Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Báo cáo tốt nghiệp: “Tín dụng trung, dài hạn ở Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá - Thực trạng và giải pháp” pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (591.28 KB, 74 trang )


- 1 -










Báo cáo tốt nghiệp

“Tín dụng trung, dài hạn ở Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá -
Thực trạng và giải pháp”

- 2 -

Mục lục

Chương I:
Đầu tư và tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng đối với nền kinh tế

Trang

I/ Vai trò, đặc trưng của Đầu tư: 3

1. Vai trò của đầu tư 3

2. Đặc trưng của đầu tư 4



II/ Tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng thương mại đối với nền
kinh tế
5

1. Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường 5

2. Tín dụng và các vấn đề liên quan đ
ến hoạt động tín dụng của
các Ngân hàng thương mại
5

3. Tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng TM đối với nền kinh tế 8

4. Vai trò tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng 9

III/ Chất lượng tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng thương mại 10


1. S
ự cần thiết phải nâng cao chất l
ư
ợng tín dụng trung, d
ài h
ạn của
ngân hàng thương mại
10


2. Các ch

ỉ ti
êu đánh giá ch
ất l
ư
ợng tín dụng Trung, d
ài h
ạn của
NHTM
11


3. Các nhân
t
ố ảnh h
ư
ởng đến chất l
ư
ợng tín dụng trung, d
ài h
ạn

13

IV/ Cơ chế chính sách có liên quan đến việc nâng cao chất lương tín
dụng trung, dài hạn.
15

1. Những quy định chung về cho vay trung, dài hạn 15



2. Qui trình tín d
ụng đầu t
ư t
ại các chi nhá
nh Ngân hàng Đ
ầu t
ư và
Phát triển
17



Chương II:
thực trạng tín dụng đầu tư trung, dài hạn tại ngân hàng
đầu tư và phát triển thanh hoá


I/ Bối cảnh kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh thanh hoá 20


1. Nh
ững thuận lợi trong thời gian tới

20


2. Kh
ó khăn

20


II/ Về tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng Đầu tư và phát
triển Thanh Hoá.
21


1. Mô hình t
ổ chức của Ngân h
àng Đ
ầu t
ư và Phát tri
ển Thanh Hoá

21


2. K
ết quả hoạt động kinh doanh 5 năm của Ngân h
àng Đ
ầu t
ư và
Phát triển Thanh hoá (từ 1996-2000)
22

III/ Thực trạng công tác tín dụng trung, dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư
và Phát triển Thanh Hoá
25


1. Th

ực hiện qui tr
ình th
ẩm định

25


- 3 -

2. Tình hình hoạt động tín dụng trung, dài hạn đối với các dự án 39

IV/ Những kết quả và tồn tại rút ra từ hoạt động tín dụng trung, dài
hạn tại Ngân hàng ĐT và PT Thanh Hoá
47


1. Nh
ững kết quả đạt đ
ư
ợc

47


2. M
ột số khó khăn tồn tại

50




Chương III:
GiảI pháp để nâng cao chất lượng tín dụng trung, dàI hạn tại ngân hàng đt và pt thanh
hoá


I/ Định hướng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng ĐT và PT về tín
dụng trung, dài hạn
55

II/ Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn
56

1. Xác định tính chiến lược của chính sách tín dụng trung, dài hạn
56

2. Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án
57

3. Phân tích tài chính doanh nghiệp trước khi cho vay
59

4. Đa dạng hoá các phương thức huy động vốn trung, dài hạn
61

5. Tiêu chuẩn hoá cán bộ để nâng cao chất lượng tín dụng
62

6. Phát triển hệ thống thông tin
64


III/ Kiến nghị
64

1. Đối với Nhà nước
65

2. Đối với địa phương
66

3. Đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt nam
66

4. Đối với Ngân hàng Đầu tư và phát triển Thanh hoá
67



Kết luận
68












- 4 -


Lời nói đầu

Sự đổi mới hoạt động đầu tư và nâng cao hiệu quả của hoạt động này
trong thời kỳ đất nước ta đang tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hóa
đất nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, vừa là yêu cầu thực tế khách quan,
vừa mang tính cấp bách đảm bảo cho nền kinh tế nước ta phát triển. Trong
chiến lược phát triển kinh tế, Đảng ta đã chỉ rõ “Chính sách tài chính quốc gia
hướng vào lĩnh vực tạo vốn, sử dụng vốn có hiệu quả trong toàn xã hội, tăng
nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân ” Thực hiện chủ trương đó và
nhằm đổi mới cơ chế quản lý trong lĩnh vực đầu tư, năm 1989 Chính phủ đã
có chủ trương về xoá bỏ bao cấp trong đầu tư xây dựng cơ bản, tất cả những
dự án sản xuất kinh doanh có khả năng thu hồi vốn trực tiếp đều phải vay vốn
tín dụng để đầu tư Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam đã được Nhà
nước giao cho thực hiện việc cho vay các công trình xây dựng cơ bản theo kế
hoạch Nhà nước (từ năm 1995 đến nay việc cho vay đầu tư phát triển theo kế
hoạch Nhà nước còn có thêm Tổng cục đầu tư và Phát triển nay là Quỹ hỗ trợ
đầu tư quốc gia và các Ngân hàng thương mại khác thực hiện).
Thực hiện hoạt động tín dụng đầu tư đối với các dự án là một trong
những mục tiêu quan trọng hàng đầu trong định hướng hoạt động của Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển nói chung, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh
Hoá nói riêng. Trên cơ sở Nghị định của Chính phủ và thể lệ tín dụng trung và
dài hạn của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Ngân hàng Đầu tư và
Phát triển chủ trương cho các doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh vay
vốn tín dụng trung, dài hạn để đầu tư các dự án trong lĩnh vực sản xuất kinh
doanh, dịch vụ theo định hướng phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước, địa
phương trong từng thời kỳ. Từ 1995, ngoài các dự án được giao trong kế

hoạch, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển còn chủ động huy động vốn dài hạn
và tìm các dự án có hiệu quả để đầu tư.
Với chức năng nhiệm vụ được giao, trong những năm qua, Ngân hàng
Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá đã và đang tích cực, chủ động, linh hoạt sử
dụng các nguồn vốn khác nhau để xem xét cho vay các dự án trung, dài hạn
trên nhiều lĩnh vực thuộc các ngành kinh tế khác nhau trong tỉnh với khối
lượng tín dụng hàng nghìn tỷ đồng. Phần lớn các dự án được Ngân hàng Đầu
tư và Phát triển cho vay, sau khi hoàn thành đi vào hoạt động đã phát huy có
hiệu quả, đáp ứng một phần nhu cầu đòi hỏi của nền kinh tế trong sự nghịêp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần vào việc tăng trưởng của
nền kinh tế, kiềm chế lạm phát và giải quyết việc làm cho người lao động.
Song, cũng có công trình, dự án khi đi vào hoạt động kém hiệu quả, thậm chí
không phát huy được hiệu quả như dự kiến, dẫn tới nợ quá hạn kéo dài ảnh

