Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

LUẬN VĂN: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quá trình lập kế hoạch (5 năm) của Công ty cổ phần đầu tư phát triển đô thị và khu công nghiệp Sông Đà ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (811.41 KB, 99 trang )









LUẬN VĂN:
Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quá trình lập
kế hoạch (5 năm) của Công ty cổ phần đầu tư
phát triển đô thị và khu công nghiệp Sông Đà





LờI Mở Đầu
Ngày nay kế hoạch là một trong những công cụ hữu hiệu, chủ yếu để điều hành
hoạt động hàng ngày của doanh nghiệp. Cùng với sự biến động của thị trường, kế hoạch
cũng luôn có xu hướng đổi mới để bắt kịp với xu thế phát triển đó. Tuy nhiên sự đổi mới
đó cần được tiếp tục hoàn thiện trên nhiều phương diện, từ hình thức, nội dung đến phương
pháp.
Nhận biết được tầm quan trọng của công tác lập kế hoạch và xu thế phát triển,
Công ty CPĐTPT đô thị và khu công nghiệp Sông Đà đã không ngừng nâng cao chất
lượng quá trình lập kế hoạch. Trong bối cảnh sản xuất kinh doanh biến động như hiện nay,
Công ty cũng đang gặp khó khăn trong quá trình đầu tư, sản xuất kinh doanh của mình
cũng như việc tìm kiếm khách hàng. Để tiếp tục tồn tại và phát triển Công ty đã xác định
cần hoàn thiện hơn quá trình lập kế hoạch của mình. Xuất phát từ thực tiễn đó và được sự
giúp đỡ của tập thể phòng kinh tế kế hoạch tôi đã mạnh dạn lựa chọn cho mình đề tài “Một
số giải pháp nhằm hoàn thiện quá trình lập kế hoạch (5 năm) của Công ty cổ phần đầu


tư phát triển đô thị và khu công nghiệp Sông Đà”
Đề tài được chia làm 3 phần:
Chương I: Một số lý luận cơ bản về quá trình lập kế hoạch của doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường.
Chương II: Thực trạng quá trình xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh của Công ty
CPĐTPT đô thị và khu công nghiệp Sông Đà.
Chương III: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quá trình lập kế hoạch của Công ty
CPĐTPT đô thị và khu công nghiệp Sông Đà.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng trong suốt thời gian học tập cũng như trong suốt

Chương I
NHữNG VấN Đề Lý LUậN CƠ BảN Về Kế HOạCH

TRONG DOANH NGHIệP

i.tổng quan về kế hoạch
1. Một số khái niệm về kế hoạch trong doanh nghiệp
Kế hoạch được tiếp cận theo nhiều cách hiểu khác nhau. Mỗi cách tiếp cận điều
xem xét kế hoạch theo một góc độ riêng và đều cố gắng biểu hiện đúng bản chất của phạm
trù quản lý
Với cách tiếp cận theo quá trình thì cho rằng: kế hoạch sản xuất kinh doanh là một
quá trình liên tục kiểu vòng xoáy hình ốc với chất lượng ngày càng tăng kể từ khi chuẩn bị
xây dựng cho tới lúc chuẩn bị tổ chức thực hiện kế hoạch nhằm đưa hoạt động của doanh
nghiệp theo các mục tiêu đã định.
Theo quan điểm của STEINER thì: “quá trình lập kế hoạch là một quá trình bắt
đàu từ việc thiết lập các mục tiêu vầ quyết định chiến lược, các chính sách, kế hoạch chi
tiết để đạt được mục tiêu. Nó cho phép thiết lập các quyết định khả thi và nó bao gồm chu
kỳ mới của việc thiết lập mục tiêu và quyết định chiến lược nhằm hoàn thiện hơn nữa”.
Trong cách tiếp cận này, khái niệm hiện tượng tương lai, tính liên tục của quá
trình, sự gắn bó của hàng loạt hành động và quyết định để đạt được mong muốn đều đã

được thể hiện.
Với cách tiếp cận theo nội dung và vai trò
Theo HERY FAYOL: Kế hoạch là môt trong những hoạt động cơ bản của
chu trình quản lý cấp công ty. Xét về mặt bản chất, hoạt động này là nhằm xét các
mục tiêu cảu phương án kinh doanh, bước đi trình tự và cách tiến hành các hoạt
động sản xuất kinh doanh.
Theo RONNEY: Hoạt động kế hoạch là một trong các hoạt động nhằm tìm
ra con đường huy động và sử dụng các nguồn lực một cách có hiệu quả để phục vụ
các mục tiêu kinh doanh.

Trong thời bao cấp, ở Việt nam quan niệm: Công tác lập kế hoạch là tổng thể các
hoạt động nhằm xác định các mục tiêu, các nhiệm cụ của sản xuất kinh doanh, về tổ chức
đời sống và tổ chức thực hiện để đạt được các mục tiêu đó, trên cơ sở vận dụng các quy
luật khách quan, các chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước trong từng thời kỳ.
Các khai niệm trên đay cho thấy khái niệm lập kế hoạch được đề cập chủ yếu
thông qua các nội dung của nó mà chưa làm nổi bật đặc tính về thời gian, mức độ những
nét hết sức đặc trơng của kế hoạch.
Theo cách tiếp cận hiện nay được nhiều người sử dụng ở Việt nam : Kế hoạch là
những chỉ tiêu, những con số dự kiến, ước tính trong việc thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể
nào đó để đạt được hiệu quả cao nhất .
Theo quan niệm này thì những chỉ tiêu, nhữn con số phải có cơ sở khoa học, cơ sở
thực tế và nó phải được thể hiện ở bảng biểu kế hoạch. Những con số chỉ tiêu mang tính
khả năng và muốn biến chúnh thành hiện thực thì phải áp dụng hệ thống các biện pháp.
Việc lập kế hoạch là quyết định trước xem trong tương lai phải làm gì? làm như
thế nào? làm bằng công cụ gì? khi nào làm? và ai làm?
Mặc dù ít tiên đoán được chính xác trong tương lai và những yếu tố nằm ngoài sự
kiểm soát có thể phá vở cả những kế hoạch tốt nhất đã có nhưng không có kế hoạch thì các
sự kiện xảy ra một cách ngẫu nhiên và ta sẽ mất đi khả năng hành động một cách chủ động.
2. Các loai kế hoạch trong doanh nghiệp
Hệ thống kế hoạch của một tổ chức là tổng thể của nhiều loại kế hoạch có mối

quan hệ chặt chẽ với nhau theo một định hướng chung nhằm thực hiện mục tiêu tối cao của
hệ thống.
Để đảm bảo hoạt động của một tổ chức cần phải xây dựng được một hệ thống kế
hoạch bao gồm nhiều loại kế hoạch khác nhau và được phân định thưo nhiều tiêu chí khác
nhau.
Bao gồm các loại kế hoạch sau:


sơ đồ 1











2.1.1. Sứ mệnh
Là bức thông điệp thể hiện lý do tồn tại của tổ chức, nó trả lời cho câu hỏi: Tổ
chức tồn tại vì mục đích nao ? Sứ mệnh bao gồm:
- Sứ mệnh được công bố: Thông báo cho mọi người một cách công khai, thông qua
thị trường để doanh nghiệp đạt được mục tiêu, nó được thể hiện thông qua các
khẩu hiệu, các triết lý kinh doanh ngắn gọn.
- Sứ mệnh không được công bố: Thể hiện lợi ích tối cao của doanh nghiệp.
Xu hướng chung ngày nay là : cố gắng làm cho 2 loại sứ mệnh này xích lại gần
nhau hơn.
Sứ mệnh là cơ sở đầu tiên để xác định mục tiêu chiến lược của hệ thống và nó

cũng là cơ sở để xác định phương thức hành động cơ bản của tổ chức.
ĐĐư
ờng lối


s

m
ệnh

Chiến lược
Các k
ế hoạch tác
nghi
ệp

Xây dựng một lần,
sử dụng một lần:
- Chương trình
- Dự án
- Ngân sách
Xây dựng một lần,
sử dụng nhiều lân:
- Chính sách
- Thủ tục
- Quy tắc

2.1.2 Chiến lược
Chiến lược là tổng thể tư tưởng, quan điểm , mục tiêu tổng quát và những phương
thức cơ bản để thực hiện mục tiêu của hệ thống.

Chiến lược là sự cụ thể hoá đường lối, khẳng địng lại sứ mệnh – quan điểm. Mục
tiêu trong chiến lược bao giờ cũng là mục tiêu tổng quát và và dài hạn, mỗi chiến lược của
hệ thống phải đảm bảo cho hệ thống sự phát triển vượt bậc với sự thay đổi về chất, các
chiến lược là một hệ thống phức tạp bao gồm nhiều loại, nhiều cấp khác nhau và hướng
vào thực hiện mục tiêu tối cao của tổ chức.
Chiến lược của một tổ chức là một hệ thống phức tạp bao gồm nhiều cấp chiến
lược khac nhau và nhiều loại chiến lược khác nhau.
Theo cấp chiến lược của một tổ chức thông thường có 3 cấp chiến lược. Được thể
hiện qua sơ đồ sau:









Sơ đồ 2


Chiến lược chung của
t
ổ chức

Chiến lược của
đơn vị
Chiến lược của
đơn vị
Chiến lược của

đơn vị
Chi
ến l
ư
ợc thứ
…….












2.1.3. Các kế hoạch tác nghiệp
Đây là loại kế hoạch nhằm cụ thể hoá chiến lược và triển khai các chiến lược. Có 2
nhóm cơ bản sau:
 Kế hoạch tác xây dựng một lần sử dụng nhiều lần:
- Chương trình: Bao gồm một số các mục đích, chính sách thủ tục, quy tắc các nhiệm vụ
được giao, các bước phải tiến hành, các nguồn lực có thể huy động và các yêu tố khác.
Chương trình được hộ trợ bằng ngân quỹ cần thiết. Một chương trình quan trọng thường ít
khi đứng một mình, thường là một bộ phận của một hệ thống phức tạp.
Chương trình thường có mục tiêu lơn quan trọng, mang tính độc lập tương đối trong quá
trình phân bổ các nguồn lực để thực hiện mục tiêu.
- Dự án: có mục tiêu thường cụ thể, quan trọng mang tính độc lập tương đối. Nguồn lực để
thực hiện mục tiêu thường phải rõ ràng đối với tất cả các hình thái nguồn lực theo thời gian

và không gian.

- Các ngân sách (ngân quỹ): Là bản tường trình các kết quả mong muốn được biểu hiện
bằng các con số. Có thể coi đó là chương trình được “số hoá”. Ngân quỹ ở đây không đơn
thuần là ngân quỹ bằng tiền, mà còn có ngân quỹ bằng thời gian, ngân quỹ công nhân,
ngân quỹ máy móc thiết bị, ngân quỹ nguyên vật liệu…
 Kế hoạch tác nghiệp xây dựng một lần sử dụng nhiều lần:
- Chính sách: Là quan điểm phương hướng và cách thức chung để ra quyết định trong tổ
chức. Trong một tổ chức có thể có nhiều loại chính sách khác nhau cho những mảng hoạt
động trọng yếu của tổ chức mình.
Ví dụ : chính sách khuyến khích tài năng trẻ nhằm tạo động lực phấn đấu cho lớp
trẻ trong tổ chức. Chính sách đào tạo nhân viên để đáp ứng công việc hiện tại và tương lai.
Chính sách là là kế hoạch theo nghĩa nó là những quy định chung để hưỡng dẫn
hay khai thông cách suy nghĩ và hành động khi ra quyết định. Các chính sách giúp cho
công việc giải quyết các vấn đề trong các tình huống nhất định và giúp cho việc thống nhất
các kế hoạch khác nhau của tổ chức. Các chính sách là tài liệu chỉ dẫn cho việc ra quyết
định trong phạm vi co giãn nào đó, tuỳ thuộc vào các chức vụ và quyền hạn trong tổ chức.
- Thủ tục: Là các kế hoạch thiết lập một phương pháp cần thiết cho việc điều hành các hoạt
động trong tương lai. Đó là sự hướng dẫn hành động, là việc chỉ ra một cách chi tiết, biện
pháp chính xác cho một hoạt động nào đó cần phải thực hiện. Đó là chuỗi các hoạt động
cần thiết theo thứ tự, theo cấp bâc quản lý.
- Quy tắc: Giải thích rõ ràng những hành động nào đó có thể làm, những hành động nào
không được làm. đây là loại kế hoạch đơn giản nhất. Không nên nhầm lẫn giữa thủ tục và
quy tắc. các quy tắc gắn liền với hướng dẫn hành động mà không ấn định trình tự thời gian,
trong khi đó thủ tục cũng bao hàm sự hưỡng dẫn hành động mà không ấn định trình tự thời
giancho các hoạt động. Hơn nữa các chính sách hướng dẫn việc quyết định trong khi quy
tắc cũng là sự hướng dẫn nhưng không cho phép có sự lựa chọn trong khi áp dụng chún.
Như vậy, so với quy tắc và thủ tục, chính sách có độ linh hoạt cao hơn.
2.2. Phân loại theo cấp quản lý


