kế hoạch 48B
14
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và phát triển
mở rộng. Ngược lại nếu thị trường hẹp và không ổn định, sự cạnh tranh diễn ra gay
gắt thì nó sẽ ẩn chứa trong nó nhiều rủi ro kinh doanh, doanh thu thu được không lớn
và bấp bênh, doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc muốn tái sản xuất mở rộng, hiệu
quả kinh doanh bị hạn chế.

Thị trường đầu vào và thị trường đầu ra nó ảnh hưởng trực tiếp tới hai giai đoạn
của quá trình sản xuất kinh doanh là sản xuất và tiêu thụ. Cả hai thị trường này đều
rất quan trọng cần được thường xuyên củng cố và phát triển ngày càng sâu rộng. Khi
có được thị trường đầu vào ổn định, chất lượng cao và một thị trường đầu ra rộng lớn
thì hiệu quả kinh doanh thu được sẽ càng cao, doanh nghiệp ngày càng phát triển.
Trong cơ chế hiện nay cạnh tranh là điều kiện, là tiền đề cho sự phát triển kinh
tế. trên thị trường các doanh nghiệp đều hoạt động và cạnh tranh với nhau, điều đó
đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải nắm bắt nhanh chóng, kịp thời chính xác và đầy đủ
các thông tin về thị trường để đưa ra các biện pháp tác động thích hợp tới quá trình
kinh doanh của mình nhằm giành ưu thế trong cạnh tranh.
2.2.2.Nhân tố kỹ thuật và công nghệ.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay công nghệ là yếu tố quyết định cho sự
phát triển của sản xuất kinh doanh, là cơ sở để doanh nghiệp khẳng định vị trí của
mình trên thương trường. Chính sách công nghiệp hoá, hiện đại hoá của đảng và nhà
nước chính là để khuyến khích các doanh nghiệp thích ứng tốt hơn với những thay
đổi trong môi trường công nghệ. Sự thay đổi của công nghệ tác động tới doanh
nghiệp theo nhiều khía cạnh khác nhau, đặc biệt nó không tách rời khỏi yếu tố con
người. Hơn nữa yếu tố con người còn quyết định sự thành công hay thất bại của
những thay đổi lớn trong công nghệ.
Công nghệ và đổi mới công nghệ là động lực, là nhân tố của phát triển trong các
doanh nghiệp. Đổi mới công nghệ là yếu tố là biện pháp cơ bản giữ vai trò quyết định
để doanh nghiệp giành thắng lợi trong cạnh tranh .Công nghệ lạc hậu sẽ tiêu hao
nguyên vật liệu lớn, chi phí nhân công và lao động nhiều, do vậy và giá thành tăng.
Nền kinh tế hàng hoá thực sự đặt ra yêu cầu bức bách, buộc các doanh nghiệp
muốn tồn tại và phát triển muốn có vị trí vững chắc trong quá trình cạnh tranh phải
thực hiện gắn sản xuất với khoa học kỹ thuật và coi chất lượng sản phẩm là vũ khí
sắc bén nhất trong cạnh tranh trên thị trường đồng thời là phương pháp có hiệu qủa
tạo ra nhu cầu mới. Ngày nay, cạnh tranh giá cả đã chuyển sang cạnh tranh chất
Họ tên sinh viên: Nguyễn Văn Đại Lớp: Kế hoạch 48B
15

Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và phát triển
lượng. Như vậy vai trò của đổi mới công nghệ tiên tiến có thể giải quyết được các
vấn đề mà nền kinh tế thị trường đặt ra.
Căn cứ vào các đặc trưng của công nghệ cũng như nhu cầu cần thiết của việc
đổi mới công nghệ thì mục đích chính và quan trọng nhất của đổi mới công nghệ là
nhằm đạt hiệu quả kinh tế cao, duy trì và phát triển doanh nghiệp ngày càng đi lên.
Mục đích đổi mới công nghệ cần phải tập chung là:
-Tăng sức cạnh tranh cho doanh nghiệp về chất lượng , sản phẩm, thông qua
chiến lược sản phẩm trên cơ chế thị trường.
-Tăng năng suất lao động, tạo ra hiệu quả cao cho các doanh nghiệp
-Tạo ra lợi nhuận siêu nghạch, đạt được năng suất cao trong sản xuất kinh
doanh .
-Góp phần thực hiện tốt chủ trương của đảng và nhà nước về CNH, HĐH trong
các doanh nghiệp phù hợp với xu hướng chung của cả nước.
Ảnh hưởng của các yếu tố thuộc môi trường kinh tế và công nghệ đến hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp là rất lớn. Các yếu tố thuộc môi trường này quy định
cách thức doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế trong việc sử dụng tiềm năng của
mình và qua đó cũng tạo ra cơ hội kinh doanh cho từng doanh nghiệp, bao gồm:
- Tiềm năng của nền kinh tế, các thay đổi về cấu trúc, cơ cấu kinh tế của nền
kinh tế quốc dân, tốc độ tăng trưởng kinh tế, lạm phát, xu hướng mở/đóng của nền
kinh tế, tỷ giá hối đoái, mức độ thất nghiệp…
- Cơ sở hạ tầng kỹ thuật nền kinh tế, trình độ trang bị kỹ thuật/công nghệ, khả
năng nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong kinh tế/ngành kinh tế.
2.2.3.Nhân tố về tổ chức.
Đây cũng là vấn đề lớn góp phần nâng cao năng suất lao động. Vì cơ cấu tổ
chức của doanh nghiệp mà thích ứng với môi trường kinh doanh, nhanh nhạy với sự
thay đổi của môi trường, bộ máy của doanh nghiệp phải gọn nhẹ, năng động, linh
hoạt giữa các bộ phận của doanh nghiệp phải xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn chế độ trách nhiệm tránh sự chồng chéo và nâng cao tinh thần trách nhiệm của
mỗi người, nâng cao tính chủ động sáng tạo trong kinh doanh thì sẽ góp phần nâng

cao năng suất lao động.
Họ tên sinh viên: Nguyễn Văn Đại Lớp: Kế hoạch 48B
16
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và phát triển
Quá trình sản xuất trong doanh nghiệp nhân tố này bảo đảm cho dây chuyền sản
xuất cân đối, cho phép doanh nghiệp khai thác tới mức tối đa các yếu tố vật chất
trong sản xuất đó mà góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh.
2.2.4.Nhân tố về quản lý.
Nhân tố này tạo điều kiện cho doanh nghiệp sử dụng hợp lý và tiết kiệm các yếu
tố vật chất trong quá trình kinh doanh, giúp lãnh đạo doanh nghiệp đưa ra những
quyết định chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp chính xác, kịp thời tạo ra những
động lực to lớn để khuyến khích sản xuất phát triển.
Trong sản xuất kinh doanh hiện tại, đối với mọi doanh nghiệp có đặc điểm sản
xuất kinh doanh cũng như quy mô khác. Nhân tố quản trị đóng vai trò càng lớn trong
việc nâng cao hiệu quả và kết qủa hoạt động sản xuất kinh doanh.
Đội ngũ các nhà quản trị mà đặc biệt là các nhà quản trị cao cấp, lãnh đạo doanh
nghiệp bằng phẩm chất và tài năng của mình có vai trò quan trọng bậc nhất, ảnh
hưởng có tính chất quyết định đến sự thành đạt của một doanh nghiệp. Kết quả và
hiệu quả hoạt động của quản trị doanh nghiệp đều phụ thuộc rất lớn vào trình độ
chuyên môn của đội ngũ các nhà quản trị cũng như cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị
doanh nghiệp, việc xác định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng bộ phận chức
năng và thiết lập mối quan hệ giữa các bộ phận chức năng đó. Người quản trị doanh
nghiệp phải chú ý tới ba nhiệm vụ chính.
- Xây dựng tập thể thành một hệ thống đoàn kết, năng động, sáng tạo, lao động
đạt hiệu quả cao.
- Dìu dắt tập thể dưới quyền, hoàn thành mục đích và mục tiêu của doanh
nghiệp một cách vững chắc và ổn định.
- Phân công công việc một cách hợp lý, phát huy sức sáng tạo, khả năng làm
việc của từng cá nhân trong doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại
đơn vị mình.

