Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

LUẬN VĂN: Hiệu quả sử dụng vốn ở các doanh nghiệp công nghiệp sau cổ phần hóa của Đà Nẵng pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (701.39 KB, 94 trang )















LUẬN VĂN:

Hiệu quả sử dụng vốn ở các doanh
nghiệp công nghiệp sau cổ phần hóa
của Đà Nẵng





















mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong xu thế mở cửa và hội nhập kinh tế thì việc nâng cao hiệu quả hoạt động
của DN phải được coi là nhiệm vụ cấp bách và cũng là nhiệm vụ chiến lược. CPH
DNNN đến nay được coi là một giải pháp có nhiều ưu điểm nhất trong các giải pháp tái
cơ cấu lại DNNN. Hội nghị trung ương 3 khóa IX (tháng 9/2001) đã ra nghị quyết “Về
tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN”, coi đó là nhiệm vụ
cấp bách và cũng là nhiệm vụ chiến lược lâu dài với nhiều khó khăn, phức tạp, mới mẻ.
Đến Hội nghị trung ương 9 khóa IX (tháng 01/2004) Đảng ta quyết định “Tiếp tục sắp
xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả khu vực DNNN, trọng tâm là CPH mạnh
hơn nữa” [17, tr.191]. Đại hội X Đảng ta tiếp tục khẳng định: “khuyến khích phát triển
mạnh hình thức đa sở hữu mà chủ yếu là các DNCP thông qua việc đẩy mạnh CPH
DNNN” [18, tr.231]. “Đẩy mạnh và mở rộng diện CPH DNNN, kể cả các tổng công ty,
nhằm tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, để vốn Nhà nước sử dụng có
hiệu quả và ngày càng tăng lên, đồng thời thu hút mạnh các nguồn lực trong nước,
ngoài nước cho phát triển. Thực hiện nguyên tắc thị trường trong việc CPH
DNNN”[18, tr.232].
Quá trình CPH DNNN thời gian qua là quá trình “vừa đi, vừa dò”, từ “khép kín” sang
thực hiện đấu giá công khai theo nguyên tắc thị trường, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm với tinh
thần chủ động, từng bước vững chắc [35, tr.18]. Thực tiễn sau 13 năm thực hiện CPH
DNNN, kể từ năm 1992, nhất là sau Nghị quyết trung ương 3 và Nghị quyết trung ương 9
khóa IX trở lại đây cho thấy, chủ trương đó là hoàn toàn đúng đắn, ngày càng đi vào cuộc

sống. Nếu 6 năm kể từ 1992 đến 1998, chúng ta chỉ CPH được 30 DN, và 5 năm sau đó, kể
từ 1998 tới trước Hội nghị trung ương 3 khóa IX (tháng 8/2001), có 523 DNNN được CPH
thì trong vòng hơn 4 năm trở lại đây, chúng ta đã hoàn thành CPH 2.347 DNNN, nâng số
DNNN được CPH lên tới 2.890 đơn vị trong tổng số 5.655 DNNN cần phải CPH [35,
tr.12-13].
Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của thời kỳ hậu CPH là tổ chức tốt và nâng cao
hiệu quả việc sử dụng vốn tại các DNCP. Hiệu quả sử dụng vốn tại các DNCP nói chung,

DNCNCP nói riêng là vấn đề lớn và phức tạp đòi hỏi phải nghiên cứu một cách có hệ
thống về lý luận và tổng kết, đúc rút kinh nghiệm từ thực tiễn trong nước và quốc tế.
Đà Nẵng với vị thế là thành phố trực thuộc trung ương và là đô thị hạt nhân của
vùng kinh tế trọng điểm miền Trung đã xuất hiện nhiều DNCP từ CPH DNNN. Vì thế,
hiệu quả sử dụng vốn sau CPH tại các DNCP nói chung, DNCNCP nói riêng cũng là một
yêu cầu bức thiết cần phải đặt ra và giải quyết; nhất là trong xu thế toàn cầu hóa, khu vực
hóa và Việt Nam chuẩn bị là thành viên của WTO. Đến nay, chưa có công trình nào
nghiên cứu đầy đủ về các DN của thành phố Đà Nẵng sau CPH và đặc biệt là vấn đề hiệu
quả sử dụng vốn tại các DNCN sau CPH.
Xuất phát từ thực trạng đó, việc nghiên cứu, đánh giá một cách có hệ thống tình
hình sử dụng vốn tại một số DNCN sau CPH của thành phố Đà Nẵng để có cơ sở xây dựng
những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho các DNCN sau CPH; là vấn đề
vừa cơ bản cấp bách, vừa có tính lâu dài, đồng thời đó cũng là vấn đề có tính thời sự xã
hội. Chính vì vậy, việc triển khai nghiên cứu đề tài “Hiệu quả sử dụng vốn ở các doanh
nghiệp công nghiệp sau cổ phần hóa của Đà Nẵng” là một trong những đòi hỏi bức thiết
của thực tiễn ở thành phố Đà Nẵng hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
CPH DNNN là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, là một trong những
giải pháp quan trọng nhằm sắp xếp đổi mới và nâng cao hiệu quả DNNN, xây dựng kinh tế
nhà nước vững mạnh, đủ sức giữ vai trò chủ đạo nền kinh tế quốc dân, trong quá trình phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN [35, tr.12]. Thời gian qua đã có nhiều cấp,
ngành từ trung ương đến địa phương, nhiều nhà quản lý, nhà khoa học quan tâm nghiên

cứu vấn đề này. Việc nghiên cứu về DNNN sau CPH nói chung, DNCNCP nói riêng đã có
một số công trình khoa học, hội thảo, bài viết được công bố. Tuy nhiên, đi sâu nghiên cứu
hiệu quả sử dụng vốn tại DNCN sau CPH mới chỉ được đề cập như một giải pháp hoặc nội
dung riêng lẻ.
Trong thời gian gần đây, trên cấp độ quốc gia đã có 2 cuộc hội thảo lớn về CPH
và hậu CPH DNNN:
- Tháng 9/2005, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương (CIEM) và Ngân
hàng thế giới(WB) đã kết hợp tổ chức hội thảo “Hậu CPH DNNN”.

Hội thảo đã được các nhà khoa học, quản lý trong và ngoài nước trình bày nhiều
tham luận nhằm làm sáng tỏ hơn nguyên nhân tạo ra sự khác biệt trước và sau CPH, ảnh
hưởng của cơ cấu sở hữu đến DNCPH, đồng thời tập trung hơn vào những vấn đề phát
sinh sau CPH DNNN, nhất là vấn đề quản trị doanh nghiệp để có cơ sở đề ra các giải pháp
thiết thực cho quá trình đẩy mạnh CPH và quản trị DN sau CPH trong thời gian tới.
- Tháng 3/2006, Tạp chí Cộng sản, Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Báo Nhân
dân và Đảng ủy khối các cơ quan kinh tế trung ương đã tổ chức hội thảo “Phát huy vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với tiến trình CPH DNNN”. Hội thảo đã làm rõ những vấn đề chính
yếu sau:
+ CPH DNNN- thực tế và những vấn đề đặt ra đối với sự lãnh đạo của Đảng.
+ Thực trạng, nguyên nhân và kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng trong tiến trình
thực hiện CPH DNNN.
+ Phương hướng, giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến
đấu của tổ chức đảng trên lộ trình CPH và sau CPH DNNN.
Ngoài hai cuộc hội thảo lớn đã nói trên còn có rất nhiều công trình nghiên cứu về
vấn đề CPH và hậu CPH DNNN được các nhà khoa học xuất bản thành sách hoặc đăng tải
trên các tạp chí uy tín của cả nước như Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, Tạp chí
Lý luận chính trị, diễn đàn “Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước” trên Website Đảng cộng sản
Việt Nam, Ví dụ:
- PGS,TS. Lê Hồng Hạnh (2004), CPH DNNN- những vấn đề lý luận và thực tiễn,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

