Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Thoái hóa khớp, bệnh phổ biến ở người cao tuổi, cách phòng và điều trị bệnh docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.73 KB, 4 trang )

Thoái hóa khớp, bệnh phổ biến ở người cao tuổi,
cách phòng và điều trị bệnh
Bệnh thoái hóa khớp rất thường gặp ở người cao tuổi. Đây là hiện tượng già
của sụn khớp cũng giống như các bộ phận khác của cơ thể, tăng dần theo
thời gian. Từ tuổi 70 trở đi hầu như mọi người đều có dấu hiệu thoái hóa
khớp.
Tổn thương thoái hóa khớp thường gặp ở cột sống (nhất là ở cột sống thắt
lưng và cột sống cổ); ở chi dưới như khớp gối, khớp háng; ở chi trên như
khớp vai. Phần lớn người bệnh chỉ bị tổn thương một vài khớp, ít khi bị
nhiều khớp.

Tập thể dục đều đặn giúp phòng chống thoái hoá khớp.
Trong cấu tạo của khớp xương, sụn khớp có vai trò rất quan trọng. Sụn bao
phủ đầu xương như một chiếc đệm giảm xóc, vừa chống va đập khi khớp
chuyển động vừa làm giảm ma sát giúp các xương trườn lên nhau dễ dàng.
Trong bệnh thoái hóa khớp, lớp bề mặt sụn bị khô nứt, xói mòn. Sụn mất
chức năng đệm, làm cho các khớp xương khi chuyển động cọ xát vào nhau
gây đau và sưng tấy. Lâu dần khớp sẽ bị biến dạng; các chồi xương được
hình thành và phát triển ở bờ xương làm sự cọ xát tăng lên, bệnh nhân càng
bị đau khớp nhiều hơn.
Triệu chứng sớm nhất của bệnh là đau khi vận động, mới đầu chỉ đau khi
khớp hoạt động, nghỉ sẽ hết đau; sau đó có thể đau âm ỉ liên tục và đau trội
hẳn lên khi vận động. Nếu thoái hóa khớp háng, người bệnh đau ở vùng bẹn,
vùng trước trong đùi, có thể đau cả vùng mông lan xuống mặt sau đùi. Nếu
thoái hóa khớp gối, người bệnh đau nhiều khi đi lại, đứng lên ngồi xuống
khó khăn, nhất là lúc lên xuống thang gác hoặc đang ngồi xổm đứng lên, có
khi đau quá bị khụy xuống đột ngột. Nếu thoái hóa cột sống thắt lưng, người
bệnh bị đau âm ỉ ở vùng thắt lưng và thường đau trội lên về chiều sau một
ngày làm việc phải đứng nhiều hay lao động nặng, lúc nằm nghỉ đau sẽ
giảm. Khi đau, bệnh nhân làm các động tác cúi, nghiêng, ngửa hoặc xoay
người rất khó khăn.


Sau triệu chứng đau là tình trạng hạn chế vận động. Nếu bị thoái hóa khớp
háng, người bệnh đi khập khiễng, giạng háng khó khăn, khó gập đùi vào
bụng. Nếu bị thoái hóa khớp gối, các động tác gấp và duỗi thẳng chân bị hạn
chế, đứng lên ngồi xuống khó khăn, có thể thấy tiếng lắc rắc khi vận động
khớp. Nếu bị thoái hóa khớp vai sẽ hạn chế các động tác đưa tay ra trước, ra
sau, quay tay và không làm được một số động tác đơn giản như gãi lưng,
chải đầu…
Ngoài hai triệu chứng chính là đau và hạn chế vận động, người bệnh có thể
bị teo cơ, nhất là các chi.
Phòng và điều trị bệnh
Để đề phòng và hạn chế thoái hóa khớp, ngay khi còn ở lứa tuổi ngoài 40
cần tập thể dục đều đặn và cố tránh bị béo phì hoặc bị tiểu đường vì thoái
hóa khớp rất thường gặp, dễ xảy ra nặng ở những người bệnh này. Chú ý
tránh những động tác quá mạnh, nhất là những động tác có thể làm lệch trục
khớp và cột sống.
Nếu có dấu hiệu đau và hạn chế vận động phải điều trị ngay. Trước đây
người ta chủ yếu dùng các thuốc giảm đau, chống viêm steroid và phi steroid
để làm giảm triệu chứng đau và viêm cho người bệnh. Như vậy là chữa triệu
chứng chứ chưa phải chữa nguyên nhân gây bệnh. Hiện nay, việc điều trị
thoái hóa khớp đã có nhiều tiến bộ, có những loại thuốc chữa bệnh tận gốc
chứ không dừng lại ở chữa triệu chứng.
Loại thuốc có hiệu quả tốt trong điều trị thoái hóa khớp hiện nay là
Glucosamine. Thuốc này không những có tác dụng làm giảm đau, chống
viêm mà quan trọng nhất là kích thích sản xuất sụn, ngăn chặn tiến triển của
bệnh, giải quyết được tận gốc nguyên nhân gây bệnh. Về dược lí,
Glucosamine tham gia quá trình chuyển hóa tổng hợp nên sụn khớp đồng
thời ức chế các enzym phá huỷ sụn khớp và giảm các gốc tự do phá huỷ các
tế bào sinh sụn. Glucosamine còn kích thích sinh sản mô liên kết của xương,
làm giảm quá trình mất canxi của xương. Nó cũng làm tăng sản xuất chất
nhầy dịch khớp nên tăng độ nhớt, tăng khả năng bôi trơn của dịch khớp. Vì

thế Glucosamine không những làm giảm triệu chứng của thoái hóa khớp
(đau, khó vận động) mà còn ngăn chặn quá trình thoái hóa khớp, ngăn chặn
bệnh tiến triển, tác dụng vào cơ chế bệnh sinh của thoái hóa, phục hồi lại cấu
trúc sụn khớp

×