- Kế hoạch cho toàn tổ chức
- Kế hoạch cho các phân hệ và bộ phận của tổ chức
- Kế hoạch cho các ca nhân trong tổ chức
2.3. Phân loại kế hoạch theo thời gian
- Kế hoạch dài hạn: Là kế hoạch 5 năm trở lên
- Kế hoạch trung hạn: Là loại kế hoạch có thời gian từ 1đến 5 năm
- Kế hoạch ngắn hạn: Là loại kế hoạch có thời gian dưới 1 năm
3. Vai trò của kế hoạch trong doanh nghiệp
Thông qua các kế hoạch mà đường lối, chiến lược, chính sách phát triển kinh tế
được cụ thể hoá thành mục tiêu chương trình hành động cho từng giai đoạn nhất định. Lập
kế hoạch là chức năng quản lý mang tính cương lĩnh, là khâu quan trọng trong quá trình
biến đường lối thành hiện thực.
Lập kế hoạch là chức năng định hướng, liên kết cân đối và thống nhất mọi hành
động trong hệ thống quản lý. Kế hoạch là công cụ điều hành thống nhất hoạt động sản xuất
kinh doanh, đồng thời xác định mô hình phát triển của đối tượng trong tương lai.
Kế hoạch là cơ sở căn cứ quan trọng bảo đảm tính đồng bộ, liên tục và thống nhất
của tất cả các công tụ chính sách.
Tất cả các tầm quan trọng đó được thể hiện cụ thể như sau:
3.1. ứng phó với những sự bất định và sự thay đổi
Sự bất định và thay đổi làm cho việc lập kế hoạch trở thành yếu tố tất yếu. Giống
như một nhà hàng hải không chỉ lập trình một lần rồi quên nó, một người kinh doanh
không thể lập một kế hoấchnr xuất kinh doanh và dừng lại ở đó. Tương lai rất ít khi chắc
chắn, tương lai càng xa thì kết quả của quyết định mà ta cần phải xem xét sẽ càng kém
chắc chắn, một uỷ viên quản trị kinh doanh có thể thấy hoàn toàn chắc chắn rằng: Trong
tháng tới các đơn vị đặt hàng, các chi phí sản xuất, năng suất lao động, sản lượng, dự trữ

tiền mặt có sẵn và các yếu tố khác của môi trường kinh doanh sẽ ở một mức độ xác định.
Song một đám cháy, một cuộc bãi công không biết trước, hoặc việc huỷ bỏ một đơn đặt
hàng của một khách hàng chủ yếu sẽ làm đảo lộn tất cả. Hơn nữa, nếu lập kế hoạch cho
một thời gian càng dài thì người quản lý càng ít nắm chắc về môi trường kinh doanh bên

trong, bên ngoài và tính đúng đắn của mọi quyết định. Thậm chí ngay khi tương lai có độ
chắc chắn cao, thì một số kế hoạch cần thiết:
Thứ nhất: Các nhà quản lý vẫn phải tìm cách tốt nhất để đạt được mục tiêu. Với
điều kiện chắc chắn, trước hết đây là vấn đề thuộc toán học tính toán, dựa trên các
sự kiện đã biết xem tiến trình nào sẽ đem lại kết quả mong muốn với chi phí thấp
nhất.
Thứ hai: Sau khi tiến trình đã được xác định, cần phải đưa ra các kế hoạch để sao
cho mỗi bộ phận của tổ chức sẽ biết cần phải đóng góp như thế nào vào công việc
phải làm.
Ngay sau khi có thể dễ dàng dự đoán được sự thay đổi thì vẫn nảy sinh những khó
khăn khi lập kế hoạch.Việc sản xuất ô tô loại nhỏ sử dụng ít nhiên liệu là một ví dụ. Không
thể ngay lập tức chuyển từ sản xuất ô tô loại lớnvà loại trung bình sang loại nhỏ, nhà sản
xuất phải quyết định tỷ lệ sản xuất giữa các loại ô tô và làm thế nào để trang bị máy móc
cho cả dây chuyền này sản xuất có hiệu quả. Tuy nhiên, nhà sản xuất có thể lựa chọn các
phương hướng rất khác nhau, khi đã nắm chắc về sự thay đổi công ty có thể phải cân nhắc
kỹ lưỡng để bán lỗ phần kinh doanh xe cơ lớn và cơ trung bình để tẩp trung vào việc thiết
kế và sản xuất loại xe cơ nhỏ, với hy vọng trở thành công ty hàng đầu trong ngành sản xuất
ô tô loại nhỏ. Thực tế, đó là cách mà các công ty Nhật Bản đã làm.
Khi các nhà quản lý không thể thấy được các xu thế một cách dễ dàng thì việc có
được một kế hoạch tốt có thể gặp nhiều khó khăn hơn nữa. Nhiều nhà quản trị đã đánh giá
thấp hoặc không đánh giá đủ sớm về tầm quan trọng của giá cả lạm phát, về sự tăng lãi
nhanh chóng và khủng hoảng năng lượng những năm 70, kết quản là họ đã đối phó không
kịp thời với những biến động của thị trường và vật liệu dẫn tới sự tăng chi phí sản xuất.

Thậm chí đến cuối những năm 1960 – 1970 sự cố ô nhiễm nước và không khí cũng không
được quan tâm đúng mức.
3.2. Tập trung vào sự chú ý các mục tiêu
Do toàn bộ công việc là phần đạt được các mục tiêu của cơ sở, cho nên chính hoạt
động lập kế hoạch tập trung sự chú ý vào các mục tiêu này. Nhưng kế hoạch được xem xét
đủ toàn diện sẽ thống nhất được những hoạt động tương tác giữa các bộ phận. Những

người quản lý mà họ thực sự đang gặp phải những vấn đề cấp bách, buộc phải thông qua
việc lập kế hoạch để xem xét tương lai, thậm chí cần phải định kỳ sửa đổi và mở rộng kế
hoạch để đạt được các mục tiêu đã định.
3.3. Tạo khả năng tác nghiệp kinh tế
Việc lập kế hoạch sẽ giảm tối thiểu hoá chi phí vì nó chú trọng vào các hoạt động
hiệu quả và phù hợp.
Kế hoạch thay thế cho sự hoạt động manh mún, kế hoạch không được phối hợp
bắngự nỗ lực có định hướng chung, thay thế những phán xét vội vàng bằng những quyết
định có cân nhắc kỹ lưỡng.
ở phạm vi cơ sở sản xuất tác dụng của việc lập kế hoạch càng rõ nét. Không một ai
đã từng ngắm nhìn bộ phận lắp ráp ô tô trong một nhà máy lớn mà lại không có ấn tượng
về cách thức mà các bộ phận và các dây chuyền phụ ghép nối với nhau. Từ hệ thống băng
tải chính hình thành ra thân xe, và các bộ phận khác nhau được hình thành từ các dây
chuyền khác. Động cơ, bộ truyền lực và các phụ kiện được đặt vào chỗ một cách chính xác
đúng thời điểm đã định. Quá trình này đòi hỏi phải có một kế hoạch sâu rộng và chi ly mà
nếu thiếu chúng việc sản xuất ô tô sẽ rối loạn và tốn kém qua mức. Làm dễ dàng cho việc
kiểm tra.
Người quản lý không thể kiểm tra công việc của các cấp dưới nếu không có được
mục tiêu đã định để đo lường. Như vậy một người lãnh đạo cấp cao đã từng nói: “Sau khi
tôi rời khỏi văn phòng lúc 5 giờ chiều, tôi không còn quan tâm tới những việc đã xảy ra
trong ngày hôm đó, tôi chẳng thẻ làm gì được nữa, tôi chỉ có thể xem xét những việc có thể