- PGS,TS. Lê Văn Tâm (2004), CPH và quản lý DNNN sau CPH, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
- GS,TS. Lê Hữu Nghĩa (2004), CPH DNNN ở Việt Nam: mấy vấn đề về lý luận
và thực tiễn, Tạp chí Cộng sản, số 22.
- PGS,TS. Phạm Quang Huấn (2006), CPH DNNN : Mười lăm năm nhìn lại, Tạp
chí Nghiên cứu kinh tế, số 333.
- TS. Nguyễn Thị Thơm (2003), DNNN sau CPH: kết quả hoạt động, bất cập nảy
sinh và hướng tháo gỡ, Tạp chí Lý luận chính trị, số 7.
- PGS, TS. Vũ Văn Phúc (2004), Giải pháp khắc phục những vấn đề đang đặt ra

từ thực trạng CPH DNNN hiện nay, Diễn đàn cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước trên
Website Đảng Cộng sản Việt Nam.
Riêng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng chưa có một công trình nào nghiên cứu về
vấn đề này. Năm 2002 UBND thành phố đã lập đề án tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển
và nâng cao hiệu quả DNNN thuộc thành phố quản lý đến năm 2005.
Như vậy, vấn đề hiệu quả sử dụng vốn tại các DNCN sau CPH vẫn đang trong quá
trình nghiên cứu để làm sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiễn. Là người làm công tác giảng dạy
và nghiên cứu, tác giả luận văn mạnh dạn nghiên cứu đề tài này với hy vọng góp phần nhỏ bé
vào quá trình tìm lời giải hoàn thiện cho việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại các DNCN
sau CPH ở nước ta.
Trong quá trình nghiên cứu tác giả luận văn đã kế thừa và chọn lọc những ý tưởng
của các công trình đã công bố nhằm góp phần phân tích, luận giải, hệ thống hóa những vấn
đề lý luận cơ bản về hiệu quả sử dụng vốn tại DNCN sau CPH; tiến tới đề xuất, kiến nghị
và đưa ra một số giải pháp về hiệu quả sử dụng vốn tại DNCN sau CPH của thành phố Đà
Nẵng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Xuất phát từ tính chất vấn đề cần nghiên cứu và khả năng của bản thân, đề tài đặt
ra các mục đích và nhiệm vụ giải quyết các vấn đề sau
* Mục đích của đề tài:
+ Đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng vốn trong các DNCN sau CPH của thành

phố Đà Nẵng trong thời gian qua.
+ Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn tại các DNCN
sau CPH của Đà Nẵng.
* Nhiệm vụ đề tài:
+ Khảo sát và kế thừa, nghiên cứu các công trình, các tài liệu có liên quan đến
hướng nghiên cứu đề tài.
+ Làm rõ ý nghĩa lý luận và thực tiễn hiệu quả sử dụng vốn và các vấn đề liên
quan đến hiệu quả sử dụng vốn trong các DNCN sau CPH.
+ Nghiên cứu và phân tích thực trạng hiệu quả sử dụng vốn trong các DNCN sau
CPH của thành phố Đà Nẵng.

+ Rút ra một số nhận xét về tình hình sử dụng vốn trong các DNCN sau CPH của
Đà Nẵng.
+ Xây dựng một số giải pháp, kiến nghị chủ yếu để nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn trong các DNCN sau CPH nhằm quản trị DNCN sau CPH từng bước được tối ưu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: hiệu quả sử dụng vốn trong DNCN sau CPH.
- Phạm vi nghiên cứu: đề tài nghiên cứu một số DNCNCP được hình thành từ CPH
các DNNN thuộc sự quản lý của thành phố Đà Nẵng từ năm 2000 đến 2005.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu và nhiệm vụ đề tài đặt ra, ngoài phương pháp luận khoa học
Mác – Lênnin, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác, cụ thể như: khảo sát, điều
tra nghiên cứu thực tế, tổng hợp, phân tích thống kê, so sánh và một số phương pháp có
liên quan.
6. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Hệ thống hóa một số vấn đề cơ bản về vốn, hiệu quả sử dụng vốn, đưa ra hệ thống chỉ
tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn trong các DNCN sau CPH.
- Góp phần luận chứng được những vấn đề cần giải quyết và xác định các nhân tố chủ
yếu ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn sau CPH của DNCN.
- Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng

vốn cho DNCN sau CPH.
7. ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Kết quả của luận văn có thể giúp cho các cấp chính quyền, các nhà nghiên cứu,
các doanh nghiệp quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn của DNCN sau CPH tham khảo
trong nghiên cứu cũng như ứng dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu nội dung
luận văn gồm 3 chương, 10 tiết.

Chương 1
Một số vấn đề lý luận về hiệu quả sử dụng vốn
ở các doanh nghiệp công nghiệp sau cổ phần hóa
1.1. một số đặc trưng về vốn của doanh nghiệp cổ phần
1.1.1. Khái niệm về vốn
Vốn là một phạm trù kinh tế, tuy nhiên quan niệm về vốn hiện nay còn có nhiều
điểm chưa thống nhất.
Theo Từ điển tiếng Việt, vốn là những tài sản bỏ ra lúc đầu, thường biểu hiện
bằng tiền, dùng trong sản xuất, kinh doanh, nói chung trong hoạt động sinh lợi [47,
tr.1104].
Trong dân gian, lâu nay vẫn tồn tại quan niệm “có vốn, có lời” – nghĩa là, vốn
phải sinh ra lãi. Tuy nhiên, do hạn chế về trình độ phát triển của nền kinh tế nên quan niệm
về vốn vẫn còn hạn hẹp, chẳng hạn - chỉ dừng lại ở nhận thức về vốn và lãi dưới hình thái
tiền (tiền vốn, tiền lãi) mà chưa biết đến các hình thái khác của vốn như tài nguyên, nguồn
lao động, cơ chế hay các hình thái tài chính khác; còn phổ biến nhận thức có thể có vốn –
hòa (hòa vốn), vốn – lỗ (lỗ vốn) – nghĩa là chưa quán triệt tuyệt đối quan niệm đã là vốn
thì phải sinh lãi, còn không sinh lãi thì không phải là vốn.
Quan niệm trên về vốn khá tương đồng với quan niệm về tư bản trong các tài liệu
kinh tế của phương Tây – là tư bản thì phải sinh ra lợi nhuận. Tuy nhiên, khi sử dụng phạm
trù tư bản ở phương diện này thì phải tạm thời trừu tượng hóa về phương diện nó (tư bản)
là một quan hệ bóc lột – tư bản sinh ra giá trị thặng dư (theo kinh tế chính trị Mác - Lênin).

