Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Luận văn: MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA THƠ CA DÂN TỘC MÔNG THỜI KỲ HIỆN ĐẠI (TỪ 1945 ĐẾN NAY) pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 105 trang )


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
1

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRỜNG ĐẠI HỌC S PHẠM





NGUYỄN KIẾN THỌ





MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA THƠ CA
DÂN TỘC MÔNG THỜI KỲ HIỆN ĐẠI
(TỪ 1945 ĐẾN NAY)





L
L
U
U



N
N


V
V
Ă
Ă
N
N


T
T
H
H


C
C


S
S
Ĩ
Ĩ


K
K

H
H
O
O
A
A


H
H


C
C


N
N
G
G




V
V
Ă
Ă
N
N














THÁI NGUYÊN - 2008

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
2

ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRỜNG ĐẠI HỌC S PHẠM





NGUYỄN KIẾN THỌ





MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA THƠ CA
DÂN TỘC MÔNG THỜI KỲ HIỆN ĐẠI
(TỪ 1945 ĐẾN NAY)


CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.34


L
L
U
U


N
N


V
V
Ă
Ă
N
N


T
T
H

H


C
C


S
S
Ĩ
Ĩ


K
K
H
H
O
O
A
A


H
H


C
C



N
N
G
G




V
V
Ă
Ă
N
N




NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN THỊ VIỆT TRUNG





THÁI NGUYÊN - 2008

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
3

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 5
1. Lý do chọn đề tài 5
2. Lịch sử vấn đề 6
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu 9
3.1. Mục đích 9
3.2. Phạm vi nghiên cứu 10
4. Nhiệm vụ nghiên cứu 10
5. Phương pháp nghiên cứu 11
6. Cấu trúc luận văn 11
PHẦN NỘI DUNG 12
Chƣơng 1. VÀI NÉT VỀ ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ XÃ HỘI CỦA
DÂN TỘC MÔNG 12
1.1. Một số đặc điểm về cộng đồng dân tộc Mông ở Việt Nam 12
1.1.1. Đặc điểm tộc người và điều kiện tự nhiên 12
1.1.2. Đặc điểm phong tục tập quán và sinh hoạt cộng đồng 17
1.1.3. Đặc điểm về đời sống tâm linh 24
1.1.4. Đặc điểm về ngôn ngữ, chữ viết 27
1.2. Vài nét về thơ ca dân tộc Mông 30
1.2.1. Thơ ca dân gian 30
1.2.2. Thơ ca hiện đại 33
Chƣơng 2. THƠ MÔNG THỜI KỲ HIỆN ĐẠI - BỨC TRANH
SINH ĐỘNG VỀ THIÊN NHIÊN, CUỘC SỐNG, CON
NGƢỜI CỦA MỘT DÂN TỘC ĐẦY BẢN SẮC 41
2.1. Hình ảnh thiên nhiên trong thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại 41
2.2. Hình ảnh con người và cuộc sống vùng cao trong thơ dân tộc
Mông thời kỳ hiện đại 46

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
2.2.1. Con người dân tộc Mông chân chất, mạnh mẽ và tài hoa 46
2.2.2. Cuộc sống đơn sơ nhưng phong phú và giàu bản sắc 51
Chƣơng 3. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VỀ NGHỆ THUẬT TRONG THƠ
CA DÂN TỘC MÔNG THỜI KỲ HIỆN ĐẠI 62
3.1. Dấu ấn của các thể loại thơ ca dân gian trong thơ ca dân tộc
Mông thời kỳ hiện đại 62
3.1.1. Sự vận dụng sáng tạo, hiệu quả vốn tục ngữ, ca dao, dân ca Mông 62
3.1.2. Sự vận dụng các hình thức nghệ thuật thơ ca dân gian trong
thơ dân tộc Mông thời kỳ hiện đại 69
3.2. Ngôn ngữ hình ảnh trong thơ Mông thời kỳ hiện đại 73
3.2.1. Ngôn ngữ mộc mạc giản dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng
ngày của đồng bào Mông 73
3.2.2. Ngôn ngữ giàu tính biểu cảm, giàu nhạc điệu 77
3.2.3. Ngôn ngữ, hình ảnh mang sắc thái đặc trưng của dân tộc Mông . 78
3.3. Cấu trúc, nhịp điệu trong thơ Mông thời kỳ hiện đại 81
3.3.1. Cấu trúc, nhịp điệu chịu ảnh hưởng của thơ ca truyền
thống dân tộc Mông 81
3.3.2. Xu hướng hiện đại trong cấu trúc, nhịp điệu của thơ ca Mông
thời kỳ hiện đại 83
3.4. Tư duy, diễn đạt trong thơ Mông thời kỳ hiện đại 86
3.4.1. Tư duy trực quan hình ảnh 86
3.4.2. Tư duy, diễn đạt mang đậm bản sắc dân tộc Mông 87
PHẦN KẾT LUẬN 94
TÀI LIỆU THAM KHẢO 99


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
5
PHẦN MỞ ĐẦU


1. Lý do chọn đề tài
Thơ ca dân tộc Mông là một bộ phận quan trọng trong nền thơ của các
dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại. Nó đã góp phần tạo nên sự đa sắc màu
cho đời sống thơ ca dân tộc vốn đã rất phong phú và giàu bản sắc. Vì vậy, khi
nghiên cứu thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam không thể không nghiên cứu
thơ ca dân tộc Mông - tiếng nói văn học của một dân tộc có số cư dân đông
vào hàng thứ tám trong cộng đồng các dân tộc thiểu số Việt Nam và cũng là
một dân tộc có truyền thống văn hoá rất độc đáo và đặc sắc.
Trong quá trình nghiên cứu về thơ ca các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện
đại, đã có những tác giả có sự quan tâm đến việc tìm hiểu thơ ca của dân tộc
Mông. Tuy nhiên, những nghiên cứu này mới chỉ dừng lại ở việc tuyển chọn
và giới thiệu thơ của một số tác giả dân tộc Mông trong các tuyển tập thơ ca
các dân tộc thiểu số nói chung; hoặc điểm qua tên tuổi của một số nhà thơ
người Mông đã phần nào trở nên quen thuộc trong số các nhà thơ dân tộc
thiểu số như: Mã A Lềnh, Mùa A Sấu, Hùng Đình Quí… Nhìn chung, tất cả
các công trình nghiên cứu, bài viết nói trên - dù trực tiếp hay gián tiếp liên
quan đến thơ ca hiện đại dân tộc Mông - cũng mới chỉ dừng lại ở mức độ
điểm qua, như những nét phác thảo, chưa toàn diện và hệ thống, chưa làm nổi
bật được những nét đặc sắc cũng như những đóng góp của thơ ca hiện đại dân
tộc Mông đối với nền thơ ca các dân tộc thiểu số nói riêng và nền thơ ca Việt
Nam hiện đại nói chung. Do đó, rất cần thiết phải có một công trình nghiên
cứu chuyên biệt, nghiên cứu một cách hệ thống và thấu đáo, nhằm chỉ ra
những đặc điểm cơ bản về nội dung và nghệ thuật, sự vận động và phát triển
cũng như những giá trị của thơ ca hiện đại dân tộc Mông trong việc góp phần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
6
tạo nên một nền thơ ca dân tộc thiểu số nói riêng, thơ ca Việt Nam hiện đại
nói chung, phong phú và giàu bản sắc dân tộc. Chính vì vậy, chúng tôi đã lựa