xảy ra vào ngày mai hoặc ngày kia, hoặc vào năm tới, bởi tôi vì tôi còn có thể làm được
một việc gì đó về những vấn đề này”, có thể đây là một quan niệm cức đoan, nhưng nó
cũng nhấn mạnh tới một điều quan trọng là sự kiểm tra có hiệu quả là sự kiểm tra hướng
tới tương lai.
II. Công tác lập kế hoạch 5 năm trong doanh nghiệp
1. Khái niệm lập kế hoạch
lập kế hoạch là một quá trình xem xét đánh giá tổng hợp các hoạt động nhằm xác
định mục tiêu, các nhiệm vụ, phương hướng phát triển sản xuất kinh doanh về tổ chức và

thực hiện để đạt được các mục tiêu đề ra. Trên cơ sở vận dụng các quy luật khách quan các
chủ trương đường lối của Đảng và Nhà nước.
2. Vai trò của lập kế hoạch
Lập kế hoạch có các vai trò sau:
2.1. Giúp cho việc lựa chọn được các phương thức hành động trong quá trình ra
quyết định
Thứ nhất: lựa chọn các mục tiêu ưu tiên bởi vì nguồn lực có hạn nên không thể
đáp ứng cùng một lúc tất cả các nhu cầu phát triển.
Thứ hai: Sự lựa chọn trong số các phương thức hành động khác nhau, giữa các
cách thức khác nhau để đạt được cùng một mục tiêu.
2.2. Tạo cơ sở phân bổ và sử dụng tốt nhất các nguồn lực hiện có
Nguồn lực ở đây không chỉ bao gồm các nguồn lực tự nhiên mà còn bao gồm cả
nhân lực, tài sản và tài chính. Việc phân biệt những gì không được coi là nguồn lực tuỳ
thuộc vào mục tiêu cần đạt đến của người sử dụng, cũng như nhận thức về gisias trị sử
dụng và khả năng sử dụng cụ thể trong từng trường hợp.
Lập kế hoạch góp phần giảm nhẹ những ảnh hưởng kìm hãm sự phát triển nguồn
lực bằng cách phối hợp những dự án đầu tư để có thể tập trung những yếu tố khan hiếm và
những lĩnh vực sản xuất có hiệu quả nhất.

Mặc khác thị trường cạnh tranh tự do có xu hướng hạn chế đầu tư và chuyển đầu
tư nhiều hơn sang những lĩnh vực mà xã hội ít mong muốn, đồng thời không tính đến
những lợi nhuận phụ thêm có được từ những chương trình đầu tư được phối hợp tương đối
dài hạn. Đó cũng là một khuyết điểm của thị trường mà người ta muốn sử dụng kế hoạch
để khắc phục.
2.3. Là một công cụ hưu hiệu để đạt tới mục tiêu
Lập kế hoạch không chỉ liên quan đến quyết định cần phải làm gì đẻ đạt tới mục
tiêu cụ thể mà còn liên quan đến quyết định trình tự thực hiện các hoạt động một cách logic
có thứ tự từng bước tiến tới đạt được mục tiêu.
3. Quá trình lập kế hoạch
Quá trình lập kế hoạch bao gồm các bước cơ bản sau

3.1. Nghiên cứu và dự báo
Nghiên cứu và dự báo là điểm bắt đầu của việc lập kế hoạch. Để nhận thức được
cơ hội cần phải có những hiểu biết về môi trường, thị trường, về sự cạnh tranh về điểm
mạnh và điểm yếu của mình so các đối thủ cạnh tranh. Chúng ta phải dự đoán được các
yếu tố không chắc chắn và đưa ra phương án đối phó. Việc lập kế hoạch đòi hỏi phải có
những dự đoán thực tế về cơ hội.
3.2. Thiết lập các mục tiêu
Các mục tiêu đưa ra cần phải xác định rão thời hạn thực hiện và được lưỡng hoá
đến mức cao nhất có thể. Mặc dù tổ chức thường có cả hai loại mục tiêu định tính và mục
tiêu định lượng, nhưng những loại mục tiêu định lượng có vẻ rõ ràng hơn và dễ thực hiện
hơn. Ngoài ra, mục tiêu cũng cần được phân nhóm theo các thứ tự ưu tiên khác nhau. Một
tổ chức có thể có hai loại mục tiêu là mục tiêu hàng đầu và mục tiêu hàng thứ hai. Những
mục tiêu hàng đầu liên quan đến sự sống còn và thành đạt của tổ chức. Đối với một công
ty, đó là những mục tiêu về lợi nhuận, doanh số hay thị phần. Không đạt được một mức lợi
nhuận, mức doanh số hya mức thị phần nhất định trong một thời kỳ nào đó, công ty có thể
bị phá sản. Mục tiêu hàng thứ hai có liên quan đến tính hiệu quả của tổ chức, nhưng không

phải lúc nào cũng ảnh hưởng đến sự sống còn. Các mục tiêu này có thể thể hiện mức độ
quan tâm của khách hàng đối với sản phẩm của tổ chức, sự phát triển sản phẩm mới hay
tính hiệu quả của công tác quản lý hành chính Trong những năm gần đây, các tổ chức ở
cả khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân dường như đều chú trọng tới các mục tiêu hàng
thứ hai để thu hét khách hàng thứ nhất với sự ảnh hưởng trực tiếp và trước mắt hơn. Cho
dù có chú trọng tới mục tiêu nào hơn chăng nữa, điều quan trọng là phải xacs định các mục
tiêu thật rõ ràng, có thể đo lường được và từ đó mang tính khả thi. Ngoài ra, cũng cần xác
định rõ trách nhiệm trong việc thực hiện mục tiêu và thời hạn phải hoàn thành.
3.3. Phát triển các tiền đề
ở bước thứ ba này chúng ta cần lưu ý tới việc phát triển các tiền đề. Tiền đề lập kế
hoạch là các dự báo, các chính sách cơ bản có thể áp dụng. Chúng là giả thiết cho việc thực
hiện kế hoạch. Đó có thể là địa bàn hoạt động, quy mô hoạt động, mức giá, sản phẩm gì,
triển khai công nghệ gì, mức chi phí, mức lương, mức cổ tức và các khía cạnh tài chính, xã