Tóm lại, vốn là phạm trù kinh tế khá tổng hợp và được đề cập đến trên nhiều
phương diện khác nhau, chẳng hạn:
- Vốn phản ánh quan hệ kinh tế.
- Vốn là một phạm trù hạch toán phản ánh quan hệ so sánh.
- Vốn là phạm trù của cơ chế và vốn có nhiều hình thái biểu hiện khác nhau.
1.1.2. Đặc trưng của vốn
1.1.2.1. Phân loại vốn
Để tìm hiểu rõ hơn về vốn cũng như vai trò của vốn đối với sản xuất kinh doanh
của DNCNCP, cần phân chia vốn thành các cấu phần khác nhau dựa trên một số tiêu thức

cơ bản. Có rất nhiều cách phân loại nhưng trong phạm vi luận văn này tác giả đề cập đến
một số cách phân loại chủ yếu sau:
- Căn cứ theo đặc điểm luân chuyển vốn để phân thành:
+ Vốn cố định: Là giá trị của toàn bộ máy móc, thiết bị, dây chuyền công nghệ,
mặt bằng sản xuất. ở hình thức này, vốn tham gia vào nhiều chu kỳ sản phẩm và từng phần
giá trị của vốn chuyển dần vào sản phẩm mà vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu.
Do vậy, việc xác định giá trị hao mòn hay khấu hao TSCĐ (cả hữu hình và vô hình) sẽ
quyết định đến việc bù đắp, sửa chữa và đổi mới TSCĐ cũng như quá trình đầu tư, nâng
cao năng suất lao động và hiện đại hóa DN [39, tr.25-79]. Vốn cố định thường chiếm tỷ
trọng lớn trong cơ cấu vốn của DN. Để quản lý, sử dụng hiệu quả vốn cố định cần nghiên
cứu những tính chất và đặc điểm của TSCĐ.
+ Vốn lưu động: “là giá trị bằng tiền của toàn bộ TSLĐ và tài sản lưu thông để
đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của DN được tiến hành bình thường” [5].
Trong thực tế, sự vận động của VLĐ không diễn ra một cách tuần tự như lý thuyết
nêu trên mà các giai đoạn vận động của vốn đan xen vào nhau, các chu kỳ sản xuất được lặp
đi lặp lại, vì vậy vốn chu chuyển tuần hoàn liên tục.
VLĐ rất quan trọng đối với quá trình sản xuất kinh doanh, nó quyết định sự tăng
trưởng và phát triển của sản xuất kinh doanh của DNCNCP. DNCNCP nào sử dụng nhiều
VLĐ thì sẽ sản xuất ra được nhiều sản phẩm. Từ ý nghĩa đó gắn với việc sử dụng VLĐ phải
tiết kiệm bởi vì với một lượng VLĐ nhất định nếu quản lý tốt, phân bổ hợp lý việc sử dụng

vốn trên các giai đoạn lưu chuyển vốn sẽ mang lại hiệu quả sản xuất mà không cần phải
tăng vốn và ngược lại.
Việc phân chia vốn thành VCĐ và VLĐ có ý nghĩa hết sức quan trọng trong quản
lý và sử dụng đối với mỗi loại. Hơn nữa, cách phân chia này cho phép nghiên cứu vai trò
của mỗi loại vốn. Nếu như VCĐ phản ánh trình độ năng lực sản xuất của DNCNCP, thì
VLĐ là điều kiện để đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra một cách liên tục
và ổn định. Do đó, DNCNCP cần phải xác định cơ cấu và quy mô của mỗi loại một cách
chính xác và khoa học dựa trên những định mức kinh tế kỹ thuật tiên tiến mới có thể chủ
động bảo toàn và phát triển vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh.
- Ngoài ra còn căn cứ vào quyền sở hữu để phân thành: nợ phải trả và vốn chủ sở

hữu. Căn cứ theo thời gian huy động, sử dụng phân thành: nguồn vốn thường xuyên và
nguồn vốn tạm thời. Căn cứ theo phạm vi hoạt động chia ra: nguồn vốn bên trong và
nguồn vốn bên ngoài.
Các cách phân loại này cho phép DNCNCP đề ra các khả năng huy động vốn và
các hình thức huy động vốn phù hợp với điều kiện của DN trong phạm vi khuôn khổ luật
pháp cho phép, tạo cho DN môi trường hoạt động và khả năng chủ động trong hoạt động
kinh doanh nhằm đảm bảo đủ vốn hoạt động nhưng tiết kiệm, từ đó phát huy được hiệu
quả sử dụng vốn.
1.1.2.2 Đặc trưng của vốn nói chung
Từ quan niệm trên về vốn và đặc biệt trong nền kinh tế thị trường có thể khái quát
vốn có một số đặc trưng cơ bản sau:
- Vốn là một hình thái đặc biệt của tài sản - đó là bộ phận tài sản phải đem lại thu
nhập, làm tăng tiêu dùng trong tương lai.
- Vốn phải tồn tại phổ biến dưới dạng các hình thái giá trị - bộ phận giá trị đem lại
giá trị tăng thêm.
- Vốn phải không ngừng vận động biến đổi và phát triển – nghĩa là: nó phải đồng
thời xuất hiện ở tất cả các hình thái khác nhau; nó phải liên tục vận động biến đổi từ hình
thái này sang hình thái khác; các hình thái của vốn trong một quá trình hay trong toàn bộ
nền kinh tế phải luôn tồn tại trong quan hệ cân đối, tỷ lệ với nhau.

- Vốn phải được tham gia vào các hoạt động, các quá trình đầu tư; do vậy nó phải
đủ lớn, có hình thái phù hợp.
- Phương thức huy động và sử dụng vốn phải hiệu quả - vì vậy, nó phải cụ thể,
phù hợp với từng qui trình cụ thể, với trình độ phát triển cụ thể của nền kinh tế.
- Vốn phải được xem xét trên phương diện thời gian .
- Vấn đề sở hữu vốn về mặt kinh tế.v.v
1.1.2.3. Đặc trưng của vốn trong các doanh nghiệp công nghiệp cổ phần
Một là, vốn được biểu hiện bằng những lượng giá trị của những tài sản. Điều này
có nghĩa là vốn phải đại diện cho một lượng giá trị thực của tài sản hữu hình và vô hình
như: nhà xưởng, đất đai, thiết bị, nguyên liệu, chất xám, thông tin, Như vậy, một lượng
tiền thoát ly giá trị thực của hàng hóa để đưa vào đầu tư thì không gọi là vốn đầu tư; những

khoản nợ không có khả năng thanh toán đi đến vỡ nợ cũng không đúng nghĩa của vốn. Do
vậy, không phải tất cả tài sản đều là vốn mà chỉ có tài sản hoạt động mới được gọi là vốn,
còn tài sản ở trạng thái tĩnh chỉ là vốn tiềm năng. Nhận thức được đặc trưng này DNCNCP
phải tìm mọi cách để huy động được nhiều tài sản vào quá trình sản xuất kinh doanh, biến
vốn tiềm năng thành vốn hoạt động.
Hai là, vốn phải vận động sinh lời. Vốn biểu hiện là tiền nhưng tiền chỉ là dạng
tiềm năng của vốn. Để tiền biến thành vốn thì đồng tiền đó phải vận động với mục đích sinh
lời. Trong quá trình vận động tiền có thể thay đổi hình thái biểu hiện nhưng kết thúc vòng tuần
hoàn nó phải trở về hình thái ban đầu của nó là tiền với giá trị lớn hơn. Nhận thức được đặc
trưng này thì DNCNCP phải tìm mọi cách làm cho đồng vốn sinh lời, không ứ đọng, phải tìm
mọi biện pháp để huy động mọi nguồn lực vào phát triển sản xuất kinh doanh.
Ba là, tiền vốn phải được tích tụ, tập trung đến một lượng đủ lớn mới có thể đầu tư
vào sản xuất kinh doanh nhằm mục đích sinh lời. Một lượng vốn chưa đủ lớn để trang trải
những chi phí đầu tư ban đầu thì không thể tiến hành sản xuất kinh doanh được. Do đó, các
DNCNCP không chỉ khai thác các tiềm năng về vốn của DN mà phải tìm cách thu hút
nguồn vốn như góp vốn, hùn vốn, phát hành cổ phiếu, nhận vốn liên doanh,
Bốn là, vốn có giá trị về mặt thời gian, điều này có nghĩa là phải xem xét yếu tố
thời gian của đồng vốn. Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, đặc trưng này không được