- 5 -

hưởng tới hoạt động của Ngân hàng và nền kinh tế. Điều này sẽ dẫn đến làm
chậm sự hoà nhập nền kinh tế của Việt Nam với các nước trong khu vực và
trên thế giới.
Vậy, làm như thế nào để hoạt động của tín dụng trung, dài hạn có hiệu
quả góp phần đáp ứng được nhu cầu đỏi hỏi của nền kinh tế và mang lại thu
nhập cho Ngân hàng. Qua tìm hiểu thực tế tại ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Thanh Hoá, với sự hiểu biết của mình bản luận văn này tôi xin trình bày “Tín
dụng trung, dài hạn ở Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá - Thực
trạng và giải pháp” phạm vi đề tài này nghiên cứu trong thời gian từ năm
1996 đến 2000 và được bố cục theo các nội dung sau :
Chương I: Đầu tư và Tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng đối với
nền kinh tế.
Chương II : Thực trạng tín dụng trung , dài hạn của NHĐầu tư và Phát
triển Thanh Hoá.

Chương III: Một số đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao chất lương tín dụng
trung, dài hạn.















- 6 -

chương I
đầu tư và tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng
đối với nền kinh tế

Theo giác độ kinh tế: Đầu tư là hoạt động sử dụng tiền vốn và tài
nguyên trong một thời gian tương đối dài nhằm mục đích thu về lợi nhuận và
các lợi ích kinh tế xã hội khác.
Đầu tư có hai dạng: Đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp, ở đây ta nghiên
cứu đầu tư gián tiếp tức là đầu tư bằng phương thức tín dụng. Đầu tư gián tiếp
là đầu tư trong đó người bỏ vốn không trực tiếp tham gia quản lý, điều hành
quá trình thực hiện và phân phối kết quả đầu tư.

I/ Vai trò, đặc trưng của Đầu tư
1- Vai trò của đầu tư :
- Đầu tư cơ bản là nhân tố quan trọng, nó quyết định trình độ phát triển của
mỗi nước. Khi đầu tư đúng hướng, có hiệu quả sẽ làm tăng sản phẩm xã hội,
thu nhập quốc dân, tăng trưởng nền kinh tế. Đầu tư có tác dụng cải biến cơ
cấu kinh tế, nó tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý, khai thác tiềm năng thế mạnh
của các thành phần kinh tế và của từng địa phương, từng vùng. Thông qua
việc đầu tư để xây dựng mới rồi mở rộng qui mô sản xuất, công suất, ứng
dụng, công nghệ mới để không ngừng phát triển, nâng cao TSCĐ. Tạo điều
kiện căn bản để có thể tăng được GDP trong thời kỳ sau. Do đó đầu tư ban
đầu cho hiện tại là quyết định cho việc phát triển ở tương lai.
- Đầu tư là công cụ để Nhà nước điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo ngành.
Cơ cấu kinh tế theo ngành là tỷ trọng GDP của mỗi ngành sản xuất xã hội
trong tổng số GDP toàn quốc. Gồm 3 lĩnh vực chính:
+ Ngành công nghiệp
+ Ngành nông nghiệp
+ Ngành dịch vụ
Năng suất lao động trong ngành công nghiệp và dịch vụ thường cao
hơn nhiều so với ngành nông nghiệp. Do đó nếu tỷ trọng của ngành nông
nghiệp chiếm đa số, phần lớn trong nền kinh tế quốc dân thì GDP sẽ tăng
chậm, dẫn đến tình trạng lạc hậu so với các ngành khác. Vì vậy điều chỉnh cơ
cấu kinh tế hiện nay là giảm tỷ trọng nông nghiệp trong GDP nhưng số tuyệt
đối vẫn phải tăng lên. Để thực hiện được điều này thì Nhà nước có thể sử

- 7 -

dụng nhiều công cụ khác nhau như: Công cụ tài chính, chính sách thuế, chính
sách tiền tệ. Lãi suất và đặc biệt là thông qua cơ cấu đầu tư cho từng ngành.
- Đầu tư cơ bản tạo điều kiện mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Đối với
mỗi quốc gia, mỗi khu vực trên thế giới có thế mạnh riêng về vốn, về tài

nguyên, về lao động, khoa học kỹ thuật và công nghệ. Sự phân bố này là
khồng đều. Để khai thác thế mạnh mỗi bên thì hiện nay xu hướng trên thế giới
các quốc gia liên kết với nhau trong hoạt động đầu tư quốc tế, tạo nên những
dự án khai thác thế mạnh của mỗi bên. Qua đó các nước giàu có được tài
nguyên để sử dụng, có nơi sử dụng vốn đầu tư với khả năng sinh lợi cao hơn.
Có thể bán hay chuyển giao công nghệ kỹ thuật, có thị trường tiêu thụ sản
phẩm rộng lớn. Đối với những nước nghèo, chậm phát triển thì khai thác được
tài nguyên của mình để phát triển kinh tế tạo ra được nhiều việc làm. học tập
được các kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và kinh nghiệm quản lý theo cơ chế thị
trường
Đối với nước ta là một trong số các nước chậm phát triển trên thế giới,
sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, cơ sở hạ tầng yếu kém, trình độ sản xuất,
quản lý còn lạc hậu, cơ cấu kinh tế chưa hợp lý để tiến hành công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước vai trò của đầu tư có vị trí rất quan trọng. Nó tạo
nên sự phát triển của đất nước, tạo được việc làm cho người lao động, tăng thu
nhập quốc dân v.v Qua đầu tư giúp cho các doanh nghiệp có trách nhiệm
hơn trong sản xuất kinh doanh, từng bước nâng cao trình độ quản lý, tiếp thu
công nghệ, khoa học kỹ thuật tiên tiến và phải tìm mọi biện pháp xây dựng
phương án kinh doanh có hiệu quả. Phải tìm đối tác, khách hàng và có chiến
lược phát triển đúng hướng để giải quyết được 3 vấn đề căn bản của thị trường
là: Sản xuất cái gì, số lượng và chất lượng sản phẩm như thế nào, và bán ở
đâu? Nói tóm lại qua đầu tư các doanh nghiệp phải xác định và thực hiện các
biện pháp, phương án kinh doanh có hiệu quả.
2- Đặc trưng của đầu tư:
- Tính sinh lời là đặc trưng hàng đầu của mọi hoạt động đầu tư, nhất là
đầu tư trong sản xuất kinh doanh.
- Đầu tư diễn ra trong thời gian dài, gồm nhiều giai đoạn, nhiều bước.
Do vậy nó làm cho một khối lượng đầu tư bị ứ đọng trong công trình và chưa
phát huy được hiệu quả khi công trình chưa đi vào sử dụng.
- Đầu tư mang tính rủi ro cao.

