Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tìm hiểu về huyết khối tĩnh mạch sâu potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.26 KB, 5 trang )

Tìm hiểu về huyết khối tĩnh mạch sâu
Huyết khối tĩnh mạch sâu (thuật ngữ viết tắt khoa học: DVT) là một chứng bệnh
có liên quan đến tình trạng máu đóng cục trong các tĩnh mạch nằm sâu bên trong
cơ thể, thường gặp nhất là các tĩnh mạch ở chân. Đây là tình trạng tắc nghẽn một
tĩnh mạch do cục máu đông được vận chuyển trong dòng máu từ một nơi khác
đến. Huyết khối tĩnh mạch sâu xảy ra khi cục máu đông được hình thành và làm
tắc tĩnh mạch chi dưới hay tĩnh mạch chậu. Khi cục máu đông bị bóc tách ra khỏi
thành mạch, nó có thể dẫn đến thuyên tắc phổi, gây tử vong. Chứng bệnh này phổ
biến ở người già, nhưng phụ nữ trẻ cũng không miễn nhiễm, đặc biệt là trong thời
kỳ sinh đẻ
.

Triệu chứng
Triệu chứng của bệnh này thường gặp ở cẳng chân hoặc đùi gồm các dấu hiệu:
sưng, đau, đỏ đoạn chi, nhất là bụng chân (phía sau chân), bên dưới đầu gối. Bệnh
thường xảy ra ở một chân, song cũng có thể bị cả hai chân, cảm giác đau tăng khi
co gập chân. Chỗ đau có thể tăng khi co gập chân về phía đầu gối. Trường hợp
nặng có thể thấy lở loét ở bắp chân và gặp nhiều nếu huyết khối tĩnh mạch sâu tại
tĩnh mạch đùi, ở người béo phì hoặc có nhiều huyết khối tĩnh mạch sâu ở cùng
một chân.
Tuy nhiên cũng có trường hợp không có một triệu chứng gì ở chân đang bị bệnh
này, bệnh chỉ được phát hiện khi đã gây biến chứng tắc nghẽn mạch phổi do hậu
quả của huyết khối tĩnh mạch sâu ở chân. Khi bị tắc nghẽn mạch phổi xuất hiện
các triệu chứng: khó thở, đau ngực và ngất.
Huyết khối tĩnh mạch sâu có những triệu chứng được phát hiện nhờ các phương
tiện chẩn đoán hình ảnh như: siêu âm có thể giúp phát hiện khối máu đông trong
tĩnh mạch chân, với kỹ thuật Doppler siêu âm có thể giúp biết tốc độ di chuyển
của máu trong tĩnh mạch, Chụp Xquang tĩnh mạch sau khi tiêm chất cản quang sẽ
cho thấy chất này có di chuyển bình thường trong tĩnh mạch hay bị chặn lại do có
huyết khối….
Nguyên nhân


Một số nguyên nhân gây huyết khối tĩnh mạch sâu có thể kể đến là:
Ít vận động: Mọi lý do như bệnh tật, chấn thương, thói quen nghề nghiệp, thói
quen sinh hoạt, hành trình lâu dài trên máy bay, tàu hỏa và xe hơi… mà cơ thể
không hoặc ít vận động, đều có thể tăng nguy cơ huyết khối tĩnh mạch sâu vì khi
cơ thể không vận động, máu trong tĩnh mạch sẽ chảy chậm và làm tăng nguy cơ
đông máu.
Tĩnh mạch bị tổn thương: Bệnh viêm mạch (vasculitis), hóa trị liệu, đụng dập
do chấn thương gây tổn thương ở tĩnh mạch làm tăng nguy cơ bị bị bệnh này,
ngược lại chính huyết khối tĩnh mạch sâu có thể làm tổn thương thành tĩnh mạch
và làm tăng nguy cơ bị thêm một huyết khối tĩnh mạch sâu khác trong mạch máu.
Do dùng thuốc điều trị là hormon sinh dục nữ: Các thuốc có chứa estrogen khi
dùng để điều trị một số bệnh như ung thư, chữa chứng tiền mãn kinh có tác dụng
phụ làm cho máu dễ đông hơn, do đó gia tăng nguy cơ bị bệnh này.
Do di truyền và mắc một số bệnh: Bệnh nhân bị ung thư, suy tim, mang thai,
béo phì, trên 40 tuổi, di truyền từ cha mẹ sang con… là các yếu tố làm cho máu dễ
đông, do đó tăng nguy cơ bị huyết khối tĩnh mạch sâu.
Phòng bệnh
Để phòng bệnh cần chú ý thực hiện tốt các biện pháp:
Tăng cường vận động, nhất là sau một ca phẫu thuật kéo dài,
Phụ nữ sau khi sinh đẻ, cần tránh bất động hoặc nằm lâu ngày
Những người ít vận động, cần tăng cường vận động.
Người có rối loạn về đông máu cần được dùng thuốc chống đông máu theo chỉ
định của bác sĩ.
Nếu phải đi trên tàu, xe, máy bay trong thời gian dài nên lưu ý tạo tư thế ngồi
thoải mái, cứ khoảng nửa giờ cần co duỗi chân, thỉnh thoảng nên đi lại cho khí
huyết lưu thông.
Một số biện pháp hiệu quả gồm
Cử động chân. Chỉ cần ngồi một chỗ trong thời gian dài, máu có thể tụ ở chân,
tạo thành máu đóng cục. Vì vậy, cứ mỗi 1-2 tiếng đồng hồ, nên đứng dậy và đi
loanh quanh, bất kể đang ngồi ở bàn làm việc hay đang đi trên xe hoặc máy bay