xem xét kỹ lưỡng vì nhà nước tạo ra sự ổn định của đồng tiền một cách giả tạo trong nền
kinh tế lúc đó. Nhưng trong nền kinh tế thị trường phải xem xét giá trị thời gian bởi sức
mua của đồng tiền ở các thời điểm khác nhau là khác nhau do ảnh hưởng của giá cả, lạm
phát. Nhận thức được đặc trưng này của vốn để tránh được việc so sánh đơn thuần là thu
nhập bù đắp chi phí có lãi, một việc làm khá phổ biến diễn ra lâu nay tạo ra hiện tượng “lãi
giả, lỗ thật” trong các DNNN trước CPH. Đặc trưng này phục vụ cho việc tính toán các
phương pháp bảo toàn vốn là phải đưa vốn về cùng một thời điểm để so sánh
Năm là, vốn bao giờ cũng gắn với chủ sở hữu nhất định. Rõ ràng là không thể
có những đồng vốn vô chủ; ở đâu có những đồng vốn vô chủ thì ở đó sẽ chi tiêu lãng
phí, kém hiệu quả. Chỉ khi nào xác định rõ đích thực chủ sở hữu thì đồng vốn mới nhận
thức được đầy đủ, chi tiêu mới tiết kiệm và có hiệu quả. Nhưng cũng có thể người sử
dụng vốn để thực hiện kinh doanh không phải là người chủ sở hữu đồng vốn đó, nhưng

nó vẫn có chủ sở hữu nhất định, người chủ sở hữu này đuợc ưu tiên đảm bảo quyền lợi
và được tôn trọng quyền sở hữu của mình. Đặc trưng này có ý nghĩa rất lớn đối với
DNCNCP vì người lao động là chủ sở hữu vốn và tài sản tại DN, đồng thời là chủ sử
dụng vì vậy xử lý tốt mối quan hệ này tạo ra động lực thúc đẩy quản lý và sử dụng vốn
có hiệu quả.
Sáu là, vốn là một loại hàng hóa đặc biệt và cũng như mọi hàng hóa khác nó có
giá trị và giá trị sử dụng. Đã là hàng hóa thì nó cũng phải có giá trị và giá trị sử dụng. Giá
trị của “hàng hóa vốn” là ở chỗ khi sử dụng hàng hóa đó sẽ tạo ra một giá trị lớn hơn. Như
mọi hàng hóa khác, “hàng hóa vốn” được mua bán trên thị trường dưới hình thức mua bán
quyền sử dụng vốn. Giá mua chính là lãi suất mà người vay vốn phải trả cho người cho
vay vốn (chủ sở hữu) để có được quyền sử dụng lượng vốn đó. Giá cả này tăng, giảm phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, đặc biệt là quan hệ cung cầu trên thị trường. Người vay vốn có
quyền sử dụng vốn trong một thời gian nhất định. Việc mua bán được diễn ra trên thị
trường tài chính, thị trường chứng khoán, giá mua bán vốn cũng tuân theo quy luật cung
cầu trên thị trường vốn. Đối với DNCNCP thì giá vốn phải trả cho các cổ đông là cổ tức.
Bảy là, vốn không chỉ biểu hiện bằng tiền giá trị của các tài sản hữu hình mà
nó còn là biểu hiện bằng tiền giá trị của các tài sản vô hình như vị trí địa lý, lợi thế

thương mại, nhãn mác sản phẩm, bằng phát minh sáng chế,… Chính vì lẽ đó cần phân
biệt vốn và tài sản của DNCNCP. Vốn là một lượng tiền tệ mà các chủ DN đầu tư vào
các hoạt động kinh doanh nhằm thu lợi nhuận, còn tài sản là biểu hiện hình thái vật
chất của vốn như TSCĐ hữu hình, TSCĐ vô hình, hàng hóa, vật tư, nợ phải thu, các
khoản đầu tư khác của DN. Đặc trưng này có ý nghĩa rất quan trọng vì nó cho thấy
công dụng và đa dạng của các loại vốn trong DNCNCP, buộc các nhà quản lý phải
xem xét đến quá trình sử dụng vốn như thế nào sao cho hiệu quả.
Ngoài ra, DNCNCP còn có những đặc trưng về vốn rất riêng chẳng hạn như:
- Vốn thuộc nhiều chủ sở hữu ( cổ đông ).
- Vốn do Chủ tịch và HĐQT quản lý, điều hành.
- Lợi nhuận phải phân chia thành nhiều bộ phận khác nhau, theo nhiều cấp độ
khác nhau.
Qua phân tích đặc trưng của vốn trong nền kinh tế thị trường, nhận thấy rằng, đây

là những vấn đề có tính chất nguyên lý, là cơ sở cho việc hoạch định các chính sách quản
lý, nâng cao quản lý và hiệu quả sử dụng vốn của các DNCN sau CPH đạt hiệu quả cao.
1.2. Hiệu quả sử dụng vốn ở các doanh nghiệp công nghiệp cổ phần
1.2.1. Khái niệm hiệu quả sử dụng vốn ở các doanh nghiệp công nghiệp cổ
phần
1.2.1.1.Quan điểm chung về hiệu quả sử dụng vốn
Tùy theo cách tiếp cận và mục đích nghiên cứu khác nhau mà có những cách hiểu
khác nhau về hiệu quả sử dụng vốn.
Trên quan điểm hạch toán, hiệu quả sử dụng vốn là một bộ phận của hiệu quả kinh
doanh, hiệu quả sử dụng vốn góp phần tạo nên hiệu quả của toàn bộ hoạt động sản xuất
kinh doanh, là một mặt của hiệu quả kinh doanh do vốn chỉ là một yếu tố của quá trình
kinh doanh.
Về mặt lượng, hiệu quả kinh doanh biểu hiện mối tương quan giữa kết quả thu
được với chi phí bỏ ra để thực hiện nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Về mặt chất, việc đạt
được hiệu quả kinh doanh cao phản ánh năng lực và trình độ quản lý, đồng thời cũng đòi
hỏi sự gắn bó giữa việc đạt được những mục tiêu kinh tế với việc đạt được những mục tiêu