hội, chính trị khác.
Một số tiền đề là những dự báo, các chính sách còn chưa ban hành.
Ví dụ : Nếu một viện nghiên cứu không có chính sách tuyển dụng cán bộ nghiên
cứu (cần có bằng cấp từ thạc sỹ trở lên hay chỉ cần tốt nghiệp đại học loại giỏi, tổ chức thi
tuyển ra sao ) khi lập kế hoạch nhân sự, người ta phải đư ra các tiền đề là các dự đoán
xem chính sách đó sẽ được ban hành hay không và nếu có nó sẽ gồm những gì. Một ví dụ
khác, khi xây dựng kế hoạch phát triển đô thị sẽ định hình ra sao sau 5 năm tới.
Các tiền đề được giới hạn theo các giả thiết có tính chất chiến lược hoặc cấp thiết
để dẫn đến một kế hoạch. Các tiền đề này có ảnh hưởng nhiều nhất đến sự hoạt động của
kế hoạch đó. Sự nhất trí về các tiền đề là điều kiện quan trọng để lập kế hoạch phối hợp. Ví
vậy không nên đòi hỏi những kế hoạch và ngân quỹ từ cấp dưới khi chưa có, trước hết,
những chỉ dẫn cho những người đứng đầu các bộ phận của mình.
3.4. Xây dựng các phương án

Có nhiều cách thức để đạt được mục tiêu, đó chính là các phương án.mỗi phương
án sản xuất kinh doanh đều đưa đến các mục tiêu cần đạt được. Các phương án sản xuất
kinh doanh này đều được lập ra dựa trên nhiều con đường.
Tìm ra và nghiên cứu các phương án hành động để lựa chọn. Cần giảm bớt các
phương án lựa chọn, chỉ có những phương án có triển vọng nhất được đưa ra phân tích
3.1.5. Đánh giá các phương án
Đánh giá các phương án theo các chỉ tiêu phù hợp với mục tiêu và trung thành cao
nhất với các tiền đề đã xác định.
3.1.6. Lựa chọn phương án và ra quyết định
Sau quá trình đánh giá các phương án, một vài phương án sẽ được lựa chọn. Lúc
này, cần ra quyết định để phân bổ con người và các nguồn lực khác của tổ chức cho việc
thực hiện kế hoạch. Bước tiếp theo đây sẽ là việc xây dựng các kế hoạch phụ trợ và lượng
hoá kế hoạch bằng ngân quỹ.
4. Nội dung của quá trình lập kế hoạch
4.1. Thiết lập hệ thống mục tiêu
Điểm xuất phát để xây dựng kế hoạch là việc xác định các nhu cầu xã hội và luận

chứng cho cho hệ thống các mục tiêu kinh tê - xã hội chủ yếu mà xã hội có thể dự kiến đạt
tới trong thời kỳ kế hoạch. Tất nhiên những mục tiêu này không phài được đề ra một cách
ngẫu nhiên mà xuất phát từ việc đánh giá trình độ phát triển đã đạt được, từ tiến trình và
kết quả có thể thấy trước được của việc thực hiện những kế hoạch hiện hành, những định
mức hiện hành có tính đến những khả năng hiện thực của nền kinh tế quốc dân.
Căn cứ vào hệ thống mục tiêu đó người ta xác định khối lượng và cơ cấu những
của cải và dịch vụ cần thiết để đạt mục tiêu ấy tức là khối lượng và cơ cấu tiêu dùng cuối
cùng. Sau đó dựa trên những chỉ tiêu thu được về hiệu quả của nền sản xuất xã hội người ta
xác định quy mô thu hut những nguồn tài nguyên thiên nhiên bổ sung và sức lao động vào
chu chuyển kinh tế để có thể bảo đảm được khối lượng và cơ cấu tiêu dùng cuối cùng.

Bằng cách đó có thể giải quyết nhiệm vụ luận chứng về nguồn lợi cho các mục tiêu mà kế
hoạch quy định. Sự ăn khớp hoàn toàn trong kế hoạch giữa các mục tiêu các nguồn là kết
quả của một số chu kỳ tính toán nhiều lần, trong qua trình đó, để đạt được sự ăn khớp lãn
nhau giữa chúng, người ta điều chỉnh khối lượng những loại nguồn lợi chủ yếu được thu
hút vào sản xuất, các chỉ tiêu về hiệu quả sử dụng các nguồn lợi ấy và mức (khối lượng)
sản xuất hoặc bản thân những mục tiêu cụ thể.
Để có thể lựa chọn mục tiêu phát triển một cách có căn cứ khoa học người ta xử lý
một số lượng lớn thông tin về kinh tế xã hội và khoa hoc – kỹ thuật, xem xét các mặt khác
nhau của triển vọng phát triển được đề ra trong kế hoạch.
Hệ thống mục tiêu được xác định hoặc dưới hình thức định tính các phương hướng
phát triển hoặc dưới hình thức các mức phải đạt được những nhu cầu xã hội chủ yếu. Kế
hoạch dài hạn phản ánh những mục tiêu quan trọng nhất, thường là có ý nghĩa kinh tế quốc
dân, quy định sự phục tùng lẫn nhau giữa những mục tiêu nhiệm vụ và thứ tự thực hiện
chúng.
Hệ thống mục tiêu trong kế hoạch phải thoả mãn một số yêu cầu sau:
- Bảo đảm sự phát triển ăn khớp và sự trao đổi hoạt động giữa các ngành sản xuất
vật chất và dịch vụ ; giữa các vùng kinh tế.
- Bảo đảm tính ăn khớp, tính cân đối của mối quan hệ qua lại giữa tất cả các giai
đoạn tái sản xuất – bản thân sản xuất – trao đổi – phân phối sản phẩm.

- Bảo đảm sử dụng mội cách cân đối và có hiệu quả nhất các nhân tố chủ yếu phát
triển kinh tế và tất cả các loại nguồn thiên nhiên, nguồn vật tư tái sản xuất, sức lao
động, vốn, tài chính.
- Thể hiện được những khía cạnh khác nhau của sự phát triển phương thức sản
xuất: kỹ thuật - kinh tế, tổ chức và quản lý; giải quyết các vấn đề xã hội.
Hệ thống mục tiêu kinh tế quốc dân: Bao gồm 5 nhóm mục tiêu cơ bản sau:

- Tăng trưởng kinh tế mà mục tiêu tổng quát là tốc độ gia tăng GDP, theo đó là tốc
độ gia tăng ngành công nghiệp - nông nghiệp – lâm – ngư nghiệp và dịch vụ.
- ổn định nền tài chính quốc gia, tăng khả năng và tiềm lực tài chính, xử lý hài hoà
quan hệ tích luỹ tiêu dùng, tăng khả năng đầu tư phát triển.
- Kiềm giữ và khống chế lạm phát, bảo đảm giá trị đồng tiền, cải thiện cán cân
thanh toán quốc tế, đặc biệt là cán cân vãng lai.
- Tăng khả năng kinh tế đối ngoại, xuất – nhập khẩu và thu hút nguồn vốn bên
ngoài.
- Bảo đảm công ăn việc làm, giảm thất nghiệp, phát triển dân trí cải thiện dân sinh
và các mặt xã hội.
ở các ngành và địa phương căn cứ vào quy hoạch phát triển tổng thể của ngành và
địa phương sẽ xây dựng hệ thống các mục tiêu nhằm cụ thể hoá các mục tiêu cụ thể của đất
nước. Xác định các mục tiêu ưu tiên nhằm giải quyết các vấn đề trước mắt và lâu dài để
hoà hợp với trình độ phát triển chung. ở Việt Nam , với chủ trương xây dựng và phát triển
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện tư duy, quan niệm của chúng
ta là : “đẩy mạnh công nghiệp hoá,hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa
nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời
xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy cao độ nội
lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát
triển nhanh, có hiệu quả, bền vững, tăng trưởng, kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng
bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường kết hợp phát triển kinh tế – xã hội với tăng cường
quốc phòng an ninh.

4.2. Đề xuất - đánh giá và lựa chọn các giải pháp tối ưu
ở giai đoạn phân tích - dự đoán khi lập kế hoạch người ta tạo ra cơ sở thông tin -
khoa học để chuyển sang xây dựng và lựa chọn những giải pháp kế hoạch. Những giải
pháp này cho phép tiến hành các tính toán trong phạm vi những khả năng hiện thực của

nền kinh tế quốc dânvà xuất phát từ những thông số chung, sơ bộ ăn khớp với nhau về sự
phát triển kinh tế.
Trong giai đoạn này, các giải pháp kế hoạch kinh tế quốc dân không nhằm vào một
mục tiêu duy nhất mà vào cả một hệ thống mục tiêu. Điều này phản ánh sự thực khách
quan về sự phát triển nhằm nhiều mục tiêu khác nhau, sự cần thiết phải kết hợp giải quyết
đồng thời một số nhiệm vụ chung (nhiệm vụ xã hội, quốc phòng, phát triển khoa học và
tích luỹ tiềm nằng khoa học, bảo vệ và cải thiện môi trường thiên nhiên, tạo điều kiện để
tái sản xuất mở rộng và giải quyết đầy đủ hơn những nhiệm vụ kinh tế – xã hội trong tương
lai, ngoài phạm vi của thời kỳ kế hoạch.
Tuy nhiên trong quá trình lựa chọn các giải pháp phải chú trọng một số các nội
dung sau:
Những chỉ tiêu về khối lượng hay mức sản xuất của cải vật chất; dịch vụ
và về thoả mạn nhữn g nhu cầu xã hội mà kế hoạch dự kiến (những chỉ tiêu kinh tế
chung, trong đó quan trọng nhất là các chỉ tiêu về thu nhập quốc dân, sản phẩm
thuần tuý của các ngành…) Những chỉ tiêu chất lượng như năng suất lao động,
hiệu quả kinh tế - xã hội.
Những chỉ tiêu bảo đảm nguồn lực cho cácnhiệm vụ về khối lượng và
mức sản xuất của cải vật chất và dịch vụ (khối lượng vốn đầu tư cơ bản, nguồn lao
động và quỹ tiền lương, những nguồn lực được huy động vào quá trình phát triển
kinh tế, tài chính….).
Những định mức về hiệu quả được coi như những yêu cầu của Nhà nước
về sử dụng hợp lý các nguồn lực.
Những định mức kinh doanh nhằm quy định các điều kiện hoạt động kinh
doanh của các tổ chức, các bộ cơ quan chủ quản.
Những chính sách và biện pháp hướng đến thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch.

Kế hoạch xuất phát từ những đòi hỏi của thực tiễn khách quan và do đó mục đích
của nền sản xuất xã hội là sản xuất ra tối đa của cải vật chất đáp ứng nhu cầu không ngừng

tăng lên của mọi thành viên trong xã hội. Bởi vậy nhận thức và vận dụng những quy luật
khách quan là điều kiện bắt buộc để bảo đảm tính hiện thực và tính có căn cứ khoa học của
các giải pháp. Đông thời thừa nhận vai trò quyết định của các quy luật khách quan không
có nghĩa là phủ nhận tác dụng của các nhân tố chủ quan (chính sách, tư tưởng, đạo đức,
tâm lý xã hội và cá nhân… ) mà nếu tính đến chúng thì có thể nâng cao được tính hiệu quả
và vai trò tích cực của các giải pháp kế hoạch.

5. Tổ chức quá trình lập kế hoạch
Trong quá trình lập kế hoạch có thể xuất hiện những sự thay đổi không lường
trước về điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, xuất hiện những khả năng mới về ứng dụng
những thành tựu của tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào thực tiễn, những biện pháp giải quyết
từng vấn đề riêng biệt trong từng giai đoạn của sự phát triển …Do đó cần thiết và có khả
năng điều chỉnh một số điểm trong lập kế hoạch đã thông qua trước đây. Như vậy quá trình
lập kế hoạch không thể chấm dứt bằng việc lựa chọn các giải pháp phương án tối ưu thông
qua hệ thống những chỉ tiêu và nhiệm vụ cân đối với nhau, có tính chất pháp lệnh và được
phân công cụ thể mà đòi hỏi còn phải có giai đoạn phân tích quá trình thực hiện kế hoạch
và điều chỉnh kế hoạch có tính đến những kết quả thu được trong quá trình tổ chức thực
hiện kế hoạch, sự tác động của những nhân tố mới và sự thay đổi những điều kiện trong
nước cũng như tình hình kinh tế - chính trị bên ngoài. Các nhân tố tác động đến quá trình
thực hiện kế hoạch được phân thành 4 nhóm chính:
a. Các nhân tố thuộc về bản thân của quá trình lập kế hoạch. ở đây người ta thường
coi việc lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch là hai hoạt động riêng rẽ và không có
liên quan đến nhau.
b. Các nhân tố thuộc về tổ chức xây dựng và thực hiện kế hoạch. Việc thực hiện kế
hoạch không phải chỉ do các nhà kế hoạch thực hiện mà nó là một quy trình phức
tạp có sự tham gia của nhiều cá nhân và tổ chức khác nhau. Những kho khăn trong
việc thực hiện kế hoạch nhiều khi bắt nguồn từ các nhân tố tổ chức. Chẳng hạn


như thiếu sự phối hợp giữa các nhà kế hoạch chuyên nghiệp và những người tham
gia trực tiếp hoặc gián tiếp quy trình lập kế hoạch và thiếu sự phối hợp giữa các
nhà kế hoạch chuyên nghiệp và những người tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp quy
trình lập kế hoạch và thiếu sự phối hợp với các cá nhân hoặc các tổ chức, đặc biệt
là các cơ quan trong bộ máy Chính phủ có nhiệm vụ thực thi kế hoạch.
c. Các nhân tố thuộc về nội dung kế hoạch: các kế hoạch phải có tính khả thi cụ thể
là phải tương ứng với các nguồn lực hiện có cho thực hiện kế hoạch và khả năng
có được sự hộ trợ của Chính phủ đối với việc thực hiện kế hoạch. Thiếu những
nhân tố đó kế hoạch rất ít tính khả thi.
d. Các nhân tố thuộc về quản lý quá trình thực hiện: vấn đề trọng tâm trong việc
thực hiện kế hoạch là phải đưa kế hoạch hoặc dự án vào hoạt động, xác định người
có trách nhiệm thực hiện, thời gian cần thiết, phân bổ nguồn lực và lập ngân sách
tài chính. Vai trò của nhà kế hoạch trong quá trình này là huy động, tổ chức và
quản lý các nguồn lực cần thiết để thực hiện các giải pháp đã đưa ra trong kế
hoạch.
Ngoài ra cũng cần tính đến nhân tố tổ chức bộ máy và nhân sự , nhân tố giáo dục
vận động nhân dân.
Trong điều kiện doanh nghiệp đang trong thời kỳ phát triển việc vượt qua những
khó khăn nêu trên không phải là dễ dàng và nhanh chóng. Vấn đề đặt ra là việc áp dụng các
cộng nghệ và kỹ thuật lập kế hoạch phù hợp với điều kiện hạn chế về thời gian, số liệu và
con người, đồng thời xây sựng một cơ cấu tổ chức để tăng cường sự trao đổi và hiểu biết
lẫn nhau giữa các chính khách và các nhà lập kế hoạch và các nhà quản lý nhằm hạn chế
tối đa những điểm yếu trong quá trình lập kế hoạch.
6. Các căn cứ lập kế hoạch (những nhân tố ảnh hưởng)
6.1. Căn cứ bên trong
- Căn cứ vào các nguồn lực: Khi lập kế hoạch doanh nghiệp gặp một trở ngại lớn là sự hạn
chế của các nguồn lực. Thực tiễn cho thấy sự khan hiếm của nguồn lực lf bài toán làm đau

đầu các nhà quản trị khi lập kế hoạch. Chính điều này nhiều khi làm giảm mức tối ưu của

phương án kế hoạch được lựa chọn.
Trước hết cần nói đến nguồn lực, đây vốn được coi là một trong những thế mạnh
của Việt Nam nhưng thực tế ở các doanh nghiệp còn rất nan giải. Lực lượng lao động thừa
về số lượng nhưng lại yếu về chất lượng. Số lượng lao động có trình độ quản lý, tay nghề
cao vẫn thiếu, lực lượng lao động trẻ còn phải qua đào tạo nhiều.
Về mặt tài chính: Tài chính hạn hẹp, tiềm lực yếu dẫn đến làm cản trở sự triển
khai các kế hoạch, hơn nữa nó cũng giới hạn việc lựa chọn những phương án tối ưu.
Cơ sở vật chất kỹ thuật nói chung của doanh nghiệp cũng là nguồn lực hạn chế. Đó
là khả năng hạn chế về máy móc thiết bị, công nghệ, nhà xưởng kho tàng…. Thực tiễn ở
các doanh nghiệp nước ta hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật còn rất yếu và thiếu. Điều đó đã
cản trở việc xây dựng và lựa chọn những kế hoạch sản xuất tối ưu nhất….
- Hệ thống mục tiêu của doanh nghiệp:
Mục tiêu được hiểu theo một cam kết cụ thể đối với thực hiện một kết quả có thể
đo lường trong khoảng thời gian đã định. Các mục tiêu được xác định càng cụ thể càng tốt
trên phương diện : Số lượng các điều kiện cụ thể hay những sự liệu có thể đo lường được
và được thể hiện trong những khoảng thời gian nhất định. Để kiểm tra và điều chỉnh một số
mục tiêu cần trả lời các câu hỏi sau:
+ Mục tiêu đã đề cập đến kết quả hoàn thành như thế nào?
+ Mục tiêu này xác định khi nào thì kết quả chờ đợi được hoàn thành?
+ Có thể đo lường được kết quả chờ đợi hay không ?
Mục tiêu hữu ích của doanh nghiệp phải thảo mạn cả 3 câu hỏi này, nếu mục tiêu
không thảo mạn bất kỳ câu hỏi nào cũng gây khó khăn cho quá trình lập kế hoạch.
- Quá trình tổ chức thông tin, thống kê, kế toán:

Nhà kinh tế học người Anh Roney cho rằng: “Muốn chiến thắng trong cạnh tranh
một mặt công ty hoạt động trong nền kinh tế thị trường trước hết phải nắm được thông tin,
tiếp đó phải xây dựng cho mình các chiến lược và kế hoạch đầy tham vọng”.
Trong quá trình xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh thông tin sẽ giúp ta đánh
giá so sánh và lựa chọn phương án … thông tin giúp bộ phận lãnh đạo của doanh nghiệp
có được các quyết định đúng đắn kịp thời.

Thống kê và kế toán là hai công cụ đặc biệt có ý nghĩa đối với công tác quản lý và
công tác xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh nói riêng. Tổ chức thông kê, kế toán đầy
đủ, chính xác kịp thời, sẽ đảm bảo cho doanh nghiệp thực sự đi vào cơ chế hoạch toán, xây
dựng hiệu quả giúp cho bộ phận kế hoạch lựa chọn, xây dựng những phương án sản xuất
tối ưu nhất. Tuy nhiên ở nước ta các doanh nghiệp chưa thực sự chú ý đúng mức công tác
thống kê.
- Căn cứ vào kết quả điều tra nghiên cứu nhu cầu thị trường:
Thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn lĩnh vực hoạt
động và phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Kết quả nghiên cứu nhu cầu thị
trường phải phản ánh được quy mô, cơ cấu đối với từng sản phẩm và dịch vụ của doanh
nghiệp, có tính đến tác động của các nhân tố làm tăng hoặc giảm cầu để đáp ứng yêu cầu
của công tác hoạch định. Những kết quả nghiên cứu này có thể tập hợp theo mức giá để
xác định mục tiêu kinh doanh phù hợp với phân đoạn thị trường hoặc theo khách hàng để
đảm bảo sự gắn bó giữa sản xuất với các yếu tố hộ trợ. Căn cứ vào số lượng các đối thủ
cạnh tranh, sự biến động giá cả trên thị trường sẽ làm tăng hiệu quả thực hiện các phương
án kế hoạch.
Đối với doanh nghiệp trong ngành xây dựng thì thị trường cũng lại rất đặc biệt
cũng như đặc trưng về sản phẩm của nó. Do đó việc nghiên cứu nhu cầu thị trường là rất
quan trọng trong công tác lập kế hoạch của Công ty.
- Căn cứ vào kết quả phân tích và dự báo về tình hình sản xuất kinh doanh, về khả năng và
nguồn lực có thể khai thác

Doanh nghiệp căn cứ vào kết quả phân tích hoạt động kinh tế thời kỳ trước và dự
báo khả năng tương lai ứng với các nguồn lực có thể có, đặc biệt là dựa vào những lợi thế
vượt trội của doanh nghiệp về các mặt chất lượng sản phẩm, kênh tiêu thụ hợp tác kinh
doanh, khoa học công nghệ, cạnh tranh sẽ góp phần làm tăng tính khả thi của các phương
án kế hoạch. trong tâm công tác cần tập trung vào các chỉ tiêu chất lượng của hoạt động
sản xuất kinh doanh.
- Căn cứ vào hệ thống định mức kinh tế kỹ thuật
Đây là căn cứ quan trọng làm cơ sở cho công tác hoạch định. Môi trường kinh

doanh biến đổi rất nhanh đòi hỏi hệ thống này cần được hoàn thiện và sửa đổi sau mỗi chu
kỳ kinh doanh. Hệ thống định mức kỹ thuật của doanh nghiệp phải gắn bó phù hợp với hệ
thống đinh mức tiêu chuẩn của ngành và nền kinh tế quốc dân.
6.2. Các nhân tố bên ngoài
- Căn cứ vào chủ trương, đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà
nước.
Trong công tác hoạch định về nguyên tắc doanh nghiệp được quyền tự chủ, song
giới hạn và phạm vi cảu việc phát huy quyền tự chủ là pháp luật và chính sách phù hợp với
chủ trương đường lối, chinh sách, phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước. Doanh
nghiệp là một tế bào của nền kinh tế, néu những hoạt động của nó đi ngược lại xu thế phát
triển, phạm vi những lợi ích chung của nền kinh tế nó sẽ bị đào thải, ngượclại nếu nhận
thức và hoà mình vào xu thế phát triển thi nó mới có thể phát triển bền vững và ổn định.
Căn cứ này góp phần làm cho phương án phát triển của doanh nghịêp hợp lý, đúng
hướng.
- Tính không chắc chắn của môi trường kinh doanh
Xây dựng kế hoạch là quá trình chuẩn bị để đối phó với sự thay đổi và tình huống
không chắc chắn của môi trường kinh doanh mà chủ yếu là các nhân tố trong môi trường
nền kinh tế và môi trường ngành. Tuy nhiên vấn đề quan trọng là phải tính toán, phán đoán
được sự tác động của môi trường kinh doanh.

Sự không chắc chắn của môi trường kinh doanh được thể hiện dưới 3 hình thức:
+ Tình trạnh không chắc chắn: Xảy ra khi toàn bộ hay một phần môi trường được
coi là không thể tiên đoán được.
+ Hậu quả không chắc chắn: Là trường hợp mặc dù đã cố gắng nhưng nhà quản lý
không thể tiên đoán được những hậu quả của sư kiện hay sự thay đổi của môi
trường đối với các doanh nghiệp, do đó dẫn đến sự không chắc chắn.
Nhìn chung công việc của người xây dựng kế hoạch phải đánh giá tính chất và
mức độ không chắc chắn của môi trường để xác định các cách thức phản ứng của tổ chức
và triển khai các kế hoạch thích hợp ở những lĩnh vực có mức độ không chắc chắn thì việc
xây dựng kế hoạch là không mấy phức tạp, nhưng những lĩnh vực có mức độ không chắc

chắn cao đòi hỏi kế hoạch phải được xác định rất linh hoạt.
- Cơ chế quản lý kinh tế và kế hoạch hoá của Nhà nước
Đây là nhóm nhân tố có ảnh hưởng sâu sắc đến công tác xây dựng kế hoạch sản
xuất kinh doanh. một cơ chế quản lý phù hpợ sẽ thúc đẩy hoạt động kế hoạch sản xuât phát
triển, ngược lại nó sẽ kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp. Thực tế trong những năm
chuyển đổi cơ chế quản lý cho thấy càng đi sâu vào cơ chế thị trường càng phát sinh nhiều
vấn đề mới cần tiếp tục nghiên cứu giải quyết để hoàn thiện cơ chế quản lý và kế hoạch
của Nhà nước. Nhà nước cần tiếp tục giải quyết các tồn đọng, vướng mắc trong những năm
chuyển đổi để thực sự tạo quyền tự chủ cho doanh nghiệp song vẫn đảm bảo yêu cầu quản
lý tập trung thống nhất của Nhà nước.
7. Các phương pháp lập kế hoạch
Trong thực tế các doanh nghiệp có thể sử dụng nhiều phương pháp lập kế hoạch.
Tuỳ thuộc vào mục đích yêu cầu mà doanh nghiệp áp dụng các phương pháp khác nhau. ở
Việt Nam hiện nay các doanh chủ yếu vẫn sử dụng phương pháp cân đối trong việc xây
dựng kế hoạch.
Bao gồm các phương pháp sau:

7.1. Phương pháp cân đối
Bao gồm các bước:
Bước 1: Xác định khả năng (bao gồm khă năng sẵn có và khă năng chắc
chắn có) của doanh nghiệp và yếu tố sản xuất.
Bước 2: Cân đối giữa nhu cầu và khả năng về các yếu tố sản xuất.
Trong cơ chế thị trường, phương pháp cân đối được xác định với những yêu cầu
sau:
Cân đối được thực hiện là cân đối động. Cân đối để lựa chọn phương án
chứ không phải cân đối theo phương án đã được chỉ định. Các yếu tố của cân đối
là những yếu tố biến đổi theo môi trường kinh doanh, đó là nhu cầu thị trường và
khả năng có thể khai thác của doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch.
Thực hiện cân đối liên hoàn, tức là tiến hành nhiều cân đối kế tiếp nhau để
bổ sung và điều chỉnh phương án cho phù hợp với thay đổi của môi trường.

Thực hiện cân đối trong những yếu tố trước khi tiến hành cân đối tổng thể
các yếu tố. Kết quả cân đối tổng hợp phải là căn cứ xác định năng lực sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp và là cơ sở để xác định hoặc điều chỉnh phương án
kinh doanh của doanh nghiệp.
7.2. Phương pháp tỷ lệ cố định
Nội dung của phương án này là tính toán một số chỉ tiêu của năm kế hoạch theo tỷ
lệ đã được xác định trong năm báo cáo trước đó. Có nghĩa là coi tình hình của năm báo cáo
đối với một số chỉ tiêu nào đó.
Phương pháp này cho thấy kết quả nhanh nhưng thiếu chính xác nên chỉ sử dụng
trong trường hợp không đòi hỏi độ chính xác cao và thời gian không cho phép dài.
7.3. Phương pháp phân tích chu kỳ sống của sản phâm
Chu kỳ sống của sản phẩm (vòng đời của sản phẩm) là khoảng thời gian từ khi nó
được đưa ra thị trườngcho đến khi nó không còn tồn tại trên thi trường. Trừ một số sản

×