(co duỗi cơ chân trong khi ngồi cũng có tác dụng)
Có lối sống lành mạnh: nên bỏ thói quen hút thuốc. Hút thuốc góp phần làm xơ
cứng động mạch, qua đó làm tăng nguy cơ máu đóng cục đồng thời uống nhiều
nước, vì việc cung cấp đầy đủ nước cho cơ thể có thể làm giảm nguy cơ bị máu
đóng cục.
Duy trì trọng lượng hợp lý, thực hiện chế độ ăn uống lành mạnh nhằm tăng
cường sức khỏe tim mạch và vận động thể chất thường xuyên.
Việc uống thuốc ngừa thai có thể làm tăng nguy cơ bị huyết khối tĩnh mạch sâu,
nên cân nhắc và thận trong.
Nhận biết các dấu hiệu của bệnh để phòng tránh, nên chú ý tình trạng đau, sưng,
tình trạng đỏ hoặc thay đổi màu sắc ở một bên chân hay có cảm giác nóng trên da
ở khu vực bị ảnh hưởng.
Điều trị
Mục đích điều trị huyết khối tĩnh mạch sâu là nhằm hạn chế khối máu đông lớn
lên, ngăn chặn chúng tan vỡ ra di chuyển về phổi để tránh tai biến nghẽn mạch
phổi, tránh biến chứng và tái phát HKTMS. Có thể áp dụng một hay nhiều phương
pháp như:
Thuốc chống đông máu: dùng các thuốc chống đông máu như heparin và
warfarin dưới sự theo dõi chặt chẽ của thầy thuốc để điều trị và chống tái phát.
Sử dụng loại tất đặc biệt (compression stockings) nhằm tránh tổn thương phần
mềm, phòng ngừa và giảm sưng, đau, lở loét ở chân. Phải dùng loại tất này với
thời gian hàng năm hoặc nhiều tháng, sau khi bị HKTMS, hằng ngày phải đeo tất
từ lúc sáng sớm thức dậy cho đến khi đi ngủ buổi tối.
Kê cao chân khi nằm ngủ: Khi ngủ dùng gối kê bàn chân và cẳng chân hơi cao
hơn bắp chân, cẳng chân cao hơn đùi để giảm áp lực lên tĩnh mạch chân.
Phác đồ điều trị
Có thể tiêm thuốc kháng đông heparin. Thuốc kháng đông làm loãng máu khiến
máu khó đông. Heparin giúp đề phòng huyết khối và ngăn cản huyết khối sẵn có
tăng trưởng thêm. Tuy nhiên, heparin không thể làm tan huyết khối đã hình thành.
Heparin tác dụng nhanh, nhưng cần phải dùng bằng đường tiêm tĩnh mạch.

Bệnh nhân thường được dùng heparin từ 5 đến 7 ngày. Sau đó, sẽ chuyển sang
thuốc viên kháng đông warfarin (Coumadin), trong 6 tháng. Trong thời gian dùng
thuốc, cần xét nghiệm chức năng đông máu thường xuyên, đảm bảo nồng độ thuốc
đủ để phòng chống huyết khối, nhưng không quá cao gây xuất huyết. Thuốc kháng
đông sẽ gây xuất huyết nếu dùng quá liều lượng. Muốn làm tan cục máu đông, cần
phải dùng thuốc làm tan huyết khối (thrombolysis).
Bác sĩ phẫu thuật mạch máu sẽ tiêm thuốc làm tan huyết khối bằng một catheter
đưa thẳng vào cục máu đông. Thuốc làm tan huyết khối gây nguy cơ biến chứng
xuất huyết và đột quỵ cao hơn thuốc kháng đông. Tuy nhiên, thuốc tan huyết khối
có thể làm tan được cục máu đông có kích thước rất lớn. Thuốc tan huyết khối
được chọn dùng khi bệnh nhân có nguy cơ cao thuyên tắc phổi hoặc khi bị huyết
khối tĩnh mạch sâu ở tay.
Dùng đến phẫu thuật để loại bỏ huyết khối tĩnh mạch sâu. Thủ thuật này có tên gọi
mở tĩnh mạch loại bỏ huyết khối. Thường dùng phẫu thuật này khi bệnh nhân bị
thể HKTMS nặng gọi là phlegmasia cerulea dolens, không đáp ứng với các
phương pháp điều trị nội khoa. Phlegmasia cerulea dolens, nếu không được điều
trị đúng mức, có thể gây hoại thư, do các mô không được cung cấp đầy đủ oxygen
và máu.
Sử dụng lưới lọc tĩnh mạch chủ nếu bệnh nhân không thể dùng được thuốc phòng
chống huyết khối tĩnh mạch sâu hoặc khi thuốc không có tác dụng giảm huyết
khối. Lưới lọc tĩnh mạch chủ ngăn cản huyết khối bong ra từ các tĩnh mạch chi
dưới không cho chúng về đến phổi. Thường thì lưới lọc tĩnh mạch chủ được đưa
vào đúng vị trí bằng một catheter xuyên qua tĩnh mạch háng, cổ hoặc tay. Có thể
được dùng vớ thun ép (elastic compression stockings) để giảm sưng phù và đề
phòng máu ứ trệ trong các tĩnh mạch ở chân.

×