xã hội. Để hiểu rõ phạm trù hiệu quả kinh doanh cần phân biệt rõ ranh giới giữa hai khái
niệm: hiệu quả và kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh.
Kết quả kinh doanh là những gì mà DN đã đạt được sau một quá trình kinh doanh
hay một thời gian kinh doanh nhất định. Kết quả bao giờ cũng là mục tiêu cần thiết của
DN; kết quả kinh doanh có thể là những đại lượng cân, đong, đo, đếm được như số lượng
sản phẩm tiêu thụ mỗi loại, doanh thu, lợi nhuận, thị phần,… hoặc có thể là đại lượng chỉ
phản ánh mặt chất lượng hoàn toàn có tính chất định tính như uy tín, chất lượng sản phẩm,
danh tiếng của sản phẩm trên thị trường.
Trong khi đó, hiệu quả kinh doanh được xác định trên cơ sở so sánh giữa đầu ra
và đầu vào thông qua các chỉ tiêu: lợi ích và chi phí là kết quả (đầu ra) và chí phí (các
nguồn lực đầu vào) hay phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực. Cần chú ý rằng, trình
độ sử dụng các nguồn lực không thể đo bằng các đơn vị hiện vật hay giá trị mà chỉ là
một phạm trù tương đối, được phản ánh bằng số tương đối là tỷ số giữa kết quả và hao
phí nguồn lực. Người ta thường nhầm lẫn giữa phạm trù hiệu quả kinh doanh với phạm

trù mô tả sự chênh lệch giữa kết quả và hao phí nguồn lực, bởi vì chênh lệch giữa kết
quả và chi phí luôn là số tuyệt đối và chỉ phản ánh mức độ đạt được về một mặt nào đó
chứ không cho thấy trình độ sử dụng các nguồn lực. Nếu kết quả là mục tiêu của quá
trình kinh doanh thì hiệu quả là phương tiện để có thể đạt được các mục tiêu đó.
Trên phương diện này, hiệu quả sử dụng vốn lại là một khái niệm rộng, bao
hàm hiệu quả kinh doanh cả mặt kinh tế, chính trị, xã hội, là thước đo tăng trưởng của
mỗi DN, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế,
chính trị, xã hội xác định. Hiệu quả sử dụng vốn thường được thể hiện thông qua quan
hệ so sánh giữa các lợi ích trực tiếp và gián tiếp thu được với các chi phí trực tiếp và
gián tiếp phải bỏ ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu coi hiệu quả sản xuất kinh
doanh là mục tiêu thì hiệu quả sử dụng vốn là phương tiện hữu hiệu để đạt được mục
tiêu đó. Nói đến sử dụng vốn có hiệu quả có nghĩa là trong quá trình hoạt động kinh
doanh phải thu được những lợi ích cao nhất đồng thời với chi phí thấp nhất.
Như vậy, hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn là hai phạm trù
khác nhau, giải quyết ở hai góc độ khác nhau, song có quan hệ biện chứng với nhau. Sản

xuất kinh doanh chỉ đạt hiệu quả cao khi việc sử dụng các yếu tố sản xuất (trong đó có
vốn) đạt hiệu quả cao. Nếu coi hiệu quả sản xuất kinh doanh là mục tiêu thì hiệu quả sử
dụng vốn là phương tiện hữu hiệu để đạt được mục tiêu đó.
Tóm lại, có thể phát biểu rằng: Hiệu quả sử dụng vốn phản ánh một mặt của hiệu
quả sản xuất kinh doanh, là thước đo trình độ quản lý và sử dụng vốn của DN trong việc
tối đa hóa lợi ích thu được với tối thiểu hóa chi phí nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế
- xã hội nhất định.
1.2.1.2. Hiệu quả sử dụng vốn ở doanh nghiệp công nghiệp cổ phần
- Hiệu quả sử dụng vốn phải dựa trên cơ sở mức sản xuất vượt quá điểm hòa vốn
để xác định:
Quan điểm này cho rằng, kết quả hữu ích thực sự được xác định khi thu nhập bù
đắp hoàn toàn số vốn bỏ ra, phần vượt trên điểm hòa vốn mới là thu nhập để làm cơ sở xác
định hiệu quả sử dụng vốn. Quan điểm này có tác dụng chỉ ra ngưỡng DN không bị lỗ, để
xác định quy mô đầu tư, quy mô sản xuất nhằm đạt được lợi nhuận mong muốn.
- Quan điểm của các nhà đầu tư:

Các nhà đầu tư trực tiếp (những người mua cổ phiếu, góp vốn) thì hiệu quả sử
dụng vốn được đánh giá thông qua tỷ suất sinh lời trên một đồng vốn cổ đông và chỉ số
tăng giá cổ phiếu mà họ nắm giữ hay nói cách khác đi là tỷ lệ sinh lời trên một đồng vốn
đầu tư.
Các nhà đầu tư gián tiếp (các tổ chức, cá nhân cho vay vốn), việc đánh giá hiệu
quả sử dụng vốn không chỉ ở lợi tức thu được từ việc cho vay vốn mà cả trong vấn đề bảo
toàn giá trị thực tế của đồng vốn cho vay qua thời gian.
Nhà nước (chủ sở hữu về kết cấu hạ tầng, đất đai, tài nguyên,…): DN sử dụng vốn
có hiệu quả thực hiện tốt các sắc thuế của Nhà nước sẽ làm tăng nguồn thu ngân sách, góp
phần tạo thêm sức mạnh cho nền kinh tế quốc dân, Nhà nước thực hiện tốt các mục tiêu
kinh tế - xã hội. Nhà nước coi sử dụng vốn đồng nghĩa với hiệu quả kinh doanh trên giác
độ toàn bộ nền kinh tế quốc dân, hiệu quả được xác định thông qua tỷ trọng về thu nhập
mới sáng tạo ra, tỷ trọng thu qua ngân sách,…
- Dựa trên lợi nhuận kinh tế:

Lợi nhuận kinh tế = Tổng doanh thu – Tổng chi phí theo số liệu kế toán - (Chi phí
ngầm + chí phí cơ hội)
Chí phí ngầm là những chi phí không được hạch toán vào giá thành sản phẩm
nhưng có liên quan đến giá thành sản phẩm như lợi thế công ty, uy tín của DN,…
Chi phí cơ hội là chi phí của việc ra quyết định - đó là giá trị của cơ hội tốt nhất
trong số các cơ hội còn lại không được lựa chọn.
Đây là quan điểm xác định hiệu quả sử dụng vốn mang tính chất toàn diện, nhưng
nó chỉ có ý nghĩa về mặt nghiên cứu hoặc quản lý, còn về hạch toán cụ thể thì không thể
xác định được chi phí ngầm và chí phí cơ hội.
- Dựa trên cơ sở thu nhập thực tế:
Quan điểm này xuất phát từ điều kiện nền kinh tế có lạm phát, do vậy vấn đề nhà
đầu tư quan tâm là lợi nhuận ròng thực tế chứ không phải lợi nhuận ròng. Lợi nhuận ròng
thực tế được đo bằng khối lượng giá trị hàng hóa có thể mua được từ lợi nhuận ròng để
thỏa mãn được nhu cầu tiêu dùng của các nhà đầu tư. Quan điểm này đã phản ánh được
tiêu chuẩn đích thực cuối cùng về kết quả lợi ích tạo ra đồng vốn.
- Dựa trên doanh thu:

Quan điểm này cho rằng, sản lượng sản phẩm sản xuất ra nhiều, doanh thu cao tức
là DN có hiệu quả kinh tế cao và sử dụng vốn có hiệu quả. Xét trên một khía cạnh nào đó,
sản lượng và doanh thu cũng phần nào phản ánh những kết quả và sự cố gắng nhất định
của nhà DN. DN tiêu thụ được nhiều sản phẩm tức là thực hiện được giá trị sản lượng cao,
có khả năng thích ứng với thị trường. Sản phẩm của DN và giá cả là phù hợp và được
người mua chấp nhận, song sản lượng hay doanh thu vốn dĩ mới chỉ là các chỉ tiêu tổng
hợp về quy mô mà chưa phải các chỉ tiêu chất lượng. Sự gia tăng của doanh thu có thể là
do DN mở rộng quy mô, sử dụng thêm vốn, lao động và các yếu tố đầu vào hoặc dơn giản
chỉ là sự gia tăng của giá cả do các nguyên nhân khác nhau. Vì vậy, không thể chỉ căn cứ
vào các chỉ tiêu đó mà kết luận đánh giá về hiệu quả của DNCNCP.
- Dựa trên tốc độ quay vòng vốn:
Nếu vốn quay vòng càng nhanh thì DN có thể coi như đạt được hiệu quả sử dụng
vốn cao. Tuy vậy, cũng phải thấy rằng tốc độ vòng quay của vốn còn phụ thuộc vào nhiều

yếu tố khác như: cơ cấu vốn hay cấu tạo hữu cơ của DN, giá bán hàng liên quan đến tốc độ
tiêu thụ sản phẩm, phương thức bán hàng, phương thức thanh toán,… trong đó có các yếu
tố phụ thuộc vào thể chế, hệ thống thanh toán và những yếu tố nằm ngoài tầm kiểm soát
của DN.
- Dựa trên tỷ suất lợi nhuận:
Quan điểm này cho rằng, hiệu quả sử dụng vốn được coi là cao khi DN đạt được
tỷ suất lợi nhuận cao. Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là một chỉ tiêu chất lượng
tổng hợp quan trọng số một đối với các DN. Lợi nhuận là mục tiêu cao nhất quyết định đến
sự sống còn và phát triển của DN. Như vậy, quan điểm cho rằng một DN đạt được tỷ suất
lợi nhuận cao có thể được xem như có hiệu quả sử dụng vốn cao là hoàn toàn có cơ sở.
Song trên thực tế để có tỷ suất lợi nhuận cao DN phải đạt được hiệu quả cao trong hàng
loạt các hoạt động của quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Hơn thế nữa, tùy theo các
loại hình sản xuất kinh doanh cũng như ở các giai đoạn cụ thể ngoài lợi nhuận, DN còn
phải quan tâm đến các mục tiêu khác về xã hội không kém phần quan trọng.
- Thông qua đánh giá các lọi ích kinh tế – xã hội:
Việc đánh giá về chất lượng hoạt động của DN không thể chỉ quan tâm đến lợi
nhuận mà còn phải chú trọng đến các vấn đề lợi ích kinh tế - xã hội khác. Đối với một số

loại hình DN, đặc biệt là DN sản xuất và cung ứng hàng hóa công cộng, sự tồn tại và phát
triển của các DN này không thể trông vào lợi nhuận mà là các lợi ích kinh tế – xã hội do
họ cung cấp, vì vậy các mục tiêu phát triển kinh tế- xã hội phải đặt lên hàng đầu. Ngoài ra,
hiệu quả sử dụng vốn còn phải tính đến các chi phí phát sinh để ngăn ngừa và giải quyết
các hậu quả về môi trường sinh thái cũng như các ảnh hưởng ngoại sinh không mong
muốn xảy ra cùng với quá trình sản xuất và kinh doanh của DNCNCP.
Tóm lại, tùy theo cách tiếp cận và mục đích nghiên cứu khác nhau mà chúng ta có
các quan điểm khác nhau về hiệu quả sử dụng vốn, nhưng cần thấy rõ rằng, hiệu quả sử
dụng vốn góp phần tạo nên hiệu quả của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh, là một
mặt của hiệu quả kinh doanh do vốn chỉ là một yếu tố của quá trình kinh doanh. Khi nói
đến hiệu quả kinh doanh thì có thể có một trong các yếu tố của nó không đạt hiệu quả. Còn
nói đến hiệu quả sử dụng vốn, không thể nói đã sử dụng có hiệu quả nhưng lại bị lỗ vốn, có

nghĩa là hiệu quả sử dụng vốn phải thể hiện trên hai mặt: bảo toàn được vốn và tạo ra các kết
quả theo mục tiêu kinh doanh. Kết quả lợi ích tạo ra do sử dụng vốn phải đáp ứng được lợi ích
của DN, các nhà đầu tư, cổ đông và xã hội.
1.2.2. Một số chỉ tiêu kinh tế chủ yếu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn ở các
doanh nghiệp công nghiệp cổ phần
Hiệu quả sử dụng vốn là biểu hiện một mặt của hiệu quả kinh doanh, nó phản ánh
trình độ quản lý và sử dụng vốn của DNCNCP. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để có thể xác
định được rằng số vốn mà DN đã và đang sử dụng thực sự có hiệu quả hay không?
Thực tế đã chứng minh rằng, có thể đưa ra nhiều tiêu thức để xác định mức độ
hiệu quả của số vốn đang được sử dụng tuỳ theo từng mục đích giá trị và mục đích kinh
doanh của DN.
1.2.2.1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của DN là lợi nhuận, hay nói rõ hơn đó
là lợi nhuận còn lại của DN sau khi đã trừ thuế (còn gọi là lợi nhuận ròng). Lợi nhuận
phản ánh kết quả tổng hợp của hàng loạt kết quả tổng hợp của hàng loạt các biện pháp
quản lý và quyết định của DNCNCP. Vì vậy, nó cũng phản ánh kết quả của quá trình
quản lý, sử dụng vốn của DNCNCP. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của DNCNCP
người ta thường sử dụng các hệ số khả năng sinh lời để so sánh. Các hệ số sinh lời là

thước đo quan trọng đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và
hiệu quả sử dụng vốn nói riêng. Tuy nhiên, từ cách tiếp cận khác nhau cho phép đánh
giá khả năng sinh lời ở các phương diện khác nhau từ các tiêu thức khác nhau như so
sánh lợi nhuận với doanh thu, vốn chủ sở hữu, vốn đầu tư
Nếu xét khả năng sinh lời từ hoạt động kinh doanh của DNCNCP, ta có các chỉ
tiêu hiệu suất sử dụng vốn, tỷ suất lợi nhuận gộp kinh doanh trên doanh thu và tỷ suất lợi
nhuận ròng kinh doanh trên doanh thu:
Doanh thu (thuần) trong kỳ
Hiệu suất sử dụng vốn =
Vốn bình quân trong kỳ
Lợi nhuận gộp từ kinh doanh

Tỷ suất lợi nhuận gộp k.doanh/d.thu =
Doanh thu thuần
Lợi nhuận gộp từ kinh doanh = Doanh thu thuần - giá vốn (hoặc giá thành sản
phẩm tiêu thụ)
Hệ số này cho biết sự hoàn thiện của một DNCNCP về mặt sản xuất kinh doanh
cũng như khả năng tạo vốn bằng tiền. Nó là thước đo khả năng sinh lợi, thông qua chỉ tiêu
này cho biết chiến lược kinh doanh của DNCNCP. Đối với ngành công nghiệp, DN nào
đầu tư vào TSCĐ càng lớn thì tỷ suất lợi nhuận gộp càng cao và DN đầu tư vào TSCĐ
càng thấp thì tỷ suất lợi nhuận gộp thấp.
Lợi nhuận ròng
Tỷ suất lợi nhuận ròng / d.thu =
Doanh thu thuần
Hệ số này chỉ ra tỷ trọng kết quả chiếm trong các hoạt động của DNCNCP. Tỷ
suất lợi nhuận ròng là thước đo chỉ rõ năng lực của DNCNCP trong việc tạo ra lợi nhuận
và năng lực cạnh tranh trên thị trường, nó cho biết 1 đồng doanh thu có bao nhiêu đồng lợi
nhuận ròng. Chỉ tiêu này có tầm quan trọng đặc biệt bởi vì nó chỉ ra rằng, nếu chi phí tăng
thì DNCNCP không thể tăng giá bán do cạnh tranh hoặc giá có giới hạn của thị trường, khi
đó lợi nhuận giảm. Khi giá bán giảm, doanh thu giảm, muốn tỷ suất lợi nhuận không đổi
thì phải giảm chi phí. Tỷ suất lợi nhuận cho phép so sánh hoạt động giữa các DNCNCP

