Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Báo cáo tốt nghiệp: Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại NH ĐT & PT chi nhánh Quang Trung pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (573.85 KB, 64 trang )


1






BÁO CÁO TỐT NGHIỆP

Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại
NH ĐT & PT chi nhánh Quang Trung

2
MỤC LỤC

Danh mục các chữ viêt tắt: - Ngân hàng nhà nước: Ngân hàng nhà nước.
- Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam: NH ĐT &
PT VN
- Ngân hàng trung ương : NHTW
- Ngân hàng thương mại: NHTM.
- Ngân hàng: NH
- Thị trường chứng khoán : TTCK.
- Tiền gửi thanh toán : TGTT.
- Tiền gửi có kì hạn: TGCKH.

Mở đầu. 1
Chương1 LÍ LUẬN CHUNG VỀ HUY ĐỘNG VỐN VÀ HIỆU QUẢ HUY
ĐỘNG VỐN CỦA NHTM 3
1.1 HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ( NHTM ). 3
1.1.1 Sơ lược về NHTM: 3


1.1.2 Khái niệm về huy động vốn của NHTM 7
1.1.3 Nguồn hình thành nên nguồn vốn của NHTM 8
1.2. CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM……………………….18
1.3. SỰ CẦN THIẾT CỦA HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN ĐỐI VỚI
NHTM 21
1.4. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG
VỐN 24
1.4.1. Nhân tố khách quan. 24
1.4.2. Nhân tố chủ quan. 26
1.5. HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VÔN. 29
1.5.1. Quan niệm về hiệu quả huy động vốn của các NHTM. 29
1.5.2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động huy động vốn của NHTM. 30
Chương 2. THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ
VÀ PHÁT TRIỂN CHI NHÁNH QUANG TRUNG 32
2.1. TỔNG QUAN VỀ NH ĐT & PT CHI NHÁNH QUANG TRUNG 33


3
2.1.1. Cơ sở pháp lí của việc thành lập NH ĐT & PT chi nhánh Quang
Trung 33
2.1.2. Mô hình tổ chức. 35
2.2. THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN 36
2.2.1. Kết quả thực hiện kế hoạch huy động vốn năm 2005 tại chi nhánh Quang
Trung. 36
2.2.2. Kết quả thực hiện kế hoạch huy động vốn năm 2006 tại chi nhánh Quang
Trung. 39
2.2.3. Kết quả thực hiện kế hoạch huy động vốn năm 2007 tại chi nhánh Quang
Trung. 42
2.3. ĐÁNH GIÁ NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC. 45
2.4. HẠN CHẾ VÀ NGUYÊN NHÂN. 48

2.4.1. Hạn chế. 50
Chương 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HUY ĐỘNG VỐN TẠI
NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN CHI NHÁNH QUANG TRUNG.51
3.1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN TẠI CHI NHÁNH QUANG TRUNG 51
3.1.1. Định hướng phát triển chung. 52
3.2. ĐỊNH HƯỚNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN 53
3.3. GIẢI PHÁP ĐỀ RA. 54
3.4. CÁC KIẾN NGHỊ. 58
3.4.1. Các kiến nghị đối với Nhà nước 58
3.4.2. Các kiến nghị đối với NH Nhà nước. 60
KẾT LUẬN 61






4

LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động của NHTM gắn liền với các cơ chế, chính sách trong nền kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa như nước ta hiện nay
NHTM đóng vai trò vô cùng quan trọng, vừa thể hiện vai trò trung gian trong quá
trình luân chuyển vốn vừa là nhà đầu tư, vừa là đòn bẩy thúc đẩy nền kinh tế xã hội,
đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Chiến lược phát triển
kinh tế của Đảng và Nhà nươc ta trong thời gian tới đó là: “Tiếp tục đổi mới và lành
mạnh hoá hệ thống tài chính tiền tệ, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội“.
Các NHTM ngày càng đa dạng hoá các hoạt động nhằm đáp ứng tối đa nhu
cầu của thị trường, tuy nhiên hoạt động truyền thống và quan trọng nhất đối với mỗi
NHTM là hoạt động huy động vốn. Đây là hoạt động ảnh hưởng trực tiếp tới tất cả

các hoạt động còn lại, và có vai trò quyết định đến kết quả kinh doanh của mỗi NH.
Trong bài viết này em xin đề cập tới công tác huy động vốn và hiệu quả huy
động vốn tại NH ĐT & PT chi nhánh Quang Trung. Trong thời gian thực tâp tại chi
nhánh Quang Trung em nhận thấy công tác huy động vốn của chi nhánh đóng một
vai trò quan trọng trong hệ thống NH ĐT & PT, và có vai trò quan trọng trong việc
thúc đây sự phát triển về kinh tế cho thủ đô. Vì lí do đó mà em xin đề cập đến Giải
pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại NH ĐT & PT chi nhánh Quang Trung
trong chuyên đề của mình.
Bài viết của em gồm ba chương:
Chương 1. Lí luận chung về huy động vốn và hiệu quả huy động vốn của
NHTM.
Chương 2. Thực trạng hiệu quả huy động vốn tại chi nhánh Quang Trung.
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả huy động vốn tại chi nhánh Quang
Trung.


5
Chương 1. LÍ LUẬN CHUNG VỀ HUY ĐỘNG VỐN VÀ HIỆU QUẢ HUY
ĐÔNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
1.1. HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ( NHTM).
1.1.1. Sơ lược về NHTM:
Ngân hàng ( NH ) là một trong những tổ chức tài chính quan trọng bậc nhất
trong nền kinh tế. NH là tổ chức thu hút tiền tiết kiệm lớn nhất trong nền kinh tế.
NH dóng vai trò là người thủ quỹ cho toàn xã hội. Thu nhập từ NH là nguồn thu
nhập không phải là nhỏ đối với nhiều hộ gia đình. NH là tổ chức cho vay chủ yếu
đối với các tổ chức kinh tế, các cá nhân và cả nhà nước. Bên cạnh đó NH còn đóng
một vai trò quan trọng trong nền kinh tế, đó là thông qua việc điều chỉnh hoạt động
của NH mà Chính phủ thực hiện được các chính sách tài chính tiền tệ, nhằm bình ổn
nền kinh tế hay điều tiết lượng tiền lưu thông. Nếu tiếp cận theo những dịch vụ mà
NH cung cấp, thì NH là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ

tài chính đa dạng nhất- đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, thanh toán và thực hiện nhiếu
chức năng tài chính nhất so với bất cứ tổ chức nào trong nền kinh tế. Trong điều
kiện nền kinh tế toàn cầu phát triển mạnh mẽ như hiện nay đã kéo theo sự phát triển
như vũ bão của hệ thống NH, cả về quy mô và chất lượng. Tuỳ theo sự phát triển
của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng mà kết cấu của hệ thống
NH khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết tất cả các nước thì NHTM thường chiếm tỉ trọng
lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các NH. Cùng với sự phát triển của
nền kinh tế và công nghệ, hoạt động của NH đã có những bước tiến rất nhanh.
Trước hết đó là sự đa dạng các loại hình NH và các hoạt động NH. Từ các NH tư
nhân, quá trình tích tụ và tập trung vốn trong NH đã dẫn đến hình thành NH cổ
phần. Quá trình gia tăng vai trò quản lí của Nhà nước đối với hoạt động NH đã tạo
ra các NH thuộc sở hữu Nhà nước, các NH liên doanh, các tập đoàn NH phát triển
mạnh trong những năm cuối thế kỉ 20. Nhiều nghiệp vụ mới được ra đời và phát
triển song song với các nghiệp vụ truyền thống của NH. NHTM từ chỗ chỉ cho vay
ngắn hạn là chủ yếu dã mở rộng cho vay trung và dài hạn, cho vay đầu tư vào bất
động sản. Nhiều NH mở rộng cho vay tiêu dung, kinh doanh chứng khoán và cho

6
thuê…Bên cạnh đó các hình thức huy động cũng ngày càng phong phú hơn. Các
loại hình tiền gửi khác nhau được đưa ra nhằm đáp ứng nhu cầu khác nhau của
khách hàng. Bên cạnh các hình thức huy động tiền gửi, các NH còn mở rộng các
hình thức cho vay như vay NHTW, vay các tổ chức tín dụng khác. Công nghệ khoa
học hiện đại đang ngày càng tạo nên bộ mặt mới lạ: hiện đại và chuyên nghiệp cho
hệ thống NH. Thanh toán điển tử đang thay thế dần thanh toán thủ công, đảm bảo
khả năng đáp ứng về thời gian cũng như độ an toàn ngày càng cao. Các loại thể
đang thay thế dần tiền giấy, NH 24 giờ hay NH phục vụ tại nhà đang ngày càng tạo
lợi ích cho công chúng cũng như đa dạng hoá hoạt động của NH nhằm tăng doanh
thu và lợi nhuận cho NH.
Các hoạt động cơ bản của một NHTM bao gồm:
 Mua bán ngoại tệ: NH sẽ là người đứng ra mua bán một loại tiền này và lấy

một loại tiền khác để hưởng phí dịch vụ.
 Nhận tiền gửi: Các NH luôn cố gắng huy động được một lượng tiền gửi lớn
vì cho vay luôn là một hoạt động sinh lời cao. Lượng tiền huy động được lớn thì sẽ
đa dạng hoá được loại hình cho vay. NH nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền
với cam kết hoàn trả đúng hạn. Song song với quá trình chạy đua huy động tiền gửi
giữa các NH là quá trình chạy đua lãi suất. Bởi lãi suất chính là khoản mà NH dành
trả cho khách hàng về việc khách hàng đã hi sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt để
nhường lại quyền sự dụng số tiền của mình vào việc kinh doanh.
 Cho vay: Gồm có cho vay thương mại, cho vay tiêu dùng và tài trợ cho dự
án. Trong đó cho vay thương mại là một hoạt động truyền thống trong các NH và
thường chiếm tỉ trọng lớn trong các khoản cho vay. Trong giai đoạn đầu hầu hết các
NH ít cho vay tiêu dùng vì họ nghĩ rằng rủi ro vỡ nợ cao. Sự gia tăng thu nhập của
người tiêu dùng và sự cạnh tranh gay gắt giữa các tổ chức tín dụng đã buộc các NH
phải hướng tới người tiêu dùng như một khách hàng tiềm năng. Bên cạnh việc cho
vay truyền thống là cho vay ngắn hạn. Các NH ngày càng trở nên năng động trong
việc tài trợ cho xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong nghành công nghệ cao. Dù

7
rủi ro trong lĩnh vực tài trợ cho dự án là tương đối cao song lãi suất lại lớn nên
nhiều NH vẫn cho vay để đầu tư vao đất.
 Bảo quản vật có giá: Các NH thực hiện lưu giữ vàng và các vật có giá khác
tại kho bảo quản. NH giữ vàng và giao cho khách hàng tờ giấy biên nhận ( giấy
chứng nhận do NH phát hành ). Do khả năng chi trả bất cứ lúc nào của giấy chứng
nhận nên giấy chứng nhận được sự dụng như tiền – dùng để thanh toán các khoản
nợ trong phạm vi của NH phát hành. Lợi ích của việc dùng giấy tờ trong trao đổi
thay cho dùng kim loại đã khuyến khích mọi người gửi vàng và vật có giá vào NH.
 Cung cấp các khoản giao dịch và thực hiện thanh toán: Thanh toán qua NH
chính là hình thức thanh toán không dùng tiền mặt. NH sẽ là trung gian của hình
thức thanh toán này, người trả tiền và người nhận tiền không cần trực tiếp gặp nhau
mà thông qua NH để trả tiền và nhận tiền.Các tiện ích của việc thanh toán không

dùng tiền mặt ( an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí ) đã góp phần
thúc đẩy sự phát triển trong thương mại và tài chính. Và cùng với sự phát triển của
công nghệ thông tin nhiều hình thức thanh toán mới đã được sự dụng một cách có
hiệu quả như: Uỷ nhiệm chi, nhờ thu, L/C, thanh toán bằng điện, thẻ…
 Quản lý ngân quỹ: các NH mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các cá
nhân và tổ chức kinh tế. Nhiều NH đã cung cấp dịch vụ ngân quỹ , trong đó NH
đồng ý quản lí việc thu chi cho tổ chức kinh tế và tiến hành đầu tư phần thẳng dư
tiền mặt tạm thời vào chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách
hàng cần tiền mặt để thanh toán.
 Tài trợ các hoạt động của Chính phủ: Với chức năng nổi trội và vai trò quan
trọng trong nền kinh tế, hệ thống NH cũng chính là một phương tiện để Chính phủ
đạt được các mục đích vi mô và vĩ mô. Trong thực tế các NH tư nhân không muốn
tài trợ cho các khoản vay của Chính phủ vì độ rủi ro cao, nên khi NH Nhà nước
thành lập Chính phủ đã luôn cố gắng can thiệp vào các khoản tín dụng lớn của các
NH. Hiện nay thì Chính phủ dành quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát các NH.
Các NH được thành lập và hoạt động khi cam kết thực hiện mức độ nào đó các

8
chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ. Các NH phải mua trái phiếu
Chính phủ theo một tỉ lệ nhất định trên tổng tiền gửi mà NH huy động được, hay
phải cho vay với điều kiện ưu đãi với các doanh nghiệp của Chính phủ.
 Bảo lãnh: Trong những năm gần đây nghiệp vụ bảo lãnh phát triển mạnh.
NH thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua hàng hoá và trang thiết bị, phát
hành chứng khoán và vay vốn của tổ chức tín dụng khác.
 Cho thuê thiết bị trung và dài hạn.
 Cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn: Dịch vụ uỷ thác phát triển sang cả uỷ
thác vay hộ, uỷ thác cho vay hộ. uỷ thác phát hành, uỷ thác đầu tư… Thậm chí các
NH còn đóng vai trò là người được uỷ thác trong di chúc, quản lí tài sản cho khách
hàng đã qua đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản tài sản có giá. Bên cạnh đó NH
còn là những chuyên gia trong việc tư vấn về đầu tư, quản lí tài chính, sáp nhập

doanh nghiệp.
 Cung cấp các dịch vụ môi giới và đầu tư chứng khoán: Trong điều kiện thị
trường chứng khoán phát triển mạnh mẽ như hiện nay, việc các NH đứng ra lập các
công ty chứng khoán là một điều dễ hiểu, nhằm đáp ứng mọi nhu cầu của khách
hàng mà không cần đến những người kinh doanh chứng khoán.
 Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm.
 Cung cấp các dịch vụ đại lí.
Như vậy cùng với những hoạt động cơ bản đó đã giúp cho việc tồn tại của NH
dường như là một phần tất yếu trong đời sống kinh tế xã hội của mỗi cá nhân hay tổ
chức kinh tế. Quá trình phát triển mạnh mẽ của thị trường tài chính mà đặc biệt là
hệ thống NH không những làm gia tăng số lượng các NH mà còn làm tăng quy mô
của mỗi NH . Quá trình đó đã tạo ra mối quan hệ ràng buộc ngày càng chặt chẽ, sự
phụ thuộc lẫn nhau ngày càng lớn giữa các NH, giữa các cá nhân, tổ chức kinh tế
trong xã hội với các NH.

9
1.1.2 Khái niệm về huy động vốn của NHTM.
Nghiệp vụ tạo nên nguồn vốn hoạt động của NH gọi là nghiệp vụ nợ.
Trong bảng cân đối tài sản của NHTM thì những khoản mục do nghiệp vụ này tạo
nên sẽ nằm bên tài sản nợ. Hàm ý chỉ đây là những khoản mà NHTM nợ nền kinh
tế.
Đây là hoạt động đầu tiên để thành lập được NH. Trong quá trình phát
triển của mình NH luôn luôn tìm cách để năng cao hiệu quả của hoạt động này, và
các nghiệp vụ của nó luôn được xen kẽ trong suốt quá trình. Bởi từ thành quả của
hoạt động này mà NH mới có điều kiện để phát triển những hoạt động khác đặc biệt
là hoạt động tín dụng. Những hoạt động khác của NH mà đặc biệt là hoạt động tín
dụng đó lại mang lại phần lớn thu nhập cho NH. Huy động các nguồn vốn khác
nhau( tài sản nợ ) trong xã hội để hoạt động là lẽ sống quan trọng nhất của NHTM.
Với sự phát triển mạnh của thị trường tài chính, đã có nhiều loại tài sẩn với lợi tức
ổn định, độ thanh khoản cao, tài sản nợ rất đa dạng làm cho việc tìm kiếm vốn hoạt

động của NHTM trở thành sự cạnh tranh khốc liệt. Bên cạnh đó vấn đề luôn đặt ra
đối với các NH đó làm thế nào để đủ vốn cho đầu tư trong môi trường cạnh tranh
đầy kịch tính. NHTM phải cạnh tranh với NH khác, với các tổ chức tài chính khác,
với các nghiệp vụ thị trường trực tiếp và với bất cứ tổ chức nào khác muốn thu hút
một lượng vốn nào đó.
Ngày nay tài sản nợ của NHTM tập trung vào các nhóm chủ yếu sau:
 Vốn pháp định hay vốn điều lệ.
 Tiền gửi không kì hạn.
 Tiền gửi có kì hạn và tiết kiệm.
 Các khoản vay trên thị trường tiền tệ.
 Các khoản vay NH khác hoặc NH Trung Ương.

10
1.1.3 Nguồn hình thành nên vốn của NHTM.
1.1.3.1 Vốn chủ sở hữu.
Điều kiện bắt buộc để NH được phép thành lập và đi vào hoạt động đó là đủ
vốn ban đầu theo luật định. Vốn pháp định là vốn đầu tư ban đầu khi thành lập NH
và được ghi trong điều lệ hoạt động của NHTM. Vốn điều lệ ít nhất phải bằng mức
vốn pháp định do NHNN công bố vào mỗi năm tài chính.Vốn pháp định được hình
thành dựa vao tính chất sở hữu của NH. Cụ thể:
 Nếu là NHTM thuộc sở hữu nhà nước, vốn pháp định do nhà nước cấp
100% vốn ban đầu.
 Nếu là NHTM cổ phần vốn pháp định là vốn góp của các cổ đông dưới hình
thức phát hành cổ phiếu.
 Nếu là NHTM liên doanh, vốn pháp định là vốn góp của các NH tham gia
liên doanh.
Vốn pháp định nhiều hay ít tuỳ thuộc vào quy mô hoạt động của mỗi NH.
Tuy nhiên trong quá trình hoạt động vốn điều lệ sẽ được bổ sung thêm từ: huy động
thêm vốn từ các cổ đông, ngân sách cấp, lợi nhuận bổ sung…Nguồn vốn này chủ
yếu dùng để mua sắm bất động sản, động sản, trang thiết bị… cho hoạt động NH

tuy nhiên với mục tiêu đa dạng hoá hoạt động cũng như cố gắng mang lại ngày càng
nhiều lợi nhuận thì lượng vốn bổ sung thêm này còn được dùng để góp vốn liên
doanh, cho vay, mua cổ phần của công ty khác. Theo quy định thì không được dùng
vốn điều lệ để chia lợi tức, lập quỹ khen thưởng. Như vậy đến khi NH hoạt động
vốn điều lệ không chỉ là một phần lượng tiền mặt tại quỹ của NH mà có thể đã nằm
dưới dạng trụ sở, văn phòng, kho bãi, xe cộ trang thiết bị, dự trữ hay kí quỹ tại
NHTW, hay đầu tư vào một lĩnh vực nào đó.
Ngoài vốn điều lệ NHTM còn các quỹ buộc phải trích lập trong quá trình hoạt
động của mỗi NH đó là quỹ dự trữ NH. Cụ thể như: quỹ phát triển kĩ thuật, quỹ
khấu hao tài sản cố định, quỹ bảo toàn vốn, quỹ phúc lợi…

11
Các quỹ dự trữ của NH được hình thành từ nguồn vốn tự có và bổ sung hàng
năm từ lợi nhuận ròng của NH. Theo quy định về việc trích lập các quỹ từ lợi
nhuận. Thông thường NHTM phải trích lập các quỹ:
 Quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ: phần trích lập mỗi năm có thể khác nhau do
hàng năm thì một số % nhất định tới mức tối đa của lợi nhuận sau thuế được bổ
sung vào quỹ. Tỉ lệ trích lập này do NHTW quy định.
 Quỹ dự phòng bù đắp rủi ro: Nhằm phòng trường hợp rủi ro có thể xẩy ra
dẫn đến hiện tượng vốn có thể bị ăn mòn và bù đắp những thiệt hại đã xẩy ra thì các
NHTM đã trích từ lợi nhuận hàng năm để lập quỹ dự phòng bù đắp rủi ro. Quỹ này
được trích theo % từ lợi nhuận hàng năm tuy nhiên theo quy định thì quỹ đạt mức
tối đa khi bằng vốn điều lệ.
Theo quy định thì hai quỹ trên bắt buộc phải trích lập tại các NH, các NH
không được dùng quỹ này để trả lợi tức cổ phần hay chuyển ra nước ngoài.
Mặt khác, với tư cách là một đơn vị kinh doanh, NH còn tiến hành trích lập
các quỹ phúc lợi từ lợi nhuận thu được: quỹ phát triển kỹ thuật nghiệp vụ NH, quỹ
phúc lợi khen thưởng, hội cổ đông hoặc theo chỉ đạo của Nhà nước.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của TTCK, ngày càng nhiều NHTM xin phép
được phát hành cổ phiếu mới để nhằm tăng nguồn huy động. Kỳ vọng vào lợi nhuận

ròng của NH mà việc phát hành cổ phiếu mới của NH thường đựoc sự ủng hộ mạnh
mẽ từ phía những cá nhân cũng như tổ chức khác trong nền kinh tế.
1.1.3.2 Nguồn nợ.
1.1.3.2.1 Tiền gửi.
 Tiền gửi thanh toán ( TGTT ): Một chức năng nổi bật và hiệu quả của
NHTM đó là chức năng trung gian thanh toán. Thông qua NH mà người bán và
người mua có thể trả tiền cho nhau nhằm hạn chế chi phí và thời gian. Tuy nhiên để
có thể sự dụng hoạt động thu hộ chi hộ của NH thì khách hàng cần NH phục vụ cần
có một khoản tiền nhất định gửi tại NH làm cơ sở đảm bảo để thực hiện các giao

12
dịch mà khách hàng yêu cầu. Lượng tiền đó gọi là tiền gửi thanh toán. Trong một
giới hạn nhất định, các nhu cầu chi trả của doanh nghiệp và cá nhân đều được NH
thực hiện. Tuy nhiên TGTT là một khoản nợ mà NH phải trả cho khách hàng gửi
tiền bất cứ lúc nào họ yêu cầu, nếu chậm trễ hoặc không đủ coi như NH vi phạm
thoả thuận và phải chịu phạt theo quy định của luật pháp. Trong quá trình hoạt động
của mình NH có thể sự dụng TGTT để cho vay, tuy nhiên cho vay phải có mức độ,
phải có dự trữ, đề phòng trường hợp rủi ro mất khả năng thanh khoản khi khách
hàng yêu cầu. Các khoản thu bằng tiền của doanh nghiệp và cá nhân có thể được
nhập vào tài khoản thanh toán nếu có yêu cầu. Vì khách hàng được sự dụng dịch vụ
thanh toán của NH với một mức phí thấp nên lãi suất đối với loại tiền gửi này thấp (
có thể bằng không ). NH mở tài khoản TGTT( tài khoản có thể phát sec ) cho khách
hàng. Hiện nay hầu hết các NH sự dụng kết hợp tài khoản TGTT và cho vay ( hoạt
động thấu chi ) vừa đáp ứng nhu cầu chi tiêu của khách hàng vừa năng cao hoạt
động tín dụng của NH. Với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt trên thị trường các NH
đã sự dụng nhiều hình thức khách nhau nhằm tăng lãi suất của loại tiền gửi này
năng cao hiệu quả huy động tiền gửi. TGTT được thể hiện ở NH trên 2 loại tài
khoản:
+ Tài khoản TGTT ( hay còn gọi là tài khoản giao dịch hoặc sec ), tài khoản
này dư có, khách hàng chỉ được sự dụng trong phạm vi tiền của mình. Tài khoản séc

hay tài khoản thanh toán hiện nay ở Việt Nam gồm có tài khoản thanh toán cho các
doanh nghiệp và tài khoản thanh toán cho các cá nhân.
+ Tài khoản vãng lai: tài khoản này có thể dư có hoặc dư nợ, nghĩa là khách
hàng ngoài việc sự dụng số tiền gửi của mình còn được dùng khoản tiền do NH cho
vay theo sự thoả thuận trước giữa NH và khách hàng.
Trong việc sử dụng TGTT khách hàng thường dùng các công cụ thanh toán
như chi trả séc, lệnh chuyển tiền…
 Tiền gửi có kì hạn của doanh nghiệp và các tổ chức dân cư ( TGCKH ):
TGCKH nhằm đáp ứng nhu cầu chi trả trong tương lai của các tổ chức, cá nhân

13
trong nền kinh tế. TGTT tuy thuận tiện nhưng lãi suất lại thấp nên nhằm đáp ứng
nhu cầu gửi tiền và tăng thu nhập của khách hàng NH đã đưa ra hình thức gửi tiền
có kì hạn. Tuy nhiên với loại tiền gửi này thì người gửi không được sự dụng các
dịch vụ thanh toán như đối với TGTT. Thông thường kì hạn TG càng dài thì lãi suất
càng cao vì NH có thể dùng TGCKH này đem đầu tư vào những dịch vụ sản suất có
tính lâu dài hơn, lợi tức cao hơn và cố định hơn. Lãi suất mà NH trả cho TGCKH
thường là cao hơn lãi suất của TGKH. Hiện nay NH Việt Nam đang áp dụng hai
loại tiền gửi đinh kì, đó là: TGCKH theo tài khoản va TGCKH dưới hình thức phát
hành kì phiếu NH.
 Tiền gửi tiết kiệm của dân cư: Hiện nay với thu nhập cao những điều kiện
sống cơ bản đã được đảm bảo thì phần lớn người dân đều có khoản thu nhập tạm
thời chưa dùng đến ( các khoản tiết kiệm ). Trong điều kiện NH trở nên quen thuộc
và gần gũi với mọi nhà và mọi người thì họ đều có thể gửi tiết kiệm với mục tiêu an
toàn và sinh lợi mà đặc biệt là mục tiêu an toàn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền
gửi tiết kiệm, các NH đều khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền
mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động , đưa ra các hình thức huy động
đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn. NH có thể đa dạng hoá về chương mục tiết
kiệm, sổ tiết kiệm mở cho mỗi người cho mỗi kì hạn và mỗi lần gửi khác nhau. Sổ
tiết kiệm nay không dùng để thanh toán tiền hàng và dịch vụ song có thể thế chấp

để vay vốn nếu được NH cho phép.
 Tiền gửi của các NH khác: Loại tiên gửi này được hình thành chủ yếu dựa
trên nhu mục đích thanh toán hộ và một số mục đích khác, đó là việc mà NHTM
này gửi tiền tại NHTM khác. Tuy nhiên loại tiền gửi này thường không lớn vì thông
thường thì các NH luôn cần một lượng vốn lớn để đầu tư để thu lại lợi nhuận.
1.1.3.2.2. Nguồn vay.
 Vay NHTW: NHTM phải cho vay tới mức mà NHTW cho phép để tối đa
hoá lợi nhuận. Tuy nhiên không phải lúc nào hoạt động của NH cũng thuận lợi, NH
nào cũng có nguy cơ phải đối mặt với tình trạng thiếu khả năng chi trả và thiếu tiền

14
mặt. NHTW là ngân hàng của các ngân hàng, là cứu tinh của các NHTM trong các
trường hợp kể trên, là nguồn cho vay sau cùng. Thông thường các NHTM và các tổ
chức tài chính khác trong nước được NHTW cho phép thành lập đều được hưởng
quyền vay tiền tại NHTW cho những tình huống thiếu hụt dữ trữ hoặc quá kẹt vốn.
Cho dù NHTW áp dụng mức lãi suất phạt và lãi suất chiết khấu cao hay thấp thế
nào đi nữa, nó vẫn phải cho các NHTM vay khi họ kẹt thanh khoản để tránh khủng
hoảng tài chính không đáng xẩy ra. Đứng về phía NHTM, vay mựơn tại NHTW là
một dịch vụ hết sức tiện lợi và hào hứng vào những khi nó hạ lãi suất chiết khấu
trong chính sách cung ứng tiền nới lỏng tăng khả năng cho vay và đầu tư. Nững lúc
ấy tiền trở nên dồi dào, NHTW thì hào phóng, rộng rãi các khoản vay của NHTM từ
đó mà lớn hơn. Trường hợp ngược lại đó là trong khi NHTW đang thực hiện chính
sách thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát, hay kìm nén sự phát triển quá mạnh của tín
dụng. Lúc đó lãi suất chiết khấu được đưa lên cao và với những khoản lỗ trông thấy
khi vay vốn của NHTW, các NHchỉ miễn cưỡng vay trong những tình huống bất
đắc dĩ và luôn cố gắng để trả nợ nhanh nhất. Những lúc ấy các khoản vay từ NHTW
chỉ chiếm một tỉ trọng nhỏ trong tổng tài sản nơ.
 Dù vay ít hay nhiều, vay thường xuyên hay không thường xuyên, dịch vụ
vay NHTW vẫn là một khoản mục hiển nhiên trong tài khoản nợ, vì khong có
NHTM nào mà không đi vay NHTW bao giờ kể từ khi thành lập. Thời gian vay

ngắn hay dài, hiệu quả của tiền vay cao hay thấp phụ thuộc vào lãi suất chiết khấu
của NHTW và mức tiền vay của NHTM.
 Đứng về phía NHTW là NH của các NH, NHTW luôn luôn là chủ nợ của hệ
thống NH. Thông qua đó mà NHTW mới dễ dàng kiểm tra, dám sát, điều khiển
NHTM. Tuy nhiên đây cũng là vấn đề dễ bị nhầm lẫn. Tiền đi vào chu trình kinh tế
bằng con đường các NHTM chuyển các hối phiếu và trái phiếu lên NHTW và bị
chiết khấu mất phần lãi suất phải trả cho khoản được vay, qua đó trở thành người nợ
của NHTW. Việc NHTW bút toán khối lượng tiền vào bên nợ trong bảng kế toán
của mình thực chất chỉ là phải ghi theo quy định của kế toán, chứ không làm thay
đổi việc phát hành tiền và cho vay có lãi của NHTW. Vị trí chủ nợ trong hệ thống

15
NH là cần thiết để NHTW có thể điều tiết mở rộng hay thắt chặt tiền tệ. Chính vì lí
do đó, các NHTM không bao giờ được phép gửi tiền có lãi tại NHTW, vì như thế
thì vị trí chủ nợ của NHTW sẽ không còn ý nghĩa nữa. Nếu các NH gửi tiền tại
NHTW, thì đó chỉ là việc dự trữ thuần tuý không có lãi.
NHTW cấp tín dụng cho NHTM qua 2 hình thức chính:
+ Tái chiết khấu ( hoặc chiết khấu ) hay còn gọi là tái cấp vốn.
+ Thế chấp hay ứng trước có đảm bảo hay không đảm bảo.
 Vay ngắn hạn dự trữ tại NHTW: Các NH vay mượn như vậy gọi là vay
mượn qua vốn trung ương để đáp ứng nhu cầu thanh khoản. Để chuẩn bị cho thanh
toán bù trừ và chuyển nhượng lẫn nhau, kể cả quy định dự trữ bắt buộc, tất cả các
NHTM phải kí gửi những khoản tiền mặt nhất định tại kho của NHTW, những
khoản tiền này không mang lại lợi nhuận gì cho NHTM. Trong quá trình hoạt động
của mình, có lúc NHTM gặp tình huống thiếu hụt dự trữ hay quá thiếu hụt tiền mặt.
Đây là điều mà bất kì NHTM nào ở bất cứ nước nào cũng dễ dàng gặp phải. Trong
khi một số NHTM thiếu dự trữ thì cũng có một số NHTM thừa dự trữ. Để đảm bảo
dự trữ theo quy định của NHTW, các NHTM liên lạc vay lẫn nhau dự trữ một ngày
là chuyện bình thường. Trong vòng thời gian ngắn sau ( có thể chỉ vài phút ) NH
thừa dự trữ trong ngày hôm đó sẽ viết séc hoặc gửi điện tín đến chi nhánh NHTW

tại địa phương, yêu cầu chuyển một phần dự trữ của NH mình sang cho dự trữ của
NH xin vay. Như vậy NH xin vay sẽ đủ dự trữ theo yêu cầu của NHTW với một
khoản tiền nợ phát sinh là khoản tiền xin vay nói trên, thể hiện vào bảng cân đối của
ngày hôm đó. Còn NH thừa dự trữ cho vay một phần dư có trên tài khoản để kiếm
tiền lãi. Việc vay qua vay lại như thế diễn ra thường xuyên trong hệ thống NHTM.
Nó hình thành một loại tài sản nợ khá thường xuyên. Tuy nhiên, khoản nợ này
thường rất ngắn, không qua một tuần, và thường chỉ là một hai ngày. Hiện nay ở
Việt Nam chưa phát triển khoản vay ngắn hạn dự trữ tại NHTW. Nhưng bên cạnh
đó ở Việt Nam còn có vốn tiếp nhận, là vốn mà NHTM uỷ thác từ các tổ chức trong
hoặc ngoài nước, từ ngân sách nhà nước để cho vay trung và dài hạn thuộc kế hoạch

16
xây dựng tập trung của Nhà nước, để thực hiện chương trình và dự án có mục tiêu
trước trong sản xuất kinh doanh, cải tạo môi trường, môi sinh.
 Vay trên thị trường tiền tệ: Các nước phát triển quan niệm thị trường tiền tệ
( TTTT ) bao gồm thị trường mua bán các chứng từ có giá ngắn hạn, thị trường liên
NH, thị trường hối đoái. TTTT có vai trò quan trọng trong suốt quá trình tồn tại và
phát triển của mỗi NH thông qua việc điều hoà nguồn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu.
Bên cạnh việc TTTT góp phần sự dụng có hiệu quả các nguồn vốn đã có tại NH,
làm cho nguồn vốn vừa đa dạng, phong phú vừa linh động. Thì TTTT còn có vai trò
chức năng vô cùng quan trọng đó là hoà trộn, lưu thông, khơi luồng các dòng chảy
cho tất cả các nguồn vốn vào mạng lưới đầu tư phát triển nền kinh tế đất nước.
TTTT vừa giúp cho NHTM tìm được nguồn vốn, vừa giúp NHTM nào khi dư thanh
khoản có được cơ hội đầu tư sinh lợi hay nói cách khác đó là không để vốn chết tại
NH. Thông qua việc mua bán các trái phiếu ngắn hạn trên TTTT mà những người
cho vay và những người đi vay gặp được nhau. Như vậy mặt hàng trao đổi trên thị
trường này là tiền hoặc các chứng từ có giá trị như tiền. Nhưng trên TTTT, tiền hay
các chứng từ có giá trị như tiền là các chứng từ tài chính đại diện cho một lượng
tiền mà một cá nhân ( hay doanh nghiệp ) nợ người khác. “ Chứng từ có giá như
tiền ” được quan niệm là những tài sản thực hiện chức năng cất giữ hơn là phương

tiện trao đổi. Và với đặc trưng đó mà các “ chứng chỉ có giá như tiền ” khi gửi trong
NH thì hưởng lãi cao hơn là một phương tiện trao đổi tuy nhiên muốn chi tiêu thì
cần đổi chúng ra tiền mặt Về bản chất các loại tiền ( tiền của NHTW, của
NHTM…) là những hình thức giấy nợ, mà người cầm nó là những người cho vay đã
gửi tiền vào NHTM, hoặc cung cấp cho nền kinh tế một sản phẩm hay một dịch vụ (
trong trường hợp tiền lương tiền bán dịch vụ ) Người vay nợ hay những người nhận
dịch vụ là những tác nhân phát sinh ra giấy nợ. Xã hội và nền kinh tế vận hành cùng
việc trao đổi, chuyển dịch sở hữu hàng hoá, chất xám lao động…thông qua các
phương tiện trung gian là những loại hình giấy nợ này. Sự đa dạng của loại hình
giấy nợ theo tiến trình phát triển của nền kinh tế hình thành nên một hệ thống tiền
tệ: hoặc là phiếu nợ của chính phủ ( nếu là tiền mặt ) hoặc là phiếu nợ của NHTM,

17
các tổ chức tín dụng khác. Các loại tiền là phiếu nợ luôn vận động không ngừng
trong quá trình biến động không ngừng của nền kinh tế và nằm một trong ba trạng
thái: 1, vay và cho vay; 2, nhận và trả; 3, cất giữ. Người ta gọi tiền là phương tiện
thanh toán bởi dù ở trạng thái nào trong ba trạng thái trên thì tiền cũng là giấy nợ
phải thanh toán đúng ngày khác nhau chỉ ở chỗ hiện nay và tương lai. Cuộc sống
của con người và nền kinh tế có thể xem là một chuỗi xoay vòng quanh các loại nợ.
Chuỗi xoay vòng đó thông qua việc phiếu nợ được chuyển qua tay các tác nhân
trong nền kinh tế tạo nên các hoạt động kinh tế khác nhau và mang lại sự đa dạng
cho nền kinh tế. Xét về tính chất, tiền mặt hay tiền do NHTW phát ra là một loại
hình giấy nợ hay trái phiếu. Nếu bạn có nó trong tay có nghĩa là Chính phủ đang nợ
bạn một khoản tiền. Trong trường hợp là tín phiếu kho bạc, chính phủ nợ người sở
hữu tín phiếu một khoản tương đương với giá trị được ghi trên tín phiếu. Đối với
trường hợp bạn có trong tay một lượng tiền mặt thì tiền của chính phủ chính là tiền
mặt. Những giấy nợ này được pháp luật quy định rằng nó có thể dùng để cất giữ,
trao đổi thành các loại hàng hoá khác như gạo, ôtô…Còn trong trường hợp bạn giữ
trong tay là tín phiếu kho bạc và do tín phiếu kho bạc chỉ là chứng từ có giá trị như
tiền hay là các chứng từ tài chính, chỉ được chính phủ thanh toán khi chúng đáo hạn,

việc chuyển nhượng tín phiếu kho bạc cho người khác không phải là quá khó khăn,
nhưng bản thân chính phủ không có trách nhiệm phải thanh toán số tiền ghi trên tín
phiếu trước khi tín phiếu đáo hạn. Các loại tiền của tín phiếu kho bạc cũng mang
tính chất tương tự, cái khác nhau đó là “ giấy nợ là tiền mặt pháp định ” thì người
cho vay để hưởng giấy nợ của chính phủ là tất cả các thành viên của xã hội và
khoản cho vay là sản phẩm hoặc dịch vụ do chính họ làm ra cho xã hội. Việc phát
sinh phiếu nợ khác hay tiền khác trong hệ thống NH chính là do giấy nợ chính là
tiền của NHTM. Khoản cho vay là tiền mặt pháp định của chính phủ, nghĩa là người
cho vay đã chuyển từ hình thức giấy nợ không lãi của chính phủ thành những loại
giấy nợ khác của NHTM. Với các đặc tính của mình TTTT trợ giúp một cách đắc
lực trong việc đảm bảo khả năng thanh toán, bổ sung kịp thời nhu cầu vốn cho các
NHTM, hạn chế xẩy ra trường hợp NH mất khả năng thanh khoản. Các NHTM có

18
thể thông qua phát hành giấy nợ và vay tiền trên TTTT mà có được nguồn vốn hoạt
động. Các công cụ lưu thông trên TTTT bao gồm: tín phiếu kho bạc ngắn hạn, kỳ
phiếu thương mại, tín phiếu của công ty tài chính, các hợp đồng vay mượn ngắn hạn
giữa tổ chức tín dụng dưới sự điều tiết của NHTW, kỳ phiếu NH, chứng chỉ tiền tiết
kiệm, khế ước giao hàng… Mỗi công cụ xuất hiện trên TTTT đều nhằm đáp ứng
các nhu cầu cụ thể, nhất định của các thành viên TTTT. Khả năng vay vốn của thị
trường thông qua việc phát hành phiếu nợ phụ thuộc vào 3 yếu tố đó là: mức độ
chấp nhận của nhân dân đối với nó như là phương tiện thanh toán trong lưu thông;
hiệu quả của việc thực hiện các đồng vốn đã được vay bên cạnh việc có nhận được
sự khuyến khích hay không của NHTW. Tuy nhiên, NHTM chỉ quyết định vay trên
TTTT khi đã có sẵn những kế hoạch kinh doanh cụ thể. Vì thế hai yếu tố sự chấp
nhận của nhân dân đối với nó như là phương tiện thanh toán trong lưu thông và sự
khuyến khích hay không của NHTW sẽ quyết định nhanh hay chậm của quá trình
phát hành.
 Vay từ công ty mẹ: Thực ra đây là hình thức các công ty mẹ đứng ra phát
hành cổ phiếu hoặc trái phiếu của công ty để vay vốn trên thị trường, sau đó dồn

lượng vốn vay được này về cho NH hoạt động. Để tránh gặp phải những khó khăn
và hạn chế về dự trữ bắt buộc, lãi suất và thủ tục khi NHTM vay bằng các hình thức
khác thì việc vay từ công ty mẹ đơn giản và khả quan hơn nhiều. Điều đó giải thích
tại sao mà ngày càng nhiều các NH là con đẻ của công ty tài chính và công ty liên
doanh. Khi một công ty phát hành trái phiếu nó sẽ không phải chịu những điều kiện
ràng buộc về lãi suất, dự trữ và khối lượng như một NH khi phát hành. Sau khi công
ty mẹ vay được của thị trường NH sẽ vay được của công ty mẹ và khoản vay đó
được đưa vào khoản nợ có kì hạn tương ứng với kì hạn vay của công ty hoặc có thể
nhập vào vốn cổ phần.
 Vay từ các tổ chức tín dụng khác: Đây cũng là hình thức được nhiều NHTM
thực hiện trong những giai đoạn cần thiết. Nguyên tắc được áp dụng khi NH và các
tổ chức tín dụng cho vay lẫn nhau là:

19
+ Các NH phải hoạt động hợp pháp.
+ Thực hiện các việc đi vay và cho vay theo đúng hợp đồng tín dụng.
+ Vốn vay phải được thế chấp, cầm cố hay xin bảo lãnh của NHTW.
 Vay từ nước ngoài: Từ tháng 11/1998 các NHTM được phép vay các NH
nước ngoài để cho vay trong nước. Hiện nay các NHTM trong nước có quan hệ với
các tổ chức tín dụng nước ngoài ngày càng mở rộng dưới nhiều hình thức như liên
doanh, hợp tác đầu tư…tạo điều kiện để thực hiện nghiệp vụ này một cách đơn giản.
Chi phí mà NH trong nước phải chịu đó là lãi suất trên thị trường tiền tệ thế giới và
chi phí quan hệ. Tuy nhiên để vay được từ NH nước ngoài thì phải chịu một hạn
mức tín dụng do NH nước ngoài quy định, hạn mức này phải được chính ohủ hay
NHTW bảo lãnh. Thông thường thì hạn mức vay không quá 6 lần vốn tự có của
NHTM. Tuy nhiên hạn mức trên phải trừ đi số nợ trước chưa trả tính đến thời điểm
vay mới. Như vậy để có thể có một lương vốn vay như mong muốn từ các tổ chức
tín dụng nước ngoài thì điều đầu tiên đó là các NHTM trong nước phải thực hiện tốt
khâu hoàn trả. Việc vay các NH nước ngoài không phải đơn giản bởi ngoài việc ảnh
hưởng trực tiếp tới 2 NH mà còn ảnh hưởng trực tiếp tới quan hệ của hai quốc gia.

Chính vì thế mà hồ sơ vay vốn phải được NHTW duyệt và trực tiếp quản lí. Tuy
nhiên NHTW luôn khuyến khích các NHTM đủ điều kiện mở rộng quan hệ tín dụng
với các NH nước ngoài.
1.1.3.2.2 Nguồn khác.
 Nguồn uỷ thác: NHTM thực hiện các dịch vụ uỷ thác như: uỷ thác cho vay,
uỷ thác đầu tư, uỷ thác cấp phát, uỷ thác giải ngân và uỷ thác thu hộ. Chính từ
những dịch vụ này mà đã tạo nên một lượng vốn không nhỏ tai NHTM hay còn gọi
là nguồn uỷ thác. Hầu hết các dịch vụ uỷ thác thì đều có một lượng tiền không nhỏ.
Ngày nay các dịch vụ uỷ thác của NHTM ngày một mở rộng hơn nhằm đáp ứng các
nhu cầu khác nhau của khách hàng và nâng cao tính cạnh tranh, nên đi đôi với nó là
nguồn uỷ thác trong NH ngày một lớn hơn. Đặc biệt là nguồn ODA, là nguồn
thường lớn mà thời gian trả nợ dài ( thường là từ 30 đến 40 năm và thời gian gia hạn

20
là 10 năm ), lãi suất lại thấp vì tính chất của nguồn này là hỗ trợ phát triển. Chính vì
đặc điểm đó mà nguồn ODA chính là một nguồn vốn trung và dài hạn dồi dào cho
NH.
 Nguồn trong thanh toán: Là một nguồn vốn dồi dào cho NH. Mọi khách
hàng khi sự dụng dịch vụ thanh toán của NH thì phải mở tài khoản tại NH hay pahỉ
kí quỹ với một khoản tiền tối thiểu nhất định. Trong khi khách hàng chưa sự dụng
số dư tài khoản để thanh toán thì số dư từ những tài khoản này gộp lại tạo thành một
lượng vốn không nhỏ cho NH. Tuy nhiên việc sự dụng số dư của những tài khoản
này yêu cầu NH phải thật thận trọng trong việc chọn kì hạn cho các hoạt động bởi
khách hàng có thể có yêu cầu thanh toán ngay bất cứ lúc nào, và khi khách hàng có
yêu cầu thì ngay lập tức các NH phải đáp ứng.
 Nguồn khác: Ngoài các nguồn huy động kể trên thì nguồn vốn của NHTM
còn được bổ sung từ các khoản nợ khác như thuế chưa nộp, lương chưa trả. Tuy
nhiên những nguồn này thường là không lâu dài vì đây là những khoản mà khách
hàng phải sự dụng trong thời gian gần.
1.2. CÁC PHƯƠNG THỨC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM.

1.2.1. Phương thức huy động vốn chủ.
Có nhiều hình thức để huy động vốn chủ. Đối với các NHTM cổ phần thì có
thể huy động vốn thêm từ cổ đông, phát hành cổ phiếu hay phát hành trái phiếu có
thể chuyển đổi thành cổ phiếu. Tuy nhiên không phải lúc nào các phương thức trên
đều nhận được sự ủng hộ của các cổ đông bởi đơn giản khi số cổ phần tăng lên cũng
đồng nghĩa với việc cổ tức giảm xuống, ảnh hưởng trực tiếp tới lợi tức mà cổ đông
kì vọng. Đối với NH liên doanh thì có thể tăng vốn chủ bằng cách xin tăng vốn từ
cổ phần, huy động vốn góp từ các bên liên doanh.
Thông qua việc trích lập các quỹ dự trữ và quỹ khác từ lợi nhuận ròng của NH
sẽ giúp NH tăng lượng vốn chủ. Bên cạnh đó một số NHTM còn được Chính phủ
cấp vốn dưới hình thức quỹ đầu tư phát triển nhằm thực hiện một số chính sách và
mục tiêu của Nhà nước. Nguồn vốn này có đặc trưng là ổn định, khối lượng tương

21
đối lớn và thông thường được sự dụng trong thời gian là một giai đoạn hay một thời
kì. Chính những đặc trưng đó mà mang lại những cơ hội đầu tư và kinh doanh cho
NH. Tuy nhiên không phải NH nào cũng dễ dàng có được nguồn vốn này, nó phụ
thuộc vào mục tiêu của Chính phủ trong từng thời kì nhưng cũng phụ thuộc nhiều
vào uy tín và hiệu quả kinh doanh của NH.
1.2.2. Phương thức huy động vốn nợ.
Với thành phần cấu tạo nên nguồn vốn nợ như đã trình bày ở phần 1.1 NHTM
sẽ có các phương thức để huy động vốn nợ hiểu quả như sau:
- Mở tài khoản tiền gửi: có nhiều loại tài khoản tiền gửi đi liền với nhiều
hình thức dịch vụ, lãi suất và kì hạn khách nhau. Tài khoản thanh toán mở cho
khách hàng đi liền với dịch vụ thu hộ chi hộ của NH tuy nhiên mức lãi suất của loại
tiền gửi này rất thấp và có thể bằng không. Tài khoản tiền gửi tiết kiệm có mức lãi
suất cao, với nhiều mức kì hạn khác nhau. Để linh hoạt NH thường đáp ứng nhu cầu
rút tiền của khách hàng ngay khi khách hàng yêu cầu tuy nhiên nếu rút trước kì hạn
khách hàng chỉ được hưởng một mức lãi suất thấp hơn rất nhiều so với rút đúng kì
hạn. Việc đa dạng hoá trong việc mở các loại tài khoản nhằm đáp ứng tối đa nhu

cầu của khách hàng và nâng cao hiệu quả huy động vốn cho NH còn được thể hiện
qua tài khoản tiền gửi thanh toán hưởng lãi. Là tài khoản kết hợp giữa tài khoản
thanh toán và tài khoản tiết kiệm hay còn gọi là tài khoản rút tiền có thể thương
lượng. Nó được sự dụng như một tài khoản phát sec để chi trả cho việc mua bán
hàng hoá và dich vụ. Hiện nay trên thị trường có hai loại tài khoản cạnh tranh nhau
gay gắt đó là tài khoản MMDA và Supper Now ( TK tiền gửi thanh toán hưởng lãi
). Hai loại tài khoản này đều trả lãi suất theo lãi trên thị trường tiền tệ, khách hàng
có thể thanh toán thông qua việc phát séc hay hối phiếu uỷ quyền trước.
- Phát hành giấy tờ có giá: là hình thức huy động vốn của NHTM dưới hình
thức phát hành các chứng từ như chứng chỉ tiền gửi ( kì phiếu ), trái phiếu…
Một đặc trưng dễ nhận thấy đó là phần lớn những người gửi tiền tiết kiệm vào
NH thì quan tâm rất nhiều tới lãi suất. Chính vì vậy mà trong những lúc cần vốn NH

22
có thể phát hành giấy tờ có giá với mức lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi như thế sẽ
thu hút được một lượng vốn không nhỏ từ dân chúng. Tuy nhiên không phải mức lãi
suất càng cao càng tốt đối với NH, mức lãi suất hợp lí phải dựa trên cân đối vốn của
NH, khối lượng vốn mà NH muốn huy động cũng như hiệu quả kinh doanh của NH.
+ Phát hành kì phiếu: Theo quy định thì ở Việt Nam chỉ có các NH quốc
doanh mới được phép phát hành kì phiếu khi cần thiết. Và phải được sự thông qua
của NHNN. Kì phiếu có thể đa dạng về thời hạn có thể 7 ngày mà cũng có thể 5 đến
7 năm tuy nhiên nói chung thì kì phiếu là công cụ để NH vay nợ ngắn hạn. Có loại
kì phiếu có lãi cố định, trả lãi kì hạn và kì phiếu chuyển tiếp liên tục.
+ Phát hành trái phiếu: Trái phiếu NH là công cụ vay nợ dài hạn trên thị
trường vốn dưới hình thức giấy nợ của các NH phát hành để huy động vốn, trong đó
NH cam kết trả gốc và lãi cho người mua sau một thời gian nhất định. Thông
thường người dân ủng hộ việc NH phát hành trái phiếu bởi tính linh động của nó.
Trong trường hợp cần thiết người sở hữu trái phiếu có thể chuyển nhượng, mua bán,
biếu tặng, thừa kế hay cầm cố. Trái phiếu phát hành có thể dưới 1 trong 3 hình thức
sau: vô danh, ghi sổ hay ghi danh. Thông thường trái phiếu được phát hành với kì

hạn hơn 1năm, mệnh giá tối thiểu là 50000VND. Lãi suât trái phiếu do NHTM phát
hành quyết định dựa trên nhu cầu vốn của NH và lãi suất trên thị trường. Hình thức
trả lãi đối với trái phiếu cũng đa dạng, NH có thể trả lãi định kì, trả lãi trước, trả lãi
sau. Tuy nhiên không phải bất kì một NHTM nào khi cần vốn đều có thể phát hành
trái phiếu. NH chỉ có thể phát hành trái phiếu khi đảm bảo một số yêu cầu củ thể
của NHNN về hiệu quả kinh doanh, hiệu quả quản lí và điều kiện về vốn pháp định.
Nguồn vốn huy động từ phát hành trái phiếu là nguồn ổn định, thời hạn sự dụng lâu
có thể mang lại nhiều lợi ích cho NH.
- Vay nợ trực tiếp: Đó chính là hình thức vay NHNN, vay Bộ Tài Chính, vay
các tổ chức tín dụng trong và ngoài nước…Tuy nhiên dù vay của ai đi nữa thì hình
thức vay trực tiếp này cũng tốn chi phí cho NH đi vay hơn nhiều so với các hình
thức huy động khác.

23
Việc vay NHNN thường phức tạp về thủ tục, thông thường NHTM chỉ vay của
NHNN trong trường hợp cấp bách, để đảm bảo khả năng thanh khoản cho NH,
khoản vay này thường chỉ tồn tại trong ngắn hạn. Trong một số trường hợp NHNN
vẫn cho NHTM vay với một lượng vốn nhất định để hoạt động tín dụng với mức lãi
suất ưu đãi, tuy nhiên nếu Chính phủ đang thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt thì
việc vay của NHNN là một điều quá khó khăn.
NHTM có thể vay từ bộ tài chính thông qua các quỹ đầu tư phát triển. Đó là
nguồn vốn mà bộ tài chính chuyển vào NHTM nhằm thực hiện các mục tiêu cụ thể,
xây dựng các công trình công cộng.
Vay từ các tổ chức tín dụng khác và vay từ nước ngoài: NHTM có thể vay lẫn
nhau, từ các tổ chức tín dụng khác hay vay từ nước ngoài. Dù với hình thức nào thì
NHTM đi vay cũng phải đảm bảo những điều kiện nhất định, nhất là về uy tín,
lượng vốn vay được phải chịu sự bảo lãnh hay kiểm soát của NHNN. Các khoản
vay từ NHTM khác và các tổ chức tín dụng thường là trung hạn, lãi suất cao. Các
khoản vay từ nước ngoài thì lãi suất áp dụng là lãi suất trên thị trường tiền tệ thế
giới, tuy nhiên NH đi vay phải chịu một hạn mức tín dụng do nước ngoài quy định,

hạn mức tín dụng này được NHNN hay chính phủ bảo lãnh.
1.3. SỰ CẦN THIẾT CỦA HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN ĐỐI VỚI
NHTM.
NH kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay , đầu tư và cung cấp
các dịch vụ khác. Huy động vốn - hoạt động tạo nguồn vốn cho NHTM đóng vai trò
quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của NH. Bên cạnh đó hiệu quả của
hoạt động huy động vốn trong hệ thống NHTM còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát
triển chung của cả nền kinh tế và ngược lại. Nó đóng vai trò là kênh huy động vốn
hữu hiệu, khơi dậy mọi tiềm nguồn lực tiềm tang của nền kinh tế cũng như thu hút
vốn đầu tư nước ngoài thúc đẩy nền kinh tế phát triển và hội nhập.
 Thông qua việc điều chỉnh lãi suất huy động, cũng như các biện pháp hỗ trợ
khác Chính phủ đã biến hoạt động huy động tiền gửi của NHTM thành công cụ để

24
thực hiện các chính sách vĩ mô, điều tiết cả nền kinh tế, kiềm chế lạm phát. Những
tháng đầu năm 2008 ngoài việc nhu cầu vay của các tổ chức và cá nhân tăng cao
dẫn đến lượng tiền mặt trong các NHTM thiếu hụt tầm trọng, thì việc tỉ lệ lạm phát
tăng tới 2 con số đã khiến Chính phủ phải thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt,
tăng lãi suất huy động lên mức cao nhất từ trước tới nay. Nhằm thu lại bớt lượng
tiền lưu thông trên thị trường. Trên thực tế thấy rằng việc chống lạm phát bằng cách
thực hiện song song các giải pháp tài chính, kinh tế và tiền tệ đã mang lại hiệu quả
không phải là nhỏ. Mà trong đó giải pháp không ngừng tăng huy động trong nền
kinh tế là một hoạt động tối ưu. Thông qua việc tăng lãi suất huy động cũng như
việc phát hành kì phiếu, trái phiếu NH sẽ huy động được một lượng tiền mặt tạm
thời không nhỏ trong nền kinh tế, giảm bớt lượng tiền mặt trong lưu thông.
 Thông qua hoạt động huy động vốn các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư
được sự dụng phục vụ phát triển kinh tế xã hội. Bởi đơn giản khi tập trung nguồn
vốn nhàn rỗi tại NH, NH sẽ không để không tiền như vậy để phải chịu một chi phí
lớn và không mang lại lợi nhuận gì. Ngược lại, ngoài việc phải đảm bảo một lượng
dữ trữ bắt buộc tại NHTW, một phần được NH giữ tại quỹ để đảm bảo cho nhu cầu

thanh khoản trong thời gian trước mắt, phần còn lại NHTM sẽ đem đi đầu tư. Có thể
là cho các cá nhân, tổ chức kinh tế khác thiếu vốn cho hoạt động sản xuất kinh
doanh, cho tiêu dùng vay với lãi suất cao hơn lãi suất huy động, hay NH tự mình
tham gia vào hoạt động đầu tư, mua bán chứng khoán. Như vậy việc huy động vốn
và sự dụng vốn huy động có tác dụng trực tiếp đến tăng trưởng phát triển, tăng năng
lực sản xuất của nền kinh tế quốc dân. Góp phần thực hành tiết kiệm huy động tiềm
lực của cả nền kinh tế, xây dựng đất nước theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, xây dựng đất nước theo hướng phát triển và hoà nhập với nền kinh tế thế giới.
 Thị trưòng chứng khoán trong thời gian qua đã có những bước phát triển
mạnh mẽ. Các NHTM cũng đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển đó, bởi chính
từ việc phát hành các giấy tờ có giá trung và dài hạn trong công tác huy động vốn
đã tạo lập và đa dạng hoá các loại hàng hoá trên thị trường chứng khoán. Như vậy
bằng hình thức gián tiếp hoạt động huy động vốn của NH TM đã góp phần hình

25
thành và phát triển thị trường vốn mà thị trường chứng khoán là thị trường đóng vai
trò cốt lõi. Việc huy động vốn cũng đã tạo điều kiện cho tổ chức, cá nhân có thể tích
luỹ được vốn.
 Việc huy động và sự dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi trong dân đã giảm
bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước trong quá trình đầu tư phát triển cũng như
xây dưng cơ sở hạ tầng. Góp phần đẩy nhanh quá trình đầu tư, hội nhập vào thị
trường chứng khoán quốc tế thông qua nghiệp vụ phát hành trái phiếu quốc tế, vay
mượn từ các NH nước ngoài.
 Việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn như: tiền gửi thanh toán, tiền
gửi tiết kiệm, trái phiếu, kì phiếu ngắn hạn, kì phiếu có mục đích, tiền gửi tiết kiệm
có thưởng… đã đảm bảo được hoạt động kinh doanh cho NH. Nguồn vốn trung và
dài hạn huy động được đáp ứng được nhu cầu tín dụng trung và dài hạn mang lại
phần lợi nhuận lớn cho NHTM. Bên cạnh đó trong quá trình hoạt động của mình
các NHTM đều cố gắng mở rộng chi nhánh hoạt động, năng cao các thiết bị công
nghệ, mở rông hoạt động liên doanh liên kết. Vì vậy việc huy động nói chung và

đặc biệt là vốn trung và dài hạn là vô cùng cần thiết.
 Trong quá trình hoạt động của mình NH muốn tồn tại và phát triển bền vững
thì luôn luôn phải đáp ứng được một yêu cầu cơ bản đó là phải đáp ứng được khả
năng thanh khoản của NH. Và kết quả từ hoạt động huy động vốn sẽ góp phần tăng
tính thanh khoản cho NH. Để đáp ứng nhu cầu tín dụng thì theo nguyên tắc cần có
nguồn có kì hạn tương ứng tài trợ, tạo nên sự phù hợp về kì hạn của nguồn và tài
sản. Tuy nhiên cùng với sự phát triển không ngừng của thị trường tài chính thì sự
phù hợp về kì hạn không phải là giải pháp duy nhất để NH đáp ứng nhu cầu thanh
khoản của khách hàng. Mà giải pháp tối ưu hiện nay các NHTM thường thực hiện
để đem lại tối đa lợi nhuận nhưng vẫ đáp ứng được nhu cầu thanh khoản đó là hoán
đổi kì hạn của nguồn. Hay nói cách khác đó là việc mà NHTM lấy nguồn ngắn hạn
để cho vay trung và dài hạn. Tuy nhiên để việc hoán đổi kì hạn nguồn mang lại lợi
ích như mong muốn thì còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, đặc biệt đó là

×