2.2.5.Nhân tố về lực lượng lao động.
Người ta nhắc đến luận điểm ngày càng khoa học kỹ thuật công nghệ đã trở
thành lực lượng lao động trực tiếp, áp dụng kỹ thuật tiên tiến là điều kiện trên quyết
để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp .Tuy nhiên, cần thấy rằng:
Thứ nhất, máy móc dù tối tân đến đâu cũng do con người chế tạo. Nếu không có sự
Họ tên sinh viên: Nguyễn Văn Đại Lớp: Kế hoạch 48B
17
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và phát triển
lao động sáng tạo của con người sẽ không thể có các máy móc thiết bị đó. Thứ hai,
máy móc thiết bị có hiện đại đến đâu thì cũng phải phù hợp với trình độ tổ chức kỹ
thuật, trình độ sử dụng máy móc của người lao động. Thực tế do trình độ sử dụng
kém nên vừa không đem lại năng suất cao vừa tốn kém tiền bạc cho hoạt động sửa
chữa, kết cục là hiệu quả sản xuất kinh doanh thấp.
Trong sản xuất kinh doanh lực lượng lao động của doanh nghiệp có thể vừa
sáng tạo vừa đưa chúng vào sử dụng tạo ra tiềm năng lớn cho việc nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh cũng chính lực lượng này sáng tạo ra sản phẩm mới. Với kiểu
dáng phù hợp với người tiêu dung làm cho sản phẩm cảu doanh nghiệp có thể bán với
giá cao tạo ra hiệu quả kinh doanh cao. Lực lượng lao động trực tiếp tác động đến
năng suất lao đông, trình độ sử dụng nguồn lực khác (máy móc thiết bị, nguyên vật
liệu....) nên tác động trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Chăm lo việc đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn của đội ngũ
lao động được coi là nhiệm vụ hàng đầu của nhiều doanh nghiệp hiện nay và thực tế
cho thấy những doanh nghiệp mạnh trên thị trường thế giới là những doanh nghiệp có
đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn cao , có tác phong làm việc khoa học và có
kỷ luật nghiêm minh. Việc sở hữu một đội ngũ cán bộ năng động, một đội ngũ công
nhân lành nghề, khéo léo, sáng tạo trong công việc sẽ là một nhân tố nâng cao hiệu
quả sản xuất, là động lực giúp doanh nghiệp phát triển nhanh chóng và bền vững..
2.2.6.Nhân tố thông tin.
Ngày nay, thông tin được coi là một hàng hoá, là đối tượng kinh doanh và nền
kinh tế thị trường hiện nay được coi là nền kinh tế thông tin hoá. Để đạt được hiệu

quả cao trong sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần có nhiều thông tin chính xác
về cung cầu thị trường, dịch vụ, hàng hoá, công nghệ, đối thủ cạnh tranh , thông tin
về giá cả , tỷ giá...
Ngoài ra, doanh nghiệp còn rất cần đến các thông tin về kinh nghiệm thành công
hay thất bại của các doanh nghiệp khác ở trong nước và quốc tế, cần biết các thông
tin về thay đổi trong các chính sách kinh tế của nhà nước và các nước khác có liên
quan.
Trong sản xuất kinh doanh biết mình biết người và nhất là hiểu rõ được các đối
thủ cạnh tranh thì mới có đối sách giành thắng lợi trong cạnh tranh , có chính sách
phát triển mối quan hệ hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau kinh nghiệm thành công của nhiều
Họ tên sinh viên: Nguyễn Văn Đại Lớp: Kế hoạch 48B
18
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và phát triển
doanh nghiệp nắm bắt được các thông tin cần thiết và xử lý, sử dụng các thông tin đó
kịp thời là một điều kiện quan trọng để ra các quyết định sản xuất kinh doanh có hiệu
quả cao. Những thông tin chính xác được cung cấp kịp thời sẽ là cơ sở vững chắc để
doanh nghiệp xác định phương hướng kinh doanh, xây dựng chiến lược sản xuất kinh
doanh dài hạn của doanh nghiệp .
Như vậy vai trò của hệ thống thông tin là rất lớn, đặc biệt là trong cơ chế thị
trường với nhiều biến động thay đổi không ngừng. Thông tin về bản thân doanh
nghiệp, thông tin về đối thủ cạnh tranh, thông tin về thị trường, thông tin về các chính
sách của nhà nước,… doanh nghiệp cần phải thường xuyên cập nhật, phân tích để có
thể đưa ra các quyết định kinh doanh chính xác, hiệu quả, sản phẩm đáp ứng được
nhu cầu khách hàng, tránh dự lỗi thời, lạc hậu, kém thế trong cạnh tranh.
Việc xây dựng một bộ phận có khả năng thu thập thông tin chính xác, kịp thời,
có khả năng phân tích, xử lý thông tin tốt sẽ nâng cao hiệu quả kinh doanh trong
doanh nghiệp lên cao.
2.2.7.Nhân tố về vận dụng đòn bẩy kinh tế.
Nhân tố này cho phép doanh nghiệp khai thác tới tối đa tiềm năng về lao động,
tạo điều kiện cho mọi người, mọi khâu và các bộ phận trong doanh nghiệp phát huy

được đầy đủ quyền chủ động sáng tạo trong quá trình sản xuất kinh doanh. Ngoài ra
nhân tố này cũng cho phép doanh nghiệp tận dụng tốt các cơ hội khách quan trong
quá trình kinh doanh như chính sách khuyến khích mở rộng kinh doanh của nhà
nước, thị trường mở rộng, có thêm khách hàng mới. Việc khai thác tốt tiềm năng về
lao động, tận dụng triệt để cơ hội kinh doanh sẽ làm tăng thêm hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp.
Việc nắm bắt cơ hội và tận dụng tốt cơ hội đó rất quan trọng trong kinh doanh,
nó tạo ra điểm nhấn trong sự phát triển của doanh nghiệp, tạo ra các bước tiến vượt
trội so với đối thủ cạnh tranh.
3. Các chỉ tiêu hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh là một vấn đề phức tạp có quan hệ đến toàn
bộ các yếu tố của quá trình sản xuất kinh doanh ( lao động, tư liệu lao động và đối
tượng lao động). Để đánh giá chính xác và có cơ sở khoa học hiệu quả sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp cần phải xây dựng hệ thống chỉ tiêu phù hợp gồm các chỉ
tiêu tổng quát và chỉ tiêu chi tiết để tính toán. Các chỉ tiêu chi tiết phải phù hợp thống
Họ tên sinh viên: Nguyễn Văn Đại Lớp: Kế hoạch 48B
19
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và phát triển
nhất với công thức đánh giá hiệu quả chung. Khi xem xét hiệu quả kinh doanh của
mỗi doanh nghiệp, cần phải dựa vào một hệ thống các tiêu chuẩn, các doanh nghiệp
phải coi các tiêu chuẩn là mục tiêu phấn đấu. Có thể hiểu tiêu chuẩn hiệu quả là giới
hạn, là mốc xác định ranh giới có hay không có hiệu quả. Nếu theo phương pháp so
sánh toàn ngành có thể lấy giá trị bình quân đạt được của ngành làm tiêu chuẩn hiệu
quả. Nếu không có số liệu của toàn ngành thì so sánh với các chỉ tiêu của năm trước.
Cũng có thể nói rằng, các doanh nghiệp có đạt được các chỉ tiêu này mới có thể đạt
được các chỉ tiêu về kinh tế.
3.1Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tổng quát.
Nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh của toàn bộ hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, được dùng để phản ánh chính xác hoạt
động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp và được dùng để so sánh giữa các doanh

nghiệp với nhau và so sánh trong doanh nghiệp qua các thời kỳ để xem xét các thời
kỳ doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả cao hơn hay không.
Doanh lợi doanh thu bán hàng
Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả của doanh nghiệp đã tạo ra được bao nhiêu đồng
lợi nhuận từ một đồng kinh doanh bán hàng. Chỉ tiêu này có ý nghĩa khuyến khích
các doanh nghiệp tăng doanh thu, giảm chi phí. Nhưng để có hiệu quả thì tốc độ tăng
doanh thu phải nhỏ hơn tốc độ tăng lợi nhuận.
Doanh lợi doanh thu bán hàng = (lợi nhuận trong kỳ/ doanh thu trong kỳ) x100
Chi phí đầu vào bao gồm lao động, đối tượng lao động, vốn kinh doanh, còn kết
quả đầu ra được đo bằng số lượng sản phẩm dịch vụ, doanh thu và lợi nhuận ròng.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh =Kết quả đầu ra/ Chi phí đầu vào
Công thức trên phản ánh sức sản xuất hay sức sinh lời của các chỉ tiêu phản ánh
chi phí đầu vào, được tính cho tổng số hoặc tính riêng phần gia tăng. Các tính này đã
khắc phục những tồn tại khi tính theo dạng hiệu số. Nó đã tạo điều kiện nghiên cứu
kết quả sản xuất kinh doanh một cách toàn diện hơn.
3.2Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả bộ phận:
3.2.1 Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động.
- Chỉ tiêu năng suất lao động
Họ tên sinh viên: Nguyễn Văn Đại Lớp: Kế hoạch 48B
20
Chuyên đề tốt nghiệp Khoa Kế hoạch và phát triển
NSLĐ =
Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ
tổng số lao động trong kỳ.
- Chỉ tiêu lợi nhuận bình quân cho một lao động:
- Lợi nhuận bình quân tính cho 1 lao động = Lợi nhuận trong kỳ/ tổng số lao
động bình quân trong kỳ.
Chỉ tiêu này cho thấy với mỗi lao động trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi
nhuận trong kỳ. Dựa vào chỉ tiêu này để so sánh mức tăng hiệu quả của mỗi lao động
trong kỳ.

3.2.2 Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn.
- Hiệu suất sử dụng vốn cố định
Hiệu suất sử dụng vốn cố định =
Lợi nhuận trong kỳ
vốn cố định bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết với một đồng vốn cố định tạo ra được bao nhiêu đồng lợi
nhuận, thể hiện trình độ sử dụng tài sản cố định, khả năng sinh lợi của tài sản cố định
trong sản xuất kinh doanh.
- Hiệu quả sử dụng vốn lưu động:
Sức sản xuất của vốn lưu động =
Doanh thu tiêu thụ sản phẩm trong kỳ
Vốn lưu định bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết với một đồng vốn lưu động tạo ra bao nhiêu đồng doanh
thu trong kỳ. Nếu chỉ tiêu này tăng qua các thời kỳ chứng tỏ hiệu quả sử dụng đồng
vốn lưu động tăng.
Hiệu quả sử dụng vốn lưu động =
Lợi nhuận trong kỳ
Vốn lưu động bình quân trong kỳ
Họ tên sinh viên: Nguyễn Văn Đại Lớp: Kế hoạch 48B
21

×