với nhau.
Trên thực tế, do chính sách khấu hao không đồng nhất ảnh hưởng tới lợi nhuận, vì
vậy để so sánh giữa các DNCNCP với nhau khi sử dụng hệ số này cần loại trừ ảnh hưởng của
khấu hao. Hệ số được xác định bằng công thức:
Lợi nhuận ròng + khấu hao
Tỷ suất lợi nhuận và khấu hao/d.thu =
Doanh thu thuần
Nếu xét khả năng sinh lời kinh tế, nghĩa là so sánh lợi nhuận với vốn đầu tư để
đánh giá kết quả hoạt động của DNCNCP, khi đó sử dụng chỉ tiêu tỷ suất doanh lợi vốn
hay còn gọi là chỉ tiêu hiệu quả toàn bộ vốn.

Lợi nhuận ròng
Tỷ suất doanh thu vốn =
(hiệu quả toàn bộ vốn) Toàn bộ vốn bình quân sử dụng trong kỳ
Tài sản có đầu kỳ + tài sản có cuối kỳ
Toàn bộ vốn b.quân sử dụng trong kỳ =
2
Chỉ tiêu này rất quan trọng, nó là thước đo hiệu quả của việc quản lý và sử dụng
vốn của DNCNCP, nó cho biết mức thực lãi do một đồng vốn mang lại. Hệ số phản ánh
khả năng sinh lời của mỗi đồng vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh của DNCNCP.
Nếu xét khả năng sinh lời tài chính, nghĩa là so sánh lợi nhuận ròng với vốn chủ sở
hữu và vốn thường xuyên của DNCNCP ta có tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu và tỷ suất
lợi nhuận vốn thường xuyên.
Lợi nhuận ròng
Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu =
(hiệu quả) Vốn chủ sở hữu bình quân sử dụng trong kỳ

Chỉ tiêu này đo lường mức sinh lời của mỗi đồng vốn chủ sở hữu, nó phản ánh
trình độ sử dụng vốn của những người quản lý DNCNCP, nó cho biết một đồng vốn mà
các cổ đông bỏ ra thu được bao nhiêu đồng lãi. Người đầu tư quan tâm nhất chỉ tiêu này, vì

vậy, nếu tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu cao giúp DNCNCP có thể tìm được nguồn vốn
mới trên thị trường tài chính để đáp ứng cho nhu cầu đầu tư phát triển, làm cho DNCNCP
phát triển không ngừng. Ngược lại, nếu tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu thấp và thấp dưới
mức của hệ số sinh lời cần thiết trên thị trường thì DNCNCP gặp khó khăn trong việc huy
động vốn nói chung và đặc biệt vốn chủ sở hữu nói riêng (như trái phiếu, cổ phiếu).
Khi đánh giá hiệu quả sử dụng vốn dựa theo chỉ tiêu này chúng ta cần lưu ý
đến khấu hao ảnh hưởng tới lợi nhuận, nếu DNCNCP áp dụng chế độ khấu hao cao thì
tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu thấp, khi đó chưa thể đánh giá chính xác hiệu quả sử
dụng vốn của DNCNCP được, và ngược lại, tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu cao
cũng chưa thể phản ánh đầy đủ mức độ thuận lợi của DNCNCP do vốn chủ sở hữu

nhỏ, khi vốn chủ sở hữu nhỏ thì mức độ rủi ro cao. Vì vậy, tỷ suất lợi nhuận vốn chủ
sở hữu phụ thuộc vào ngành nghề, quy mô, sự biến dạng của số liệu ở các ngành
khác nhau, thì trị số của chỉ tiêu này khác nhau, nên khi dùng chỉ tiêu này so sánh các
DNCNCP cùng ngành, cùng quy mô thì kết quả phản ánh mới chính xác.
Lợi nhuận ròng + Tiền lãi phải trả vốn vay trung và dài hạn
Tỷ suất sinh lợi =
vốn thường xuyên Vốn thường xuyên

Vốn thường xuyên = Vốn chủ sở hữu + Vốn vay trung và dài hạn
Hệ số này phản ánh khả năng sinh lời của vốn sử dụng lâu dài trong DNCNCP, nó
cho biết DN có nên đi vay hay không?
Trên đây là các chỉ tiêu chủ yếu được sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn
nói chung, ngoài ra để thấy được sự tác động của vòng quay toàn bộ vốn và tỷ suất doanh
lợi ảnh hưởng tới hiệu quả của toàn bộ vốn của DNCNCP người ta còn sử dụng chỉ tiêu
kép để phân tích.
Tỷ suất doanh lợi vốn = Tỷ suất lợi nhuận ròng x Số vòng quay toàn bộ vốn
Hay:
Lợi nhuận ròng


=
Lợi nhuận ròng


x

Doanh thu thuần


Toàn bộ vốn Doanh thu thuần Tổng số vốn b. quân s.dụng

Để thấy ảnh hưởng của tỷ suất doanh lợi vốn và hệ số nợ đến tỷ suất lợi nhuận vốn
chủ sở hữu người ta sử dụng hệ số kép sau:
Tỷ suất doanh lợi vốn
Tỷ suất lợi nhuận vốn chủ sở hữu =
Tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong nguồn vốn
Lợi nhuận ròng Doanh thu thuần
= x
Doanh thu thuần Vốn chủ sở hữu

Tỷ suất doanh lợi vốn
=
1 - Hệ số nợ
1.2.2.2. Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
Doanh thu
Hiệu suất sử dụng TSCĐ =
TSCĐ sử dụng bình quân trong kỳ
Nguyên giá TSCĐ đầu kỳ + Nguyên giá TSCĐ cuối kỳ
TSCĐ sử dụng =
bquân trong kỳ 2
Chỉ tiêu này cho biết một đồng giá trị trung bình TSCĐ sử dụng trong kỳ tạo ra
được bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ việc sử dụng TSCĐ càng
có hiệu quả.
Doanh thu (hoặc doanh thu thuần) trong kỳ
Hiệu suất sử dụng VCĐ =
VCĐ sử dụng bình quân trong kỳ


VCĐ đầu kỳ + VCĐ cuối kỳ
VCĐ sử dụng bình quân trong kỳ =
2

VCĐ đầu kỳ (hoặc cuối kỳ) = Nguyên giá TSCĐ đầu kỳ (hoặc cuối kỳ) - Khấu
hao luỹ kế đầu kỳ (hoặc cuối kỳ)
Khấu hao luỹ kế ở cuối kỳ = Khấu hao đầu kỳ + Khấu hao tăng trong kỳ - Khấu
hao giảm cuối kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng VCĐ tham gia vào sản xuất kinh doanh sẽ đem
lại bao nhiêu đồng doanh thu. Hiệu suất sử dụng TSCĐ càng cao thì chỉ tiêu này càng lớn.
VCĐ sử dụng bình quân trong kỳ
Hàm lượng VCĐ =
Doanh thu thuần trong kỳ
Chỉ tiêu này cho biết lượng vốn cố định cần thiết phải sử dụng để tạo ra một đồng
doanh số doanh thu, nên chỉ số càng nhỏ càng đạt hiệu quả cao.
Lợi nhuận ròng (lợi nhuận sau thuế)
Hiệu quả sử dụng VCĐ =
VCĐ sử dụng bình quân trong kỳ
Lợi nhuận ròng ở đây là lợi nhuận được tạo ra từ sự tham gia trực tiếp của TSCĐ,
không tính các khoản lãi do các hoạt động khác như hoạt động tài chính, góp vốn liên
doanh, đem lại.
Chỉ tiêu này phản ánh số lợi nhuận được tạo ra khi bỏ ra một đồng VCĐ vào sản
xuất kinh doanh, chỉ tiêu này càng lớn thì hiệu quả sử dụng VCĐ càng cao.
1.2.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Doanh thu thuần
Vòng quay vốn lưu động =
Vốn lưu động bình quân
Vốn lưu động đầu kỳ + Vốn lưu động cuối kỳ

Vốn lưu động bình quân =
2

360
Kỳ luân chuyển vốn lưu động bình quân =

Vòng quay vốn lưu động
Chỉ tiêu này phản ánh số lần luân chuyển của VLĐ trong năm. Số vòng quay càng
lớn chứng tỏ vốn lưu động luân chuyển càng nhanh, hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu
quả.
Để đánh giá hiệu suất VLĐ người ta sử dụng vòng quay hàng tồn kho và kỳ thu
tiền bình quân.

Giá vốn hàng bán
Vòng quay hàng tồn kho =
Dự trữ tồn kho bình quân
Vòng quay hàng tồn kho thể hiện số lần luân chuyển hàng tồn kho trong một thời
kỳ nhất định. Số lần luân chuyển càng cao càng cho thấy tính hiệu quả trong việc quản lý
vật tư, hàng hoá dự trữ cho DNCNCP.
Dự trữ tồn kho bình quân
Kỳ luân chuyển vốn dự trữ = x 360 ngày
Giá vốn hàng bán
Kỳ luân chuyển vốn dự trữ cho biết số ngày vốn dự trữ chuyển hoá
thành tiền.
Dự trữ đầu kỳ + Dự trữ cuối kỳ
Dự trữ bình quân năm =
2
- Đối với DNCNCP:
NVL sử dụng trong năm
Vòng quay NVL = x 360 ngày
Dự trữ nguyên vật liệu bình quân trong năm

Dự trữ NVL bình quân trong năm
Kỳ luân chuyển vốn NVL = x 360
NVL sử dụng trong năm
Tổng giá thành sản phẩm tiêu thụ trong năm

Vòng quay thành phẩm =
Dự trữ bquân thành phẩm hoàn thành trong năm
Dự trữ bquân thành phẩm hoàn thành trong năm

Kỳ luân chuyển = x 360
vốn thành phẩm Tổng giá thành sản phẩm tiêu thụ trong năm
- Chỉ tiêu kỳ thu tiền bình quân:

Các khoản phải thu
Kỳ thu tiền bình quân =
Doanh thu bình quân 1 ngày
Kỳ thu tiền bình quân phản ánh số ngày cần thiết để thu được các khoản phải thu
(số ngày của 1 vòng quay các khoản phải thu), chỉ tiêu này càng nhỏ thì càng tốt.
- Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng VLĐ:
Lợi nhuận ròng trong kỳ
Hiệu quả sử dụng VLĐ =
VLĐ sử dụng bình quân trong kỳ
Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lợi của VLĐ. Nó cho thấy một đồng VLĐ
bỏ ra trong kỳ sẽ thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Vì thế, chỉ tiêu này càng lớn thì
hiệu quả sử dụng VLĐ càng cao.
- Chỉ tiêu mức đảm nhiệm VLĐ:
VLĐ sử dụng bình quân trong kỳ
Mức đảm nhiệm VLĐ =
Tổng doanh thu thuần.
Chỉ tiêu này cho biết để đạt được một đồng doanh thu thì DNCNCP phải bỏ ra bao
nhiêu đồng VLĐ. Vì thế, chỉ tiêu này càng nhỏ thì hiệu quả sử dụng VLĐ càng cao.
1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn ở doanh nghiệp công
nghiệp cổ phần
Việc sử dụng vốn có hiệu quả hay không tác động trực tiếp đến tình hình tài chính
và hiệu quả sản xuất kinh doanh của DNCNCP. Do đó, muốn nâng cao hiệu quả sử dụng

vốn cần phải xem xét các nhân tố ảnh hưởng tới nó. Nghiên cứu các nhân tố này không

những cho ta biết đó là những nhân tố nào, mà còn giúp dự đoán được sự biến động và ảnh
hưởng của các yếu tố đến việc sử dụng vốn trong tương lai. ảnh hưởng đến hiệu quả sử
dụng vốn chịu sự tác động bởi nhiều nhân tố khác nhau.
1.3.1. Cơ chế huy động vốn của doanh nghiệp công nghiệp cổ phần
Việc huy động vốn có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc sử dụng vốn của DN,
bởi vì, nếu hoạt động huy động vốn và cơ chế tạo vốn không đáp ứng được nhu cầu kinh
doanh thì ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất kinh doanh của DN. Đối với các DNCNCP, cơ
chế huy động vốn đã có những thay đổi nhất định và được điều chỉnh phù hợp với cơ chế
kinh tế. Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, các chính sách, chế độ, quy
định,… của Chính phủ và các cơ quan quản lý Nhà nước về huy động vốn, về tạo vốn cho
DN nói chung, DNCN sau CPH nói riêng đã từng bước được điều chỉnh.
- Trong cơ chế bao cấp, với đặc trưng là Nhà nước kiểm soát hoàn toàn vốn của
DN, DN phụ thuộc vào vốn cấp phát của ngân sách Nhà nước và không phát huy được
tính chủ động sáng tạo.
- Cơ chế huy động vốn trong môi trường có điều tiết của Chính phủ:
Đặc trưng của kiểu cơ chế này là sự mở rộng hơn các kênh thu hút vốn cho DN và
đa dạng hóa các hình thức huy động với các công cụ tài chính khác nhau. Tuy nhiên, các
DN phải tuân thủ các quy đinh chặt chẽ của Chính phủ và bị kiểm soát tương đối nghiêm
ngặt của các cơ quan chức năng của Chính phủ như Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước,
ủy ban chứng khoán Nhà nước, hoạt động huy động vốn của DN bị kiểm soát về một số
mặt như: phương thức huy động vốn, công cụ tài chính sử dụng, hạn mức vốn vay, cơ chế
báo cáo.
- Cơ chế huy động vốn của DNCNCP trong cơ chế thị trường:
Đây là kiểu cơ chế hoàn toàn dựa vào các động lực kinh tế và cung cầu vốn trên
thị trường để định hướng cho DN trong quá trình thu hút các nguồn tài chính nhằm tối đa
hóa lợi nhuận. Một xu thế đang nổi lên là quá trình phi điều tiết hóa đối với hoạt động thu
hút các nguồn tài chính của DN. Hiện nay, hầu hết các nước công nghiệp phát triển đang
áp dụng phổ biến mô hình này. Tuy nhiên, mức độ tự do hóa và kiểm soát của chính phủ ở

các quốc gia có những sắc thái khác nhau.
Các phương thức và công cụ tài chính để huy động vốn của DNCP ở nước ta hiện

×