chọn đề tài “Một số đặc điểm của thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại (từ
1945 đến nay)” cho luận văn của mình.
Vốn là một cán bộ của Trung tâm đào tạo bồi dưỡng cho cán bộ giáo
viên các dân tộc tỉnh Thái Nguyên, lại có dịp tiếp xúc nhiều với cộng đồng
dân tộc Mông, tôi rất yêu quí và trân trọng những nét đẹp văn hoá mang tính
bản sắc và đặc biệt là thơ ca của dân tộc Mông (cả thơ ca truyền thống và thơ
ca hiện đại). Vì vậy, nếu đề tài được thực hiện thành công, tôi hy vọng sẽ góp
phần nhỏ bé của mình vào việc chỉ ra được những vẻ đẹp đặc trưng, mới lạ và
độc đáo của thơ ca dân tộc Mông. Mặt khác, qua việc thực hiện đề tài, người
viết cũng muốn góp thêm một tiếng nói vào việc giữ gìn, bảo tồn những nét
đẹp của bản sắc văn hoá dân tộc Mông, cũng như mong muốn thực hiện được
chủ trương đưa vào chương trình giảng dạy các tác phẩm văn học dân tộc
thiểu số - trong đó có các tác phẩm thơ ca hiện đại dân tộc Mông- trong nhà
trường phổ thông, cao đẳng, đại học hiện nay,đặc biệt là các trường thuộc
khu vực miền núi phía Bắc.
2. Lịch sử vấn đề
Theo tìm hiểu bước đầu của chúng tôi thì tình hình nghiên cứu về thơ ca
dân tộc Mông (cũng như thơ ca các dân tộc thiểu số khác) mới chỉ được bắt
đầu từ những năm 60 của thế kỷ XX trở lại đây. Mặc dù đã có một số thành
tựu nhất định nhưng nhìn chung, việc giới thiệu, nghiên cứu và phê bình văn
học các dân tộc thiểu số ở nước ta hiện nay còn nhiều hạn chế, còn lâm vào
tình trạng “rời rạc, lẻ tẻ, chắp vá…” (Lò Ngân Sủn). Một phần do tình trạng
“ảnh hưởng của văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số còn khá mờ nhạt
trong nhận thức và đánh giá của xã hội” [25;10], dẫn đến nhiều tác giả, tác
phẩm chưa được chú ý, “nhiều thực tế phong phú chưa được tổng kết, thậm chí

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
7
chưa được tập hợp lại một cách tương đối hệ thống; nhiều vấn đề lí luận và thực
tiễn chưa được xới ra xem xét, nghiên cứu chặt chẽ, thấu đáo” (Nguyên Ngọc).

Về thơ ca dân tộc Mông nói chung, cho đến nay đã có một số công trình
nghiên cứu, song chủ yếu là về thơ dân gian với các công trình sưu tầm, tuyển
chọn và giới thiệu dân ca Mông như: Dân ca Mèo (Doãn Thanh, Nxb Văn học
1967). Các cuốn sách giới thiệu các tác phẩm văn học dân gian do Ty Văn
hoá Thông tin các tỉnh Hà Giang, Nghĩa Lộ, Hoàng Liên Sơn xuất bản trong
khoảng thời gian từ 1971 đến 1978; năm 1984, cuốn Dân ca Mông được tác
giả Doãn Thanh biên soạn lại và xuất bản với lời giới thiệu của nhà thơ Chế
Lan Viên. Từ 1994 đến nay, Nhà xuất bản Văn hoá Dân tộc lần lượt giới thiệu
một số tác phẩm sưu tầm dân ca, tục ngữ, câu đố dân tộc Mông của tác giả
Hùng Đình Quí, Hờ A Di, Lê Trung Vũ, đặc biệt là việc xuất bản 6 tập Dân
ca HMông do nhà thơ, nhà sưu tầm văn học dân gian Hùng Đình Quí biên
soạn. Theo khảo sát của chúng tôi, một công trình nghiên cứu có tính hệ
thống, qui mô và toàn diện hơn cả là đề tài, luận văn Thạc sĩ của Hùng Thị
Hà: Thơ ca dân gian HMông (2003).[17]
Nên có thể nói, thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại là mảng nghiên cứu
hiện nay còn bỏ ngỏ, ngoại trừ một số các công trình mang tính chất tập hợp,
tuyển chọn và giới thiệu thơ văn các dân tộc thiểu số, trong đó có dân tộc
Mông, như: Hợp tuyển thơ văn các dân tộc thiểu số Việt Nam 1945 - 1985
(Nxb Văn hoá, 1981); tuyển tập Thơ các dân tộc thiểu số Việt Nam thế kỷ XX
(Nxb Văn hoá Dân tộc, 2000); hay các tác phẩm chuyên sâu về nghiên cứu,
phê bình văn học các dân tộc thiểu số (ít nhiều có liên quan đến thơ văn hiện
đại dân tộc Mông) như: 40 năm văn học nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt
Nam (Nxb Văn hoá Dân tộc, 1985); Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam
hiện đại của Lâm Tiến (Nxb Văn hoá Dân tộc, 1995); Vấn đề đặt ra với các
nhà thơ dân tộc thiểu số của Lò Ngân Sủn (Nxb Văn hoá Dân tộc, 2002) ….

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
8
Một điều dễ nhận thấy là hầu như tất cả các công trình nghiên cứu này chỉ
điểm qua mảng văn học dân tộc Mông, đặc biệt là thơ hiện đại như một cách

để “nói cho đủ”. Trong đó Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại
của nhà nghiên cứu, phê bình văn học Lâm Tiến có thể coi là một công trình
nghiên cứu qui mô nhất về văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại từ
trước cách mạng tháng tám năm 1945 trên cả ba lĩnh vực: Thơ, văn xuôi và
kịch. Tuy nhiên, công trình này mới chỉ đi sâu nghiên cứu đánh giá về một số
tác giả tác phẩm tiêu biểu của các dân tộc thiểu số xét trên từng giai đoạn lịch
sử, chứ chưa phác thảo về diện mạo cũng như chưa đi sâu nghiên cứu về đặc
điểm văn học nói chung và thơ ca nói riêng của từng dân tộc. Vì thế, thơ ca
hiện đại dân tộc Mông cũng không được đề cập ngoài vài dòng điểm tên các
tác giả, tác phẩm nhằm minh hoạ cho việc phân tích, diễn giải một luận điểm
nào đó của người viết; cuốn Vấn đề đặt ra với các nhà thơ dân tộc thiểu số
của Lò Ngân Sủn đi sâu bàn luận thơ ca của các tác giả dân tộc thiểu số.
Trong đó, một vài nhà thơ hiện đại dân tộc Mông cũng đôi lần được nhắc đến
cùng với những đánh giá, bình xét về đặc điểm thơ của các tác giả này.
Năm 2008, Viện Văn học đã nghiệm thu đề tài khoa học Thơ dân tộc ít
người giai đoạn 10 năm cuối thế kỷ XX - truyền thống và hiện đại của nhóm tác
giả Hà Công Tài, Nguyễn Thị Thanh Lưu, Đỗ Thị Thu Huyền. Lý do mà các
tác giả đưa ra khi chọn nghiên cứu đề tài này là, thơ dân tộc ít người giai đoạn
10 năm cuối thế kỷ XX (1990 - 1999) có những thành tựu nhất định, biểu hiện
ở việc xuất hiện những “tác giả thật đặc sắc”, đã gây được “những ảnh hưởng
không chỉ đến sáng tác văn học dân tộc thiểu số mà cả sáng tác văn học nói
chung”. Đây được coi là cơ sở bước đầu để “triển khai nghiên cứu, tổng kết 50
năm xây dựng văn học dân tộc thiểu số (từ sau Cách mạng thành công tháng
8/1945) [59]. Nhìn chung, đây là một công trình nghiên cứu nghiêm túc, công
phu và khá toàn diện trong nhìn nhận, đánh giá những thành tựu của thơ ca các

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
9
dân tộc thiểu số. Đặc biệt là việc bước đầu đánh giá mối quan hệ giữa thơ ca
dân gian và thơ ca hiện đại của các dân tộc ít người qua khảo sát hệ thống biểu

tượng, cùng với việc giới thiệu một số chân dung tác giả tiêu biểu đại diện cho
thơ ca hiện đại các dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, do khuôn khổ và nội dung của
đề tài, thơ ca hiện đại dân tộc Mông (cũng như một số dân tộc thiểu số khác)
chưa được các tác giả xem xét và đánh giá một cách đúng mức.
Có thể khẳng định một điều: Tất cả những công trình, bài viết về thơ ca
dân tộc Mông thời kỳ hiện đại, cho đến nay mới chỉ dừng lại ở phạm vi nhỏ
lẻ, tản mạn (cả dưới góc độ tác phẩm và tác giả), mà chưa đi sâu vào phân
tích, đánh giá và chỉ ra những đặc điểm cụ thể về nội dung và nghệ thuật. Vì
thế, cũng có thể khẳng định, cho đến nay, chưa có một công trình khoa học
nào nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về thơ ca hiện đại dân tộc
Mông. Điều đó dẫn tới sự cần thiết về việc phải nghiên cứu văn học Mông nói
chung và thơ ca hiện đại Mông nói riêng một cách thấu đáo và nghiêm túc, để
thấy được diện mạo thơ ca hiện đại của một dân tộc vốn có truyền thống văn
hoá lâu đời, có những bản sắc riêng độc đáo. Mặt khác, đó cũng chính là
những động thái hết sức tích cực trong việc góp phần bảo tồn và phát triển
một nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc trong giai đoạn
hội nhập quốc tế một cách toàn diện hiện nay.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích
Nghiên cứu đề tài “Một số đặc điểm thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện
đại (từ 1945 đến nay)”- luận văn nhằm chỉ rõ những đặc điểm về nội dung và
nghệ thuật của thơ ca hiện đại dân tộc Mông. Đồng thời khẳng định những
đóng góp tích cực của thơ ca dân tộc Mông đối với sự phát triển của thơ ca
các dân tộc thiểu số nói riêng, góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng của
nền thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
10
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện luận văn, chúng tôi đã đọc, tham khảo và nghiên cứu các

loại tài liệu sau:
- Các tác phẩm thơ của các tác giả dân tộc Mông từ 1945 đến nay.
- Một số tác phẩm thơ dân tộc Mông trước 1945, đặc biệt là thơ ca dân
gian Mông (để so sánh đối chiếu).
- Một số tác phẩm thơ của các dân tộc thiểu số khác nhằm so sánh, đối
chiếu, làm nổi bật những đặc điểm riêng biệt của thơ ca hiện đại dân tộc Mông.
- Các công trình, bài nghiên cứu về thơ ca dân tộc Mông nói riêng và thơ
ca các dân tộc thiểu số nói chung.
- Một số tài liệu về lí luận, lí thuyết có liên quan đến đề tài.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn cố gắng làm sáng tỏ và đi đến khẳng định những đặc điểm nổi
bật của thơ ca dân tộc Mông thời kỳ hiện đại ở hai phương diện cơ bản:
- Phản ánh những nét đặc sắc về đời sống văn hoá, tinh thần của dân tộc
Mông (thiên nhiên, con người, những phong tục tập quán, sinh hoạt cộng
đồng, đời sống tâm linh…) thông qua những sáng tác của các nhà thơ hiện đại
dân tộc Mông (trong sự đối chiếu, so sánh với thơ ca hiện đại của các dân tộc
anh em khác).
- Nghiên cứu một số hình thức nghệ thuật được sử dụng một cách đặc
sắc và hiệu quả (ngôn ngữ, hình ảnh thơ, hình thức kết cấu, lối tư duy, diễn
đạt…) của các nhà thơ dân tộc Mông. Qua đó, chỉ ra sự kế thừa một cách sáng
tạo, độc đáo những giá trị nghệ thuật của thơ ca dân gian, cũng như sự phát
triển, sự cách tân của các nhà thơ dân tộc Mông thời kỳ hiện đại.
Từ việc nghiên cứu, tìm hiểu những đặc điểm cơ bản của thơ ca dân tộc
Mông từ sau 1945 đến nay, luận văn đi đến khẳng định những thành tựu và

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
11
hạn chế cũng như những đóng góp của thơ ca hiện đại dân tộc Mông đối với
thơ các dân tộc thiểu số nói riêng và nền thơ ca Việt Nam hiện đại nói chung.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Để thực hiện luận văn, chúng tôi đã sử dụng một số phương pháp
chính sau:
- Phương pháp thống kê, phân loại.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu liên ngành
và một số phương pháp tổng hợp khác.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn có cấu trúc gồm 3 chương:
Chƣơng 1: Một số đặc điểm về đời sống văn hoá xã hội của dân tộc Mông.
Chƣơng 2: Thơ Mông thời kỳ hiện đại- bức tranh sinh động về thiên
nhiên, cuộc sống, con người của một dân tộc đầy bản sắc.
Chƣơng 3: Một số đặc điểm về nghệ thuật của thơ ca dân tộc Mông thời
kỳ hiện đại.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
12
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
VÀI NÉT VỀ ĐỜI SỐNG VĂN HOÁ XÃ HỘI
CỦA DÂN TỘC MÔNG
1.1. Một số đặc điểm về cộng đồng dân tộc Mông ở Việt Nam
1.1.1. Đặc điểm tộc người và điều kiện tự nhiên
Dân tộc Mông có tên gọi (bao gồm cả tên tự nhận) là Mông, Na Mẻo,
Mèo, Mẹo, Miếu ha, Mán trắng [18], là một dân tộc ít người ở Việt Nam
với dân số hiện nay khoảng 80 vạn người, cư trú trên 16 tỉnh miền núi phía
Bắc, chủ yếu ở các tỉnh: Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Sơn La, Yên Bái và
Cao Bằng.
Nằm trong một quốc gia đa dân tộc, dân tộc Mông được coi là một thành
viên quan trọng trong cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Việt Nam, có số lượng

cư dân đứng hàng thứ 8 trong bảng danh sách các dân tộc Việt Nam.
Nhìn chung, ý kiến của các nhà nghiên cứu dân tộc học ở Việt Nam về
lịch sử hình thành dân tộc Mông là tương đối thống nhất khi cho rằng người
Mông di cư vào Việt Nam sớm nhất khoảng 300 năm và muộn nhất là 100
năm về trước.
Từ những thế kỷ trước khi di cư đến Việt Nam, Người Hán gọi người
Mông là “Mèo”. Tộc danh Mèo theo âm Hán Việt là “Miêu”. Đây là tên gọi
một tộc người sớm biết nghề trồng lúa nước ở vùng hồ Bành Lãi và hồ Động
Đình (Trung Quốc), lâu dần trở thành tên gọi chính thức [17]. Theo truyền
thuyết, tổ tiên của người Mông đã ở vùng hồ Bành Lãi (thuộc Giang Tây) và
hồ Động Đình (thuộc Hồ Nam) ở Trung Quốc từ hàng nghìn năm trước công
nguyên. Trong suốt hàng chục thế kỷ, người Mông di cư theo hướng Tây -
Tây Nam, tập trung đông ở Hồ Nam, Tứ Xuyên, Vân Nam, Quảng Đông,
Quảng Tây và trung tâm là Quí Châu (Trung Quốc) trước khi đến Việt Nam.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
13
Cũng theo truyền thuyết thì xưa kia, dân tộc Mông cũng có một quốc gia
riêng với biểu tượng hình đôi sừng trâu và màu cờ đỏ. Ngày nay, một số vùng
người Mông ở Hà Giang, Lào Cai vẫn ít nhiều còn để lại những dấu ấn ấy qua
các phong tục, biểu hiện cụ thể ở tấm vải đỏ treo trước cửa nhà; người chết
không phân biệt già trẻ đều có tấm vải đỏ che miệng; hình bộ sừng trâu dùng
làm chốt cửa trên hai cánh cửa chính của mỗi nhà. Hay như cách đội khăn
quấn đầu hình hai sừng trâu của người Mông ở một số vùng hiện nay của
Trung Quốc [17;14].
Người Mông đến nước ta có thể gồm nhiều đợt qui mô lớn nhỏ khác
nhau: Từ Vân Nam sang, từ Quí Châu qua Vân Nam hoặc Quảng Tây sang cư
trú ở các vùng biên giới phía Bắc. Theo các nhà nghiên cứu dựa trên kết quả
điền dã dân tộc học ở tại một số vùng người Mông ở Việt Bắc và Tây Bắc,
cũng như việc nghiên cứu tình hình biến động của tộc Miêu ở Trung Quốc

trong lịch sử, có thể người Mông thiên di đến Việt Nam với ba đợt quy mô
lớn [18]. Thời kỳ đầu tiên cách đây trên 300 năm, người Mông từ Quí Châu
sang Đồng Văn. Dân ca Mông còn ghi lại:
Người HMông ta ở Quí Châu đến
Vì người HMông ta không biết chữ
Thua kiện người Hán ta mới đi …
Tuy nhiên, “thua kiện người Hán” chỉ là một lí do theo cách nói bóng
bẩy, nhẹ nhàng của văn học, còn trong thực tế nguyên nhân của đợt thiên di
thứ nhất này là do chính sách “cải thổ qui lưu” (tức bỏ chế độ thổ quan, phái
các quan lại từ nơi khác đến cai trị trực tiếp) của nhà Minh dẫn đến các phong
trào đấu tranh mạnh mẽ và quyết liệt của người Mông. Nhà Minh đã dùng bạo
lực để bắt qui phục. Dân ca Mông cũng đã có lúc nói thẳng nguyên nhân của
đợt thiên di này:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
14
Vì đất nước đại triều nhà Hán chín xèo không chín ké
Mẹ cha ta gặp bước loạn li phải đi lưu lạc …
Đại triều nhà Hán lòng không tốt.
Đợt thiên di thứ hai của người Mông vào Việt Nam cách nay khoảng 200
năm, sau thất bại của phong trào khởi nghĩa của người Mông ở Quí Châu
(1776 - 1820). Đợt thiên di đông nhất của người Mông vào nước ta cách đây
khoảng từ 120 đến 160 năm; khởi nghĩa Hàm Đồng (năm 1853) dưới sự lãnh
đạo của Trương Tú Mi xuất phát từ Đông Nam Quí Châu, sau lan rộng sang
Hồ Nam và Vân Nam, kéo dài 18 năm ròng rã. Vương triều Thanh đã tàn sát
huỷ diệt những người tham gia khởi nghĩa. Hàng vạn người Mông đã từ Quí
Châu (Trung Quốc) di cư sang Hà Giang, Lao Cai, Yên Bái và một số tỉnh
thuộc biên giới phía Bắc nước ta.
Tuy nhiên, cũng có những ý kiến cho rằng, có thể người Mông di cư
sang Việt Nam sớm hơn, cách đây khoảng 400 năm, đời nhà Minh, hoặc xa

hơn, những gia đình người Mông đầu tiên đã đến vùng Lao Cai cách đây
khoảng trên 600 năm [15].
Đồng bào Mông ở Đồng Văn, Hà Giang còn lưu truyền một bài ca buồn
thảm rằng: “Quí Châu là quê hương yêu dấu của người Mèo ta ở. Vì người
Mèo ta phải đói rách, vì dân Mèo ta không có chữ nên phải dời quê”. Dấu ấn
của các cuộc thiên di còn để lại trong các câu chuyện cổ của người Mông với
tất cả sự đắng cay nghiệt ngã đến thê thảm của số phận con người: Chỉ ba hạt
ngô làm giống hoặc ba chiếc bánh kê có thể đổi được một cô vợ người Mông.
Người Mông vốn có gốc gác là những cư dân trồng lúa nước. Tên gọi
“Miêu”( ) theo Hán tự trên có bộ thảo ( ) là cây cỏ, dưới có chữ điền ( )
là ruộng đồng. Điều này phần nào khẳng định người Mông có tổ tiên nguồn
cội cư trú ở lưu vực các con sông với nghề trồng lúa. Mặt khác, qua một số
truyện cổ và đặc biệt là kho tàng ca dao, dân ca phong phú của người Mông,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
15
ta cũng có thể tin rằng người Mông xưa kia vốn cũng sinh sống ở những vùng
đất đai có sông ngòi và làm nhiều ruộng. Văn học dân gian truyền thống của
người Mông luôn nhắc tới “sông nước”, “thuyền bè”, tới các “đường dài -
đường rộng”, “bãi bằng - bãi phẳng”, tới ruộng, tới trâu… như một ước mơ,
như một sự phản ánh hiện thực xa xưa với một niềm luyến tiếc, hàm chứa một
sự so sánh trong nhận thức với thực tại [77; 6]
Đến Việt Nam, với một vùng đất mới, không có chiến tranh sắc tộc,
chấm dứt một giai đoạn đằng đẵng của lịch sử gắn liền với những cuộc thiên
di đầy nước mắt và máu, người Mông đã tìm thấy một quê hương mới và cuộc
sống hứa hẹn những ấm no và hạnh phúc. Những câu chuyện dân gian của
người Mông vẫn còn ghi lại: “Việt Nam là nơi đất đai màu mỡ để làm ăn, nơi
có quả bí to như cái vạc mà lợn rừng có thể khoét lỗ chui vào đó đẻ; nó vừa là
ổ, vừa là thức ăn cho lợn. Nơi trồng cây lương thực gốc có củ, thân có bắp,
ngọn trổ lúa…” [17; 15]. Vì thế mà cùng với quá trình lao động sáng tạo,

người Mông đã coi những địa danh như Mèo Vạc, Hà Giang là quê hương thứ
hai của mình:
Cá bơi ở dưới nước
Chim bay ở trên trời
Chúng ta sống ở vùng cao
Và con chim có tổ
Người Mèo ta cũng có quê
Quê ta là Mèo Vạc [50]
Sau cách mạng tháng Tám, thể theo nguyện vọng của đồng bào, từ
“Mèo” được thay thế bằng từ “Mông” (HMông). Đây là một âm tiết phát âm
từ âm mũi. Bởi vì trong hệ thống phụ âm tiếng Việt không có âm tố nào ghi
âm chính xác được âm tiết trên nên các nhà ngôn ngữ học đã mượn phụ âm
“Hm” trong hệ thống phụ âm tiếng Mông để ghi âm từ “HMông”. Do sự phát

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
16
âm khó khăn, từ năm 1992 đến nay, Nhà nước ta đã thống nhất phiên âm tên
gọi của đồng bào là “Mông” và dùng cách viết “Mông” thay cho H‟Mông. Đây
là cách gọi tên và cách ghi danh được người Mông tán thành thay cho cách
phát âm là “Hơ-Mông” trước đây làm nhiều người Mông không đồng ý [14].
Ngoài Việt Nam ra, người Mông còn cư trú ở một địa bàn khá rộng lớn
thuộc phía Nam Trung Quốc, Lào, Thái Lan, Miến Điện. Sau 1975, cộng
đồng người Mông còn di cư sang sinh sống ở các nước như Mỹ, Pháp, Úc …
con số lên tới hàng trăm nghìn người (chủ yếu di cư từ Lào). Hiện nay, Trung
Quốc có số lượng người Mông đông đảo hơn cả với hơn 7 triệu người (số liệu
thống kê năm 1990) phân bố ở các tỉnh Quí Châu, Hồ Nam, Vân Nam, Tứ
Xuyên, Quảng Tây, Hải Nam, Hồ Bắc. Trong 56 dân tộc ở Trung Quốc, dân
tộc Mông (Miêu) chỉ đứng sau các dân tộc Hán, Choang, Mãn, Hồi. Trên thực
tế cho thấy các cư dân Mông ở Việt Nam vẫn có quan hệ với cư dân đồng tộc
các nước khác, đặc biệt là những địa bàn sát biên giới giữa Việt Nam với

Trung Quốc và Lào [18].
Ở Việt Nam, dân tộc Mông thường cư trú ở độ cao từ 800 đến 1500 mét
so với mực nước biển, dọc theo biên giới Trung - Việt và Việt - Lào [57].
Những xóm làng của người Mông, tiếng Mông gọi là “Giao” (Jaol), nơi tập
trung đông cũng chỉ dăm chục nóc nhà, còn phần nhiều lẻ tẻ, thường ở trên
các triền núi hoặc cao nguyên. Khí hậu mát mẻ về mùa hè nhưng cũng hết sức
giá lạnh, khắc nghiệt về mùa đông. Điều kiện đi lại giao lưu rất đỗi khó khăn.
Nước phục vụ cho sinh hoạt thiếu thốn, thậm chí khan hiếm. Cho nên, người
Mông giỏi canh tác nương rẫy hơn làm ruộng nước. Ở những nới chỉ toàn núi
đá như Mèo Vạc (Hà Giang), người dân đưa đất từ nơi khác tới, đổ vào những
hốc đá để tra ngô. Sống biền biệt trên các vùng cao quanh năm sương phủ, sự
hẻo lánh làm cho đời sống xã hội Mông chậm phát triển. Kinh tế hoàn toàn
mang tính chất tự cấp tự túc, lệ thuộc nhiều vào thiên nhiên. Vì hoàn cảnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
17
sống vất vả khó khăn nên trước đây phần lớn đồng bào Mông sống du canh,
du cư hoặc đã định cư nhưng còn du canh. Ngày nay, được sự quan tâm của
Đảng và Nhà nước, cuộc sống của người Mông đã có những bước cải thiện
đáng kể.
Lịch sử của cộng đồng người Mông ở Việt Nam là lịch sử của những
cuộc thiên di, là một bản trường ca đầy bí tráng mà mỗi trang đều được viết
lên bằng nước mắt và máu. Lịch sử đau thương và hào hùng cùng với điều
kiện sống hết sức khắc nghiệt đã góp phần hun đúc lên một diện mạo tâm hồn
Mông với bản lĩnh can trường, dũng cảm đến táo bạo, chai sạn đến chắc nịch
như đá núi với một sức chịu đựng bền bỉ dẻo dai hiếm có. Vượt lên trên tất cả
lại là một tinh thần lạc quan, phóng túng, đôi khi hồn nhiêm đến độ thơ ngây.
Tất cả những đặc điểm đó đã được khúc xạ trong một nền văn học dân gian
Mông rất phong phú và đậm đà bản sắc, chi phối mạnh mẽ đến giọng điệu và
cảm hứng cũng như nội dung thể hiện của thơ ca hiện đại dân tộc Mông.

1.1.2. Đặc điểm phong tục tập quán và sinh hoạt cộng đồng
Căn cứ vào đặc điểm trang phục, ngôn ngữ và ý thức tự nhận của đồng
bào, có thể chia người Mông thành 5 ngành: Mông trắng (Mông Đơư), Mông
hoa (Mông lềnh), Mông đỏ (Mông si), Mông đen (mông đu) và Mông xanh
(Mông sua). Tuy nhiên, một số ý kiến của các nhà nghiên cứu lại cho rằng
người Mông về đại thể chỉ được chia thành 4 nhóm chính: Mông Đơ (tức
Mông trắng), Mông Lềnh (còn gọi là Mông sí tức Mông hoa), Mông Đu (tức
Mông đen có nơi còn gọi là Mông đỏ), Mông Sán (tức Mông Hán - có nơi gọi
là Mông xanh). Cách phân nhóm này chủ yếu dựa vào sắc phục của người phụ
nữ và sự khác nhau ít nhiều về âm điệu, thổ ngữ [57], [3].
Do liên tục có các cuộc di cư và đại thiên di xuyên quốc gia nên lịch sử
của dân tộc mông là lịch sử du canh du cư. Khi thiên di vào Việt Nam, có thể
do bản năng tồn tại và do đến muộn, người Mông phải dạt lên các miền núi

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
18
cao, hiểm trở và sống tách biệt với các dân tộc khác. Theo nghiên cứu của
Tiến sĩ Trần Hữu Sơn, khi khảo sát địa bàn cư trú của dân tộc Mông ở Lao
Cai (năm 1989), trong tổng số 171 xã và thị trấn, có 111 xã có người Mông cư
trú. Trong số đó, 34 xã người Mông chiếm 100% dân số; 22 xã người Mông
chiếm 51% trở lên. Trong số 523 làng người Mông, có đến 457 số làng có
100% là người Mông, chỉ có 66 làng người Mông sống xen kẽ với các dân tộc
khác [ 57; 17]. Sở dĩ có hiện tượng này là vì, theo chúng tôi, người Mông rất
coi trọng tín nghĩa và tình cảm cộng đồng, dòng tộc. (Người Mông có câu cửa
miệng là “người Mông ta” (pêz HMôngz) hay cách nói “ta cùng một giống
lanh với nhau”). Mặt khác, do sự ám ảnh của quá khứ và một tâm lí luôn cảm
thấy tự ti vì bị kém cỏi so với dân tộc khác. Cuộc sống khép kín ít giao lưu
vừa là hạn chế, lại vừa là sự bảo lưu tốt nhất nền văn hoá truyền thống của
dân tộc Mông.
Môi trường canh tác chủ yếu của người Mông là nương rẫy, công cụ làm

rẫy truyền thống của người Mông là dao, búa, cuốc… phù hợp và thuận tiện
cho việc phát nương, tra hạt. Thông thường, nương của người Mông hướng về
phía có ánh mặt trời, khi đốt nương bao giờ cũng đốt từ thấp lên cao, lợi dụng
sức gió và đi lại thuận tiện. Mặc dù truyền thống canh tác lúa nước đã bị hạn
chế rất nhiều do cuộc sống du canh du cư theo các cuộc thiên di, người Mông
vẫn thường tìm đến những thung lũng có nguồn nước để làm ruộng bậc thang
cấy lúa. Ngoài ra, người Mông còn có truyền thống làm nghề thủ công khá
sớm và tương đối phát triển, nhất là nghề rèn (rèn súng săn, dao búa…). Mặt
khác, do sống ở núi cao nên người Mông rất thành thạo trong việc săn bắn,
hái lượm.
Cũng như các dân tộc khác, người Mông rất coi trọng mối quan hệ gia
đình. Đồng bào Mông gọi gia đình là “chúa dỉ” (chuôiz div). Gia đình tồn tại
phổ biến dưới các hình thức hai và ba thế hệ. Trong gia đình người Mông,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
19
nam giới được coi trọng và đảm nhiệm các việc lớn như thờ cúng tổ tiên,
tham gia các công việc của cộng đồng. Họ chỉ được coi là đã trưởng thành khi
có con đầu lòng và được làm lễ đặt tên đệm mới. Phụ nữ Mông là người phải
chịu nhiều thiệt thòi hơn cả. Trước đây, những người phụ nữ đi làm dâu, nếu
chồng chết phải lấy em trai chồng, bằng không họ sẽ bị tước đoạt toàn bộ của
cải, có khi cả con cái. Có lẽ chính vì phải chịu đựng nhiều tệ nạn như tảo hôn,
cưỡng hôn, cả cuộc đời bị trói buộc cả thể xác lẫn tâm hồn, hiện tại đau khổ,
ai oán, tương lai tối tăm mờ mịt… mà trong những bài ca than thân của kho
tàng dân ca Mông có cả một mảng đề tài: Tiếng hát làm dâu (gầu ua nhéng).
Đó là tiếng kêu than, là nước mắt đau thương của người phụ nữ bị đoạ đầy
trong đau khổ. Và đây đó, còn là ý thức, phản kháng hoặc lòng phẫn nộ le lói
trong những cảnh đời bị hắt hủi, tủi nhục:
Năm nay em đi làm dâu
Em làm chín thời mười giờ

Chẳng có lúc nào nghỉ
Trâu măng cày, dây khiếu không biết ải
Em đi làm dâu không có mùa nghỉ, chỉ có mùa làm
(Dân ca Mông)
Tuy nhiên, trong gia đình người Mông, quan hệ vợ chồng luôn được đề
cao. Người chồng bao giờ cũng được người vợ chăm sóc chu đáo từ sinh hoạt
trong nhà đến các buổi đi nương, đi chợ. Chúng ta đã quá quen thuộc với hình
ảnh các phiên chợ vùng cao, trên muôn nẻo đường núi tới chợ, người chồng
ngồi thong dong trên lưng ngựa trong khi người vợ cầm đuôi ngựa vượt dốc;
hay hình ảnh những người vợ kiên tâm cầm ô che cho chồng ngủ ngay bên vệ
đường cho vãn cơn say. Đó chính là những biểu hiện nét đẹp về đạo đức và
phẩm hạnh của người phụ nữ Mông, góp phần tạo ra mối chung thuỷ đặc biệt
của vợ chồng người Mông từ xưa đến nay.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
20
Ngoài ra, gia đình người Mông còn là một môi trường để gìn giữ và phát
triển văn hoá. Các em bé gái được mẹ, được chị dạy cho thêu thùa từ rất sớm.
Lớn lên, biết xe lanh, dệt vải, biết in váy, thêu hoa… Các em trai làm quen
với súng săn, bắn nỏ, cưỡi ngựa và cả thổi khèn, thổi sáo… nên họ sớm có đủ
năng lực và kinh nghiệm để đảm nhiệm cuộc sống gia đình từ rất sớm.
Trong các phong tục tập quán của người Mông thì cuới xin và tang ma
để lại những dấu ấn bản sắc mang tính truyền thống của người Mông nhiều
hơn cả. Đám cưới của người Mông thường được tổ chức vào mùa xuân hay
cuối đông vì đồng bào kiêng những tháng có sấm chớp. Hôn nhân của người
Mông cũng tuân theo các bước lễ nghi như dạm hỏi, ăn hỏi (hẹn cưới) và lễ
đón dâu. Lễ dạm hỏi bắt buộc phải có hai ông mối thông thạo các bài hát nghi
lễ cưới xin, giúp nhà trai sang nhà gái làm các thủ tục dạm hỏi, hẹn ngày đón
dâu. Đám cưới của người Mông bao giờ cũng phải có phù rể. Phù rể sẽ cùng
chú rể quỳ lạy tổ tiên nhà gái trước khi đi rước dâu. Sau khi hoàn tất các thủ

tục, cô dâu được hai người anh em trong gia đình dắt tay ra cửa trao cho
người đón dâu. Đám đón dâu đi lẻ về chẵn, theo phong tục người nhà gái
không đưa dâu đến nhà trai. Quãng đường đón dâu về dù ngắn hay dài cũng
nhất thiết phải nghỉ giữa chừng, ăn cơm nắm do nhà gái đã chuẩn bị sẵn. Cô
dâu về tới trước cửa nhà trai còn phải một nghi lễ nhập ma nhà chồng mới
được vào cửa. Trước đây, người Mông rất phổ biến phong tục “bắt vợ”. Khi
chàng trai ưng một cô gái nào đó thì tổ chức đón đường, “bắt” cô gái về làm
vợ mình. Cô gái bị “bắt” về được nhà trai “dùng gà trống đánh dấu nhập nhà”
buộc phải lấy chàng trai cho dù có đồng ý hay không. Trong xã hội cũ, tục
“bắt vợ” diễn ra thường là do những gia đình nhà trai có quyền thế ép buộc
các cô gái về làm vợ. Khi các cuộc cưỡng hôn này tan vỡ thì thường người
con gái chỉ còn biết đến cái chết. Bởi lẽ, sau khi đã bị “nhập ma” nhà trai, cô
gái có tự ý bỏ về thì bố mẹ cô cũng không thừa nhận nữa. Ngày nay, ở một số

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
21
nơi vẫn còn tồn tại phong tục này nhưng đã khác hẳn về tính chất, thường là
do có sự thoả thuận từ hai phía chàng trai và cô gái, để đặt gia đình hai bên
vào một “sự đã rồi”. Hoặc giả, lễ cưới đã được hai bên gia đình chuẩn bị, còn
việc “bắt vợ” chỉ là hình thức để tăng thêm phần thi vị cho đôi lứa mà thôi.
Suy cho cùng, tục “bắt vợ” của người Mông khi gạt bỏ những hủ tục, lại
khẳng định cho tình yêu mãnh liệt và niềm khát khao hạnh phúc, khao khát
hôn nhân tự do đã bị chế ngự và kìm hãm từ bao đời.
Tang lễ của người Mông là một hiện tượng văn hoá đặc sắc phản ánh
những quan niệm về lịch sử xã hội và cộng đồng dân tộc. Tang lễ của người
Mông là một lễ lớn được tổ chức rất chu đáo. Không giống với các dân tộc
khác, người Mông thường tổ chức hai đám tang: đám ma tươi khi người vừa
mới mất và đám ma khô không quy định chặt chẽ về thời gian tổ chức, có thể
tiến hành bất cứ lúc nào khi gia chủ có điều kiện.
Tang lễ của người Mông được diễn ra như sau: Khi có người qua đời, gia

đình sẽ bắn ba phát súng chỉ thiên để báo hiệu. Sau khi phát tang sẽ tiến hành
các nghi lễ. Trước tiên là lễ chỉ đường để người chết tìm đến với tổ tiên gọi là
lễ “khúa kê” (kruôz cê). Ông thầy cho kê một tấm phản gỗ dọc gian giữa và
đặt người chết nằm ngửa trên đó, chân hướng ra ngoài cửa, đầu hướng vào
trong nhà. Sau đó, gia đình chuẩn bị một con dao thường dùng, một cây nỏ
thường dùng, dao được tra vào bao treo ở đầu đòn cây nỏ. Tiếp theo, gia đình
chặt một cây trúc đem về cho thầy làm bút chỉ đường kèm theo một chai rượu,
một cái chén để đưa linh hồn người chết trở về nơi âm phủ và lên thiên
đường. Ông thầy cúng vừa dùng bút chỉ đường (cxinhx ntơưs) nhằm giao tiếp
với người chết, vừa đọc bài “khúa kê” để hướng dẫn hồn người chết tìm về
với tổ tiên. Ông thầy cầm lấy tay phải của người chết giả vờ kéo và gọi dậy ba
lần rồi mới đi vào bài ca chính:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
22
Mình chết thật hay mình chết giả
Mình chết thật mình quay mặt lại đây
Lắng tai nghe thầy hát ba mươi sáu bài thần, ma
Chỉ đường chỉ lối cho mình biết đường về cùng tổ tiên.
Bài tang ca (kruôz kê) là bài ca duy nhất được sử dụng trong lễ tang nhằm
dẫn lối chỉ đường cho linh hồn người chết đi từ cõi dương về với cõi âm. Nó
được quy định hết sức nghiêm ngặt về việc truyền dạy và sử dụng: Không được
hát bài “khúa kê” trong nhà khi không có người chết; không hát “khúa kê” khi
đi ngang qua các làng bản và khu vực đông dân cư; khi ông thầy đọc “khúa kê”
trong lễ tang thì tất cả những người có mặt ở đó không được ngủ để tránh hồn
của người sống đi theo hồn của người chết sang cõi âm [15].
Người Mông quan niệm phải đến khi làm lễ ma khô, người chết mới
được rửa sạch hết tội lỗi và hồn mới được siêu thoát để đi đầu thai kiếp khác.
Các sinh hoạt cộng đồng khác của người Mông bao gồm sinh hoạt, giao
lưu trong những phiên chợ, những dịp tết, lễ hội. Đặc biệt là những lễ hội

mang đậm bản sắc văn hoá tinh thần của người Mông như lễ hội “Gầu tào”
(gruôv taox), được tổ chức hàng năm. Một ngày lễ lớn của người Mông là Tết
Nguyên đán. Ngày tết, ngoài việc thờ cúng tổ tiên, đi thăm hỏi nhau, người
Mông còn tổ chức nhiều hội vui xuân như hát dân ca, đánh quay, đánh yến …
Sinh hoạt mang sắc thái miền núi nhất của người Mông là “văn hoá
chợ”. Do điều kiện sống khắt khe cho nên chợ vừa là nơi giao lưu mua bán,
giao lưu tình cảm, vừa là nơi để trao đổi kinh nghiệm sản xuất, xây dựng cuộc
sống. Người già đến chợ để gặp gỡ thăm hỏi lẫn nhau, chuyện trò rôm rả bên
nồi “thắng cố”, trong men say ngây ngất của bát rượu ngô; trai gái đến chợ là
làm quen, tìm hiểu, tính chuyện tương lai. Những chiếc ô xoè màu sắc rực rỡ
che má hồng và đôi mắt lúng liếng của cô gái Mông. Những điệu múa khèn
nghiêng ngả đất trời, thăng hoa trong men rượu của chàng trai. Và cả những

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
23
tiếng kèn lá, đàn môi vừa rụt rè e ấp, vừa sôi nổi mãnh liệt đã tạo nên một
khung cảnh nên thơ trữ tình đặc trưng của miền núi. Mỗi tuần một phiên chợ
như để xoá đi những lo toan, vất vả của cuộc sống thường nhật, để tâm hồn
mỗi người Mông nở hoa. Từ trước đến nay, nhiều nhà nghiên cúu văn hoá hay
nhắc đến và hết sức quan tâm tới là “chợ tình”. Ở Mèo Vạc (Hà Giang) và Sa
Pa (Lào Cai) đều có chợ tình. Mỗi năm chợ họp một lần vào một ngày nhất
định. Chợ tình là nơi để cho những cặp, những đôi trai gái lỡ duyên tìm về với
nha, tự do tình tự với nhau một đêm để rồi hôm sau mỗi người lại trở về với
cuộc sống hiện tại của mình, những cuộc sống thường trực sự đau khổ và bất
hạnh. Chợ tình đã tồn tại rất lâu với tính nhân văn cao cả của nó trong ký ức
của những người già. Tuy nhiên, hiện nay, bản sắc văn hoá của chợ tình đã mai
một rất nhiều. Đến độ, hàng năm vào ngày 27 tháng 3 âm lịch, chợ tình Khau
Vai (Mèo Vạc - Hà Giang) đã trở thành nơi du lịch của rất nhiều những vị
khách hiếu kì, ta có, tây có, đổ xô đến để mong được tận mắt chứng kiến những
cuộc tình lâm li ai oán, mà phần nhiều chỉ còn diễn ra trong tưởng tượng. Dẫu

sao thì sự xuất hiện “chợ tình” cũng phần nào nói lên được đời sống tinh thần
phong phú độc đáo và giàu bản sắc của dân tộc Mông. Đó là sự biểu hiện của
một hình thức sinh hoạt tinh thần độc đáo và đầy tính nhân văn nhân bản.
“Hội chợ núi mùa xuân” tiếng Mông gọi là hội “Gầu tào” (gruôv taox) là
một lễ hội tiêu biểu nhất của người Mông. Với mục đích cầu mong được mùa
“người yên, vật thịnh”. Hội được một gia đình tổ chức và thông tin để bà con
khắp nơi biết vè dự, thường diễn ra sau tết khoảng vài ngày. Hội được tổ chức
trên một khu đất tương đối rộng rãi, bằng phẳng. Hội “Gầu tào” gồm 2 phần
chính: Phần lễ và phần hội. Ở phần lễ trước đó chủ nhà đã trồng sẵn một cây
nêu (một cây mai để cả lá trên ngọn). Trên ngọn cây treo một mảnh vải đỏ.
Sau khi cúng tổ tiên ở nhà, gia chủ đặt dưới gốc nêu một mâm cúng, cầu khẩn
các lực lượng siêu nhiên phù hộ cho họ có con trai, làm ăn khấm khá. Tiếp

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
24
đến là bắt đầu phần hội. Nhiều trò chơi bổ ích và lý thú như đấu võ, đua ngựa,
bắn súng kíp, bắn nỏ, đánh yến, chọi gà, múa khèn, thổi sáo và thi hát đối đáp.
Đây là dịp để các chàng trai, cô gái thi nhau trổ tài. Những người thắng cuộc
bao giờ cũng được phần thưởng (một bầu rượu, một cây sáo, một chiếc đàn
môi…). Đám hát “gầu plềnh” (hát đối đáp) thu hút đông đảo nam nữ thanh
niên. Qua đó cũng là dịp để những lứa đôi gặp gỡ, tâm sự và tìm thấy hạnh
phúc của mình. Hết thời gian mở hội, cây nêu được gia chủ đem về làm giát
gường để mong sớm có con; mảnh vải đỏ được gia chủ đem về treo trong nhà
để cầu hồng phúc.
Nhìn chung, “Gầu tào” là một lễ hội lớn, một sinh hoạt văn hoá dân gian
đặc sắc, hấp dẫn và hết sức lành mạnh. Có thể nói phong tục tập quán là một
phần cuộc sống của mỗi cộng đồng. Nó tạo nên sự phong phú và góp phần qui
định diện mạo, tích cách và tâm hồn mỗi dân tộc. Phong tục tập quán của người
Mông mang đạm bản sắc riêng, được hình thành một phần do điều kiện sống ở
những miền núi cao, hẻo lánh và hoang dã. Nó góp phần khắc hoạ một dấu ấn

riêng không thể trộn lẫn trên gương mặt của cộng đồng người Mông. Vừa bất
tử khi vượt qua cả không gian và thời gian để trường tồn trong kho tàng văn
học dân gian phong phú, vừa là niềm cảm hứng sáng tạo cho những tác giả cả
người Mông và các dân tộc khác trong những sáng tác thơ văn hiện đại.
1.1.3. Đặc điểm về đời sống tâm linh
Môi trường sống trên núi cao đã tạo cho người Mông một tâm hồn phóng
khoáng, ưa tự do, không cam chịu bất cứ một sự trói buộc nào. Mọi sự việc
diễn ra trong cuộc sống với người Mông đều là đơn giản. Người Mông xem
xét, đánh giá con người chỉ cột ở việc làm cụ thể chứ không cốt ở lời nói. Tư
duy của người Mông thiên về lối tư duy trực giác. đặc điểm nổi bật ở người
Mông là niềm tin và lòng tự trọng.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên
25
Người Mông quan niệm “vạn vật hữu linh”. Tất cả sự vật hiện tượng
trong cuộc sống đều có linh hồn. Con người cũng có phần xác và phần hồn.
Vì thế mới có tục cúng ma tươi và ma khô, tức là để người chết gột rửa sạch
tội lỗi, hoá kiếp để đầu thai làm kiếp khác. Sống trên trần thế, với người
Mông cũng chỉ là sống tạm nên hết sức thanh thản. Điều đó lí giải tại sao khi
cuộc sống không được toại nguyện hoặc khi bất lực trước thiên nhiên, người
Mông dễ tự tử để hy vọng vào kiếp khác. Nhất là những đôi trai gái yêu nhau
không lấy được nhau, ăn lá ngón tự tử và hứa sẽ “cầm ô đứng đợi nhau trên
cổng nhà trời”.
Theo ý niệm của người Mông, thế giới này thuộc về các thần linh cai
quản, gồm có 3 tầng: Tầng trời, tầng giữa (trần gian) và tầng dưới lòng đất
(địa ngục). Vị thần vĩ đại nhất của muôn loài là trời. Tầng trời là nơi cư trú
của Ngọc Hoàng và các thần như thần Sấm, thần Sét, thần Mưa … và còn là
nơi sinh sống của các ma tổ tiên. Tầng giữa - trần gian (ntiêx têz) là nơi cư trú
và sinh sống của con người muông thú, cây cỏ … tầng dưới cùng là địa ngục,
còn gọi là “đáy trần gian” (kangz ntiêx têz) chỉ là một nơi tối om, nằm sâu

trong lòng đất. Người Mông luôn tin rằng, khi con người chết đi, hồn ma
được đoàn tụ với tổ tiên. Hồn con người tồn tại vĩnh viễn nên chết chỉ là một
sự hoá kiếp.
Trong trí tưởng tượng của người Mông, có nhiều loại thần linh và ma
khác nhau. Trong thế giới âm, các loại ma quỉ, thần thánh được chia làm 2
loại: Ma lành và ma dữ. Ma lành bảo vệ cho cuộc sống của con người nên
phải được tôn trọng, quan tâm tới việc cúng bái một cách chu đáo, đúng kỳ
hạn; ma dữ là ma chuyên làm hại người và gia súc, mùa màng. Nếu được
cúng bái kịp thời ma dữ cũng sẽ giảm bớt đi sự hung dữ.
Tục thờ cúng tổ tiên của người Mông cũng có phần khác với người Kinh
hay các dân tộc khác. Tuỳ từng dòng họ mà trong nhà có hoặc không có bàn

×