- Đầu tư đòi hỏi khối lượng vốn rất lớn, thời gian thực hiện đầu tư lại
kéo dài cho nên tiềm ẩn rất nhiều các rủi ro như:
+ Rủi ro do các yếu tố tự nhiên

- 8 -

+ Rủi ro do các yếu tố về kinh tế thị trường như: Lạm phát, suy thoái
kinh tế, sự cạnh tranh quá mạnh trên thị trường.
+ Rủi ro do thanh toán quốc tế như tỷ giá đồng tiền thay đổi.
Trong bài viết này tôi xin phép đi sâu vào tín dụng đầu tư của Ngân
hàng.
II/ Tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng thương mại đối với nền kih tế
1- Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế thị trường:
Ngân hàng thương mại là một tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động
chủ yếu, thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng và cho khách hàng
vay vốn để sản xuất kinh doanh. Mục đích hoạt động của Ngân hàng thương
mại là để thu lợi nhuận.
Từ các hoạt động Ngân hàng truyền thống đến các hoạt động Ngân hàng
hiện đại, từ hoạt động chủ yếu nằm trong bảng tổng kết tài sản nội bảng đến
việc mở rộng các hoạt động ra ngoài bảng tổng kết tài sản tất cả đều diễn ra
trong một môi trường cạnh tranh ngày càng sâu sắc và khốc liệt, không phải
trong phạm vi từng nước, từng khu vực mà còn trải rộng ra một không gian
rộng lớn hơn nhiều. Ngân hàng thương mại làm nhiệm vụ bơm vốn từ người
cho vay sang người đi vay. ở đây Ngân hàng thương mại không chỉ huy động
vốn phần lớn dưới hình thức ngấn hạn và cho vay ngấn hạn, mà do thị trường
tiền tệ ngày càng phát triển các Ngân hàng thương mại đi vào kinh doanh
tổng hợp, đa năng, làm cả nghiệp vụ huy động vốn và cho vay trung, dài hạn
và làm tất cả các nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng. Với sự toàn cầu hoá, khu
vực hoá nền kinh tế, cùng với quá trình đổi mới và mở cửa của nền kinh tế
nước ta với thế giới bên ngoài đã và đang đặt ra yêu cầu thích ứng của các

Ngân hàng thương mại trong quá trình hoạt động trong điều kiện hiện tại và
định hướng phát triển trong tương lai, góp phần tích cực vào việc thực hiện
thành công sự nghiệp CNH - HĐH đất nước. Tuy nhiên mỗi Ngân hàng đều
có những định hướng chủ yếu trong hoạt động của mình.
2- Tín dụng và các vấn đề có liên quan đến hoạt động tín dụng của các Ngân
hàng thương mại :
Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở
hữu nó sang người sử dụng nó, sau một thời gian nhất định được quay về với
người sở hữu nó với một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu (bao gồm
cả gốc và lãi)
Trong nền kinh tế thị trường, do yêu cầu của nền kinh tế về việc xây
dựng cơ sở vật chất để phát triển nền kinh tế trong khi đó ngân sách Nhà nước
không phải là vô hạn, muốn đáp ứng nhu cầu xây dựng cơ sở vật chất cho nền
kinh tế phát triển nhanh, nhất thiết phải có hoạt động tín dụng để nó tập trung

- 9 -

vốn tiền tệ nhàn rỗi để trợ giúp cho ngân sách Nhà nước. Thông qua hoạt
động tín dụng góp phần kiểm tra kiểm soát nền kinh tế. Trong đó thực hiện
hình thức tín dụng Ngân hàng có vị trí hết sức quan trọng, bởi vì hình thức tín
dụng Ngân hàng có mối quan hệ rất rộng rãi ở trong nền kinh tế, chủ thể của
nó là Ngân hàng, khách thể của nó là tất cả các thành phần kinh tế của nền
kinh tế. Đồng thời đối tượng hoạt động của tín dụng Ngân hàng là tiền, vì vậy
tín dụng Ngân hàng có ưu điểm đặc biệt của nó. Hiện nay tín dụng Ngân hàng
là hoạt động chủ yếu của các Ngân hàng thương mại, nó tạo ra thu nhập cho
Ngân hàng, cho Nhà nước, cho xã hội.
Nội dung chủ yếu của hoạt động tín dụng tại các Ngân hàng thương
mại bao gồm:
2.1. Qui mô tín dụng:
Qui mô tín dụng của một Ngân hàng thương mại (khả năng cung cấp

tín dụng) thể hiện qua tỷ trọng tín dụng trong tài sản có của Ngân hàng thương
mại đó. Một tỷ trọng tín dụng cao trong tài sản có của Ngân hàng thương mại
sẽ cho phép Ngân hàng thương mại thu được lợi nhuận cao, vì hiện nay tín
dụng vẫn là nghiệp vụ mang lại từ 70-80% thu nhập cho các Ngân hàng
thương mại Việt Nam.
2.2. Giới hạn tín dụng:
Giới hạn tín dụng tức là định ra các mức độ tham gia vốn tín dụng của
Ngân hàng thương mại vào một dự án nào đó, thương vụ nào đó hay vào một
hoạt động kinh doanh nào đó của một doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân ở trong
nền kinh tế. Giới hạn tín dụng thường lệ thuộc vào các yếu tố sau đây: khối
lượng vốn mà Ngân hàng thương mại huy động được. Sự ổn định hay bất ổn
định của nền kinh tế. Uy tín và tình trạng tài chính của người vay vốn. Nhu
cầu vay vốn của người vay. Mức độ hạn chế hoặc khả năng giúp đỡ của Ngân
hàng Trung ương.
2.3. Các loại hình tín dụng:
Một Ngân hàng có thể chọn một hoặc nhiều loại hình tín dụng thích
hợp, tuỳ theo khả năng về nhân lực và tính chất ổn định của nguồn vốn và tình
hình của nền kinh tế, đồng thời Ngân hàng thương mại cũng cần phải nghiên
cứu tình hình thực tiễn trên địa bàn để chọn một loại hình tín dụng làm mũi
nhọn tài trợ chủ yếu hoặc thực hiện phân tán tín dụng trên nhiều loại tín dụng
khác nhau. Hiện nay ta thấy có một số loại hình tín dụng sau: Căn cứ theo thời
gian vay vốn là tín dụng ngắn hạn, tín dụng trung và dài hạn. Căn cứ theo
phương thức hoàn trả là tín dụng luân chuyển, tín dụng theo món ngoài ra còn
căn cứ mục đích vay như tín dụng chứng từ, tín dụng thuê mua, tín dụng tiêu
dùng
2.4. Các lĩnh vực tài trợ của tín dụng:

- 10 -

Lĩnh vực tài trợ của tín dụng chính là việc các Ngân hàng chọn lựa và

tiến hành chuyên môn hoá việc tài trợ tín dụng cho một ngành sản xuất hay
một lĩnh vực chuyên môn nào đó hoặc phân tán tín dụng trên nhiều ngành,
nhiều đơn vị doanh nghiệp khác nhau. Tiến hành chuyên môn hoá như vậy sẽ
có lợi cho Ngân hàng trong quá trình kinh doanh vì dễ dàng nắm bắt các nhu
cầu về tín dụng của lĩnh vực tài trợ, kiểm soát được rủi ro và có thể đưa ra
được những sản phẩm thích ứng cả về qui mô và chất lượng phục vụ của Ngân
hàng. Trên thực tế hiện nay các Ngân hàng thương mại thường tìm cách đa
dạng hoá các lĩnh vực tài trợ, nhưng cũng lựa chọn một lĩnh vực tài trợ nhất
định làm thế mạnh để cạnh tranh với các Ngân hàng khác, việc tài trợ có thể
sử dụng hình thức tài trợ khép kín cả ngắn, trung và dài hạn.
2.5. Chọn lựa kỳ hạn tín dụng:
Kỳ hạn tín dụng dài hay ngắn nó sẽ ảnh hưởng tới thanh khoản và sự
rủi ro của kinh doanh tín dụng. Kỳ hạn tín dụng càng dài, mức độ rủi ro càng
cao và thanh khoản càng khó khăn. Kỳ hạn tín dụng hoàn toàn phụ thuộc vào
chu kỳ sản xuất, khả năng trả nợ của người vay, song chính Ngân hàng cũng
phải định ra một kỳ hạn thế nào đó vừa đảm bảo lợi ích của Ngân hàng (ít rủi
ro) vừa hấp dẫn người vay. Tính chất của nguồn vốn huy động được với thời
gian dài hay ngắn, lãi suất cao hay thấp cũng quyết định việc chọn lựa kỳ hạn
tín dụng của Ngân hàng thương mại.
2.6. Rủi ro tín dụng:
Rủi ro trong tín dụng có thể do phía khách hàng đem lại, có thể do
chính chủ quan của Ngân hàng hoặc có thể do thay đổi về chính sách vĩ mô.
Một chính sách tín dụng đúng là một chính sách tín dụng an toàn, ít rủi ro. Sự
rủi ro tín dụng có thể dẫn đến tình trạng như: lạm phát, suy thoái kinh tế Vì
vậy trong hoạt động tín dụng các Ngân hàng cần phải xây dựng các biện pháp
an toàn, phòng ngừa rủi ro và thực hiện tốt qui trình công nghệ tín dụng.
2.7. Giá cả tín dụng (lãi suất):
Lãi suất là tỷ lệ % theo số tiền vay, mà người vay phải tính ra để trả cho
Ngân hàng cho vay. Lãi suất thường được tính theo tháng hoặc năm. Lãi suất
tín dụng chịu ảnh hưởng của các yếu tố như: lãi phải trả cho người gửi, chi phí

quản lý của Ngân hàng, rủi ro tín dụng, chi phí cơ hội để có thể đầu tư vào các
khoản khác, sự cạnh tranh của các Ngân hàng khác, quan hệ giữa Ngân hàng
với người vay. Có các loại lãi suất như lã suất cố định, lãi suất thay đổi.
Việc áp dụng lãi suất nào do người vay và Ngân hàng thoả thuận theo
hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước và được ký kết trong hợp đồng tín dụng.
ở nước ta hiện nay theo qui định mới nhất thì: mức lãi suất cho vay do tổ chức
tín dụng và khách hàng thoả thuận nhưng phải phù hợp với qui định của Ngân
hàng Nhà nước về lãi suất cho vay tại thời điểm ký kết hợp đồng tín dụng.

- 11 -

Mức lãi suất cơ bản làm cơ sở cho tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho
vay đối với khách hàng được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công
bố hàng tháng cộng với biên độ dương đối với từng loại cho vay của tổ chức
tín dụng.
3- Tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng thương mạI đối với nền kinh tế:
Để thực hiện chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước, đồng
thời để đổi mới cơ chế quản lý trong lĩnh vực đầu tư và XDCB, từng bước xoá
bỏ bao cấp trong đầu tư, nâng cao hiệu quả đầu tư trong các dự án, công trình
và hiệu quả đầu tư của toàn nền kinh tế quốc dân. Trong những năm vừa qua
Chính phủ, ngành Ngân hàng và một số ngành chức năng khác đã ban hành rất
nhiều các loại văn bản có liên quan tới lĩnh vực tín dụng đầu tư của các Ngân
hàng thương mại, đặc biệt là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển đối với nền kinh
tế. Cho đến nay Chính phủ và ngành Ngân hàng cũng đã nhiều lần sửa đổi bổ
sung hướng dẫn thực hiện cho phù hợp với tình hình thực tế. Những văn bản
mới nhất hiện nay có liên quan đến lĩnh vực này là: NĐ 52/1999/NĐ-CP ngày
8/7/1999 của Chính phủ về Quy chế Quản lý đầu tư xây dựng cơ bản; Nghị
định số 43/1999/NĐ-CP về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước,
QĐ13/1999/QĐ-TTg ngày 4/2/1999 về công tác tín dụng đầu tư năm 1999;
NĐ178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ về đảm bảo tiền vay

của các tổ chức tín dụng; TT số 06/2000/TT-NHNN1 ngày4/4/2000 của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn thực hiện NĐ số 178/1999/NĐ-CP; QĐ
số 284/2000/QĐ-NHNN1 ngày 25/8/2000 của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam về Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
Song, nội dung chính và chủ yếu của các văn bản đó là:
- Bên vay: là pháp nhân và cá nhân hoạt động theo pháp luật Việt Nam
bao gồm: Doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty TNHH, HTX,
doanh nghiệp tư nhân, xí nghiệp liên doanh vốn với nước ngoài, xí nghiệp
100% vốn nước ngoài tại Việt Nam, cá thể và hộ sản xuất.
- Mục đích cho vay: Cho vay vốn tín dụng trung, dài hạn để đầu tư cho
các dự án xây dựng mới, mở rộng, cải tạo, khôi phục đổi mới kỹ thuật, ứng
dụng khoa học kĩ thuật và công nghệ nhằm mục tiêu khai thác tiềm năng để
phát triển kinh tế phù hợp với mục tiêu chính sách phát triển kinh tế xã hội và
pháp luật Nhà nước và lợi nhuận. Các dự án được đầu tư phải được xác định
có hiệu quả kinh tế, trực tiếp tăng sản lượng hàng hoá, tăng nộp ngân sách,
tăng tích luỹ cho doanh nghiệp và thu nhập cho người lao động, hoàn trả vốn
vay gốc và lãi cho Ngân hàng đúng thời gian cam kết, phải có tài sản thế chấp,
cầm cố hoặc người bảo lãnh thứ 3 theo qui chế của Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam.
- Cho vay trung, dài hạn: thời hạn cho vay được xác định phù hợp với
thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng và tính

- 12 -

chất nguồn vốn cho vay của tổ chức tín dụng. Thời hạn cho vay trung hạn từ
12 tháng đến 60 tháng; Thời hạn cho vay dài hạn từ trên 60 tháng trở lên
nhưng không quá thời hạn hoạt động còn lại theo Quyết định thành lập hoặc
Giấy phép thành lập đối với pháp nhân và không quá 15 năm đối với các dự
án đầu tư phục vụ đời sống.
4- Vai trò tín dụng trung, dài hạn của Ngân hàng:

Thông qua tín dụng đầu tư của Ngân hàng, trên cơ sở mục tiêu định
hướng của Nhà nước, của địa phương, Ngân hàng xem xét lựa chọn những
phương án có hiệu quả để đầu tư. Đầu tư tín dụng có hiệu quả nó sẽ thúc đẩy
mở rộng sản xuất khai thác tiềm năng thế mạnh của doanh nghiệp, từng vùng
kinh tế và của địa phương. Nó sẽ trang bị bổ sung nhiều thiết bị công nghệ
mới hiện đại, kĩ thuật tiên tiến cho các doanh nghiệp nói riêng và nền kinh tế
nói chung. Nó làm tăng thêm sản phẩm cho xã hội, tăng thu ngân sách, tăng
thêm doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp và thu nhập cho người lao
động, thu hút tạo công ăn việc làm cải thiện đời sống cho lực lượng lao động
trong xã hội.Từ đó thúc đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước.
Thông qua việc đầu tư tín dụng nó làm cho các doanh nghiệp nâng cao
chất lượng trong hạch toán kinh tế, làm lành mạnh tài chính doanh nghiệp.
Bởi vì thông qua việc đầu tư tín dụng Ngân hàng cùng với doanh nghiệp xem
xét đánh giá tỷ mỷ từng yếu tố, xác định tính toán từng yếu tố chi phí để có
giá thành hợp lý. Từ đó xác định nguồn trả nợ, thời gian thu hồi vốn, do vậy
thông qua việc đầu tư tín dụng giúp cho các doanh nghiệp xem xét lại tình
hình công nợ, phân tích các khoản phải thu, phải trả và tìm biện pháp giải
quyết. Mặt khác nó còn tác động với địa phương, các ngành qua cơ cấu nguồn
vốn tham gia.
Tín dụng đầu tư góp phần lập lại trật tự kỷ cương trong XDCB, nó làm
cho chủ các dự án, chủ công trình phải thực hiện và tuân thủ đúng trình tự
XDCB, thực hiện đúng mục đích của tín dụng đầu tư, tránh tình trạng hồ sơ dự
án không đầy đủ cũng được vay vốn, vốn vay sử dụng sai mục đích đồng
thời cũng thông qua đó góp phần nâng cao trình độ quản lý, trình độ KHKT
của cán bộ doanh nghiệp.
Tín dụng trung, dài hạn là nguồn trợ thủ đắc lực của doanh nghiệp
trong việc thoả mãn các cơ hội kinh doanh. Nó linh hoạt hơn các hình thức
huy động vốn dài hạn khác như: trái phiếu, cổ phiếu. Trong điều kiện của
nước ta hiện nay cũng như trong thời gian tới nhu cầu về vốn trung, dài hạn

cho đầu tư các công trình SXKD mới, hiện đại hoá các cơ sở sản xuất, mở
rộng các ngành sản xuất đang đòi hỏi có một nguồn vốn lớn. Nhưng cho dù
các nguồn vốn cung cấp từ đâu để đáp ứng yêu cầu đó, thì việc cung cấp tín
dụng thông qua hệ thống các Ngân hàng thương mại nói chung, Ngân hàng

- 13 -

Đầu tư và Phát triển nói riêng dưới hình thức cho vay trung, dài hạn là rất
quan trọng. Bởi vì Ngân hàng thương mại có kinh nghiệm trong công tác quản
lý, kinh doanh tiền tệ, thẩm định dự án các công trình đầu tư, nắm bắt được thị
trường Do vậy các Ngân hàng thương mại tài trợ vốn trung, dài hạn cho các
doanh nghiệp vừa đảm bảo được tính hiệu quả cao trong công tác quản lý vĩ
mô về mặt tốc độ, cơ cấu sản xuất, vừa đảm bảo được lợi ích các doanh
nghiệp.
III.Chất lượng tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng thương mại
1- Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn của ngân hàng
thương mại:
Xuất phát từ chức năng nhiệm vụ của Ngân hàng thương mại cũng như
vai trò của tín dụng trung, dài hạn đã trình bày ở phần trên có thể tóm tắt là:
Hoạt động của ngân hàng thương mại gắn bó mật thiết với hệ thống lưu
thông tiền tệ và hệ thống thanh toán trong nước, đồng thời có mối liên hệ quốc
tế rộng rãi. Hoạt động của ngân hàng thương mại đa dạng, phong phú và có
phạm vi rộng lớn, trong khi các tổ chức tài chính khác thường hoạt động trên
một vài lĩnh vực hẹp và theo hướng chuyên sâu.
Ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của
nền kinh tế, Ngân hàng là nơi cung cấp vốn cho nền kinh tế: vốn được tạo ra
từ quá trình tích luỹ, tiết kiệm của mỗi cá nhân, doanh nghiệp trong nền kinh
tế, vậy muốn có nhiều vốn phải tăng thu nhập quốc dân và giảm nhịp độ tiêu
dùng. Để tăng thu nhập quốc dân tức là để mở rộng quy mô chiều rộng lẫn
chiều sâu của sản xuất và lưu thông hàng hoá, đẩy mạnh sự phát triển của các

ngành kinh tế cần thiết phải có vốn, ngược lại khi nền kinh tế càng phát triển
sẽ tạo ra nhiều vốn. Ngân hàng thương mại là chủ thể đáp ứng nhu cầu vốn
cho sản xuất kinh doanh; nhờ có hoạt đông của hệ thống ngân hàng thương
mại và đặc biệt là hoạt động tín dụng trung, dài hạn khách hàng có điều kiện
hoạt động mở rộng sản xuất, cải tiến may móc công nghệ, tăng năng suất lao
động, nâng cao hiệu quả kinh tế.
Để có thể đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của thị trường, khách hàng
không những cần nâng cao chất lượng lao động, củng cố và hoàn thiện cơ chế
quản lý kinh tế, chế độ hạch toán kế toán mà còn phải không ngừng cải tiến
máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ, tìm tòi sử dụng nguyên vật liệu mới,
mở rộng quy mô sản xuất một cách thích hợp. Những hoạt động này đòi hỏi
một khối lượng lớn vốn đầu tư nhiều khi vượt quá khả năng vốn tự có của
doanh nghiệp. Giải quyết khó khăn này, khách hàng có thể tìm đến ngân hàng
để vay vốn thoả mãn nhu cầu đầu tư của mình. Chính vì những lý do trên mà
phải cần thiết nâng cao chất lượng tín dụng trung, dài hạn.

- 14 -

Để đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn có thể căn cứ vào các
chỉ tiêu sau:
2- Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng Trung, dài hạn của NHTM:
2.1. Xét trên giác độ Ngân hàng:
2.1.1 về số lượng khách hàng:
Sự gia tăng số lượng khách hàng qua các năm cũng là một chỉ tiêu đánh
giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn. Khi số lượng khách hàng ở Ngân hàng
tăng lên liên tục và đồng đều qua các năm là một trong các dấu hiệu cho thấy
thể hiện lòng tin của khách hàng với Ngân hàng vầ chất lượng công tác tín
dụng nói chung và tín dụng trung, dài hạn nói riêng ở Ngân hàng được đảm
bảo.
2.1.2. Doanh số cho vay và mức dư nợ:

Doanh số cho vay và mức dư nợ luôn luôn tăng lên năm sau cao hơn
năm trước cho thấy chất lượng tín dụng tín dụng trung, dài hạn được đảm bảo.
- Tổng dư nợ trung, dài hạn so với nguồn vốn huy động so với nguồn
vốn cho vay trung, dài hạn: Chỉ tiêu này càng cao chứng tỏ hiệu quả sử dụng
của đồng vốn huy động lớn. Chỉ số này so sánh khả năng cho vay của Ngân
hàng với vốn huy động.
- Dư nợ hữu hiệu (có khả năng sinh lời)/ Tổng dư nợ: chỉ số này đánh giá
chất lượng tín dụng. Nếu chỉ số càng cao thì chất lượng càng tốt.
- Tổng dư nợ/ Tài sản có: Chỉ số này phản ánh quy mô tín dụng trong tổng
tài sản có. Chỉ số này càng cao chứng tỏ chất lượng công tác tín dụng càng tốt,
quy mô hoạt động kinh doanh của Ngân hàng lớn.
2.1.3 Nợ quá hạn trên tổng dư nợ:
Đây là chỉ tiêu quan trọng đo lường chất lượng nghiệp vụ tín dụng
trung, dài hạn, các Ngân hàng có chỉ số này thấp đã chứng minh được chất
lượng tín dụng cao của mình. Thường là chỉ tiêu này được so sánh giữa số dư
nợ quá hạn trung, dài hạn trên tổng dư nợ tín dụng trung, dài của Ngân hàng.
Nhìn chung hiện nay chỉ tiêu này của một Ngân hàng dưới dưới mức 2% là
hợp lý.
2.1.4 Chỉ tiêu về vòng quay vốn:
Nếu chất lượng tín dụng tốt tức là khách hàng có khả năng trả nợ đúng
hạn hoặc có thể trước thời hạn, qua đó giúp Ngân hàng có thể tăng số vòng
quay vốn, đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn của Ngân hàng.

- 15 -

2.1.5 lợi nhuận:
Khoản lợi nhuận thu về từ nghiệp vụ tín dụng trung, dài hạn chiếm tỷ
trọng lớn trong tổng thu nhập của Ngân hàng cũng là chỉ tiêu quan trọng để
đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn. Bởi vì trong nền kinh tế thị
trường, các NHTM đều hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận và các khoản lợi

nhuận đạt được đều cho thấy trình độ tổ chức, quản lý và chất lượng hiệu quả
của nghiệp vụ tín dụng trung, dài hạn.
Ngoài các chỉ tiêu trên thì việc đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài
hạn còn có thể sử dụng một số chỉ tiêu định tính như: Sự tôn trọng và chấp
hành các quy chế tín dụng do NHNN và Ngân hàng cấp trên đề ra trong suốt
quá trình thực hiện mối quan hệ tín dụng giữa NHTM với khách hàng của
mình.
2.2. Xét trên giác độ nền kinh tế mà cụ thể là từ các khách hàng:
Muốn đánh giá chất lượng của tín dụng trung, dài hạn từ phía người sử
dụng vốn, thì ngoài việc phân tích tình hình tài chính khách hàng trước khi
cho vay thì sau khi dự án đã được đưa vào sản xuất, sử dụng điều trước tiên
cần làm là: Thực hiện phân tích tình hình kinh tế, tài chính của khách hàng.
Quá trình phân tích đó ta sẽ có được các chỉ tiêu về kết quả SXKD của khách
hàng như: Sự gia tăng về số lượng sản phẩm sản xuất ra, mức cạnh tranh của
sản phẩm trên thị trường, mức lợi nhuận thu được từ sản phẩm đó, đây là tiền
đề là cơ sở cho việc thu hồi vốn đầu tư nói chung và nợ vay trung, dài hạn.
Các chỉ tiêu khác có liên quan để đánh giá chất lượng tín dụng trung,
dài hạn đó là vốn tự có của khách hàng (như mức độ và tốc độ gia tăng vốn tự
có, vòng quay của vốn tự có), vòng quay vốn tín dụng, hiệu quả sử dụng vốn
cũng như về tình hình và khả năng thanh toán của khách hàng. Nếu một khách
hàng có thu nhập thường xuyên và ổn định từ dự án đầu tư bằng nguồn vốn
vay trung, dài hạn của Ngân hàng chứng tỏ nguồn vốn tín dụng trung, dài hạn
của Ngân hàng đã được sử dụng có hiệu quả và khoản tín dụng đó chắc chắn
sẽ được hoàn trả đúng hạn cả gốc và lãi, tức là chất lượng công tác tín dụng
tín dụng trung, dài của Ngân hàng được đảm bảo.
Ngoài ra xét trên giác độ kinh tế thì chất lượng của công tác tín dụng
trung, dài hạn còn thể hiện sử dụng vốn vay Ngân hàng của khách hàng sử
dụng khoản tiền vay có đúng mục đích và đối tượng như đã đề ra khi xin vay
hay không, khoản vay có vượt quá hạn mức quy định hay không. Mặt khác,
chất lượng tín dụng trung, dài hạn còn được thể hiện ở việc dự án được đầu tư

nó tạo ra một khối lượng công ăn việc làm cho người lao động trong xã hội,
bởi vì việc đầu tư một dự án bằng nguồn vốn tín dụng trung, dài hạn có hiệu
quả sẽ góp phần mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh của khách hàng đó và
sẽ thu hút thêm nhiều lao động từ mọi tầng lớp trong xã hội; thúc đẩy chuyển

- 16 -

dịch cơ cấu kinh tế, khai thác tiềm năng thế mạnh từng vùng kinh tế góp phần
phân bố lại lực lượng lao động.
Đánh giá chất lượng tín dụng trung, dài hạn không chỉ xem xét đánh giá
đơn thuần mà qua việc đánh giá phải kịp thời, chính xác, phân tích một cách
cụ thể là các chứng cứ quan trọng để trên cơ sở đó Ngân hàng có thể đề ra và
thay đổi định hướng, chiến lược của mình. Nếu công tác tín dụng trung, dài
hạn trung, dài hạn đạt chất lượng cao nó sẽ đem đến những ý nghĩa kinh tế
quan trọng không chỉ đối với Ngân hàng và người được cấp tín dụng mà nó
còn có những tác động to lớn đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
3- Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung, dài hạn
3.1. Sự phát triển kinh tế của một quốc gia:
Hoạt động của Ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng trung, dài
hạn nói riêng đạt hiệu quả cao hay thấp, rủi ro ít hay nhiều đều có quan hệ hữu
cơ khăng khít tới sự phát triển kinh tế của một quốc gia.
3.2. Nhân tố luật pháp:
Nhân tố luật pháp có vị trí hết sức quan trọng đối với chất lượng hoạt
động Ngân hàng, mà đặc biệt là hoạt động tín dụng trung, dài hạn. Luật pháp
nó tạo môi trường hành lang pháp lý cho mọi hoạt động của Ngân hàng. Nhân
tố luật pháp ở đây bao gồm tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, tính đầy đủ
và thống nhất của các văn bản dưới luật đồng thời gắn liền với nó là quá trình
chấp hành luật pháp và trình độ dân trí trong xã hội.
3.3. Năng lực chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh doanh của khách
hàng:

Các yếu tố của khách hàng có ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng trung,
dài hạn là:
- Năng lực về vốn, về tài sản của khách hàng có đủ mức vốn tự có của
mình để tham gia vào dự án hay không, tiếp đó là nguồn vốn chủ sở hữu tham
gia vào quá trình SXKD của đơn vị có đủ hay không và nếu có thì ở mức độ
nào.
- Chất lượng hoạt động SXKD của khách hàng tốt hay xấu.
- Tương lai phát triển của khách hàng ở mức độ nào; dự án, phương án
SXKD của khách hàng có đủ khả năng để tồn tại và phát triển trong sự cạnh
tranh quyết liệt của cơ chế thị trường được hay không.
- Mức độ chuyển biến về nhận thức, quan điểm, tâm lý của lãnh đạo
doanh nghiệp trong điều kiện cơ chế thị trường ở mức độ nào? Họ đã có đầy

- 17 -

đủ ý thức vay trả chưa hay vẫn mang nặng tư tưởng bao cấp, trông chờ nguồn
vốn được cấp, được vay ưu đãi.
- Trình độ quản trị điều hành, uy tín của người đứng đầu của doanh
nghiệp ở mức độ nào, đã đáp ứng được mực độ nào trong nền kinh tế thị
trường.
3.4. Nhân tố thuộc chủ quan NHTM:
3.4.1. Chính sách tín dụng;
Chính sách tín dụng của Ngân hàng phải phù hợp với đường lối phát
triển kinh tế của Đảng và Nhà nuức đồng thời đảm bảo kết hợp hài hoà giữa
quyền lợi của khách hàng và của Ngân hàng. Đối với NHTM một chính sách
tín dụng đúng đắn phải đảm bảo khả năng sinh lời của hoạt động tín dụng trên
cơ sở phân tán rủi ro, tuân thủ luật pháp và đường lối chính sách của Đảng,
đảm bảo công bằng xã hội. Muốn vậy, chính sách tín dụng phải được xây
dựng một cách đúng đắn trên cơ sở các căn cứ khoa học.
3.4.2. Công tác tổ chức quản lý của Ngân hàng:

Tổ chức quản lý của Ngân hàng cần được cụ thể hoá và xắp xếp một
cách khoa học, có tính linh hoạt trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc tín dụng
đã được quy định cả về huy động vốn cũng như cho vay và quản lý được cơ
cấu tài sản nợ, tài sản có của Ngân hàng. Đây chính là những cơ sở để tiến
hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh. Do hoạt động tín dụng có khả năng
rủi ro lớn hơn tất cả các loại hình kinh doanh khác nên cần có sự phối hợp
chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các phòng ban, bộ phận trong từng Ngân hàng,
trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng cũng như giữa các Ngân hàng với các cơ
quan khác như: Tài chính, pháp lý thiết lập mối quan hệ giữa các bộ phận
trên sẽ tạo điều kiện cho việc quản lý có hiệu quả các khoản vốn tín dụng,
phát hiện và giải quyết kịp thời các khoản tín dụng khi cần thiết.
3.4.3. Chất lượng cán bộ tín dụng:
Chất lượng cán bộ là yếu tố quyết định đến sự thành bại trong quản lý
vốn tín dụng nói riêng và đến hoạt động của Ngân hàng nói chung, nghiệp vụ
hoạt động Ngân hàng ngày càng phát triển đòi hỏi chất lượng cán bộ ngày
càng cao để đáp ứng với sự phát triển nghiệp vụ. Việc tuyển chọn cán bộ tín
dụng phải đảm bảo cả về đạo đức và trình độ chuyên môn và có kinh nghiệm.
3.4.4. Thông tin tín dụng:
Là yếu tố cơ bản trong quản lý tín dụng của Ngân hàng. Trong nền kinh
tế thị trường ai nắm bắt được nhiều thông tin kịp thời, chính xác hơn, người
đó xẽ chiến thắng trong cạnh tranh. Nhờ có thông tin tín dụng mà người quản

- 18 -

lý có thể đưa ra những quyết định cần thiết có liên quan đến cho vay, theo dõi
và quản lý tài khoản cho vay. Thông tin tín dụng càng nhanh nhạy, chính xác
và toàn diện thì khả năng phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng càng lớn. Đáng chú ý là việc thu thập thông tin, phân tích các báo
cáo về tình hình tài chính của doanh nghiệp và tổ chức kinh tế sẽ đầy đủ và
chính xác thì khả năng rủi ro càng giảm.

3.4.5. Kiểm tra kiểm soát nội bộ:
Kiểm tra kiểm soat nội bộ sẽ phát hiện nhanh chóng những thiếu sót
trong việc thực hiện các quy trình tín dụng của cán bộ ngân hàng, qua đó có
biện pháp xử lý kịp thời ngăn chặn những rủi ro xảy ra đối với hoạt động tín
dụng của ngân hàng, nâng cao chất lượng tín dụng.
Ngoài các nội dung trên thì trong quá trình cho vay bắt đầu từ khi
chuẩn bị cho vay, phát tiền vay, kiểm tra việc sử dụng vốn vay cho đến khi
thu hồi được nợ. Quá trình cho vay, chuẩn bị cho vay rất quan trọng, làm tốt
khâu này sẽ tạo điều kiện cho vốn tín dụng luân chuyển nhanh, đảm bảo chất
lượng tín dụng.
iV/ Cơ chế chính sách có liên quan đến việc nâng cao chất lương tín dụng trung, dài
hạn.
1- Những qui định chung về cho vay trung, dài hạn tại Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển:
1.1. Nguyên tắc:
- Vốn vay phải sử dụng đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín
dụng.
- Phải hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn đã thoả thuận trong hợp
đồng tín dụng.
- Việc đảm bảo tiền vay phải thực hiệ quy định của Chính phủ và của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
1.2. Điều kiện vay vốn:
Bên vay vốn phải có đầy đủ các điều kiện sau đây:
- Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách
nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật.
- Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
- Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.

- 19 -


- Có dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi, có hiệu
quả. Hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi kèm theo
phương án trả nợ khả thi.
- Thực hiện các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của Chính
phủ và hướng dẫn của thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
1.3. Đối tượng cho vay:
Là các chi phí cấu thành trong tổng mức vốn đầu tư của dự án đầu tư
xây dựng mới, mở rộng, cải tạo, khôi phục, đổi mới kĩ thuật, ứng dụng khoa
học công nghệ bao gồm: giá trị vật tư máy móc, công nghệ chuyển giao, sáng
chế và phát minh, chi phí nhân công, giá thuê và chuyển nhượng đất đai, giá
thuê mua các tài sản khác trong khuôn khổ luật định, chi phí mua bảo hiểm tài
sản thuộc dự án đầu tư, chi phí khác
Đối tượng Ngân hàng không cho vay là các dự án không đảm bảo thời
gian thi công, không hoàn thành theo đúng kỳ hạn mà không có nguyên nhân
đúng đắn. Các dự án không đảm bảo hiệu quả kinh tế, các dự án có tính chất
thử nghiệm, các khối lượng phát sinh không có trong dự toán.
1.4. Nguồn vốn cho vay:
Các nguồn vốn Ngân hàng sử dụng cho vay trung, dài hạn (cho vay đầu
tư các dự án) bao gồm:
- Nguồn vốn ngân sách Nhà nước chuyển sang cho vay các dự án, công
trình theo kế hoạch Nhà nước từ năm 1990, thu nợ từ các dự án đã đầu tư
trước đây,
- Vốn tự có và quĩ dự trữ.
- Vốn huy động và đi vay trong nước và ngoài nước từ 1 năm trở lên
như trái phiếu ngân hàng, kỳ phiếu
- Một phần vốn huy động trong nước có kỳ hạn dưới 1 năm do Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước qui định (Chủ yếu dùng cho vay trung hạn thời gian
ngắn).
- Vốn nhận uỷ thác và vốn tài trợ của các tổ chức kinh tế tài chính, tín
dụng, xã hội ở trong nước và nước ngoài.

- Nguồn vốn từ các Hiệp định khung tài trợ với ngân hàng nước ngoài
do ngân hàng đầu tư và Phát triển Việt nam ký hàng năm.
1.5. Mức cho vay và thời hạn vay:

- 20 -

Tổ chức tín dụng căn cứ vào nhu cầu vay vốn của khách hàng, quy định
của chính phủ tại Nghị định số 178/1999/NĐ-CP về mức cho vay so với giá trị
tài sản làm bảo đảm khả năng hoàn trả nợ của khách hàng vay và khả năng
nguồn vốn của mình để quyết định mức cho vay. Mức cho vay đối với một dự
án đầu tư của bên vay bằng tổng mức vốn đầu tư của dự án trừ đi vốn tự có
tham gia, vốn ngân sách cấp, liên doanh và các nguồn vốn khác đầu tư cho dự
án.
Theo qui định mới nhất của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước tại quyết
định số 284/2000/QĐ-NHNN1 ngày 25/8/2000 thì: Thời hạn cho vay được
xác định phù hợp với thời hạn thu hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ
của khách hàng và tính chất của nguồn vốn cho vay của tổ chức tín dụng.
- Thời hạn cho vay trung hạn từ 12 tháng đến 60 tháng
- Thời hạn cho vay dài hạn từ trên 60 tháng trở lên nhưng không quá
thời hạn hoạt động còn lại theo Quyết định thành lập hoặc Giấy phép thành
lập đối với pháp nhân và không quá 15 năm đối với cho vay các dự án đầu tư
phục vụ đời sống.
1.6. Lãi suất cho vay:
- Mức lãi suất cho vay do Ngân hàng và khách hàng thoả thuận phù hợp
với qui định của Ngân hàng Nhà nước về lãi suất cho vay tại thời điểm ký kết
hợp đồng tín dụng. ở nước ta hiện nay theo qui định mới nhất thì: mức lãi suất
cho vay do tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận nhưng phải phù hợp với
qui định của Ngân hàng Nhà nước về lãi suất cho vay tại thời điểm ký kết hợp
đồng tín dụng.
Mức lãi suất cơ bản làm cơ sở cho tổ chức tín dụng ấn định lãi suất cho

vay đối với khách hàng được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công
bố hàng tháng cộng với biên độ dương đối với từng loại cho vay của tổ chức
tín dụng.
- Lãi suất cho vay ưu đãi được áp dụng đối với các khách hàng được ưu
đãi về lãi suất theo qui định của Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà
nước.
- Trường hợp khoản vay bị chuyển sang nợ quá hạn phải áp dụng lãi
suất nợ quá hạn theo mức qui định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước tại
thời điểm ký hợp đồng tín dụng.
1.7. Giới hạn cho vay:
- Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng không được vượt quá 15%
vốn tự có của Ngân hàng cho vay, trừ trường hợp đối với những khoản cho

- 21 -

vay từ các nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ, của các tổ chức cá nhân. Trường
hợp nhu cầu vốn của khách hàng vượt quá 15% vốn tự có hoặc khách hàng có
nhu cầu huy động vốn từ nhiều nguồn thì Ngân hàng cho vay hợp vốn theo
qui định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước.
Trong trường hợp đặc biệt, Ngân hàng chỉ được cho vay vượt quá mức
giới hạn cho vay theo qui định trên khi được Thủ tướng Chính phủ cho phép
với từng trường hợp cụ thể.
2- Qui trình tín dụng đầu tư tại các chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển:
Qua 10 năm triển khai thực hiện đầu tư phát triển, trên cơ sở vừa làm
vừa đúc rút kinh nghiệm trong công tác quản lý chỉ đạo, điều hành, thẩm
định Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung ương đã có nhiều văn bản
hướng dẫn và cho đến nay Ngân hàng Đầu tư và Phát triển đang thực hiện qui
trình tín dụng đầu tư (qui trình công nghệ) bao gồm các bước như sau:
* Bước 1: Tiếp cận khách hàng và tiếp nhận hồ sơ, gồm:
- Tiếp cận để lựa chọn khách hàng và dự án

- Tìm hiểu khách hàng
- Hướng dẫn lập hồ sơ
* Bước 2: Ký kết hợp đồng tín dụng. Gồm
- Kiểm tra hồ sơ, thẩm định dự án
- Quyết định cho vay.
- Ký kết hợp đồng tín dụng, khế ước vay vốn
* Bước 3: Giải ngân
- Kiểm tra khối lượng XDCB hoàn thành để chuẩn bị giải
ngân
- Phát vốn vay
- Kiểm tra sử dụng vốn vay
* Bước 4: Thu nợ, thu lãi tiền vay. Gồm
- Lập sổ theo dõi
- Gửi phiếu báo doanh nghiệp

- 22 -

- Điều chỉnh kỳ hạn nợ nếu đủ điều kiện
* Bước 5: Kết thúc hợp đồng tín dụng
- Tất toán khế ước
- Thanh lý hợp đồng tín dụng
- Rút kinh nghiệm, đánh giá hiệu quả dự án, doanh nghiệp
- Hoàn chỉnh hồ sơ để lưu trữ.
Theo qui trình trên, cán bộ tín dụng là người trực tiếp cho vay thu nợ,
thu lãi, có quyền hạn và trách nhiệm theo phạm vi trách nhiệm được giao,
thường xuyên kiểm tra việc sử dụng vốn vay và yêu cầu doanh nghiệp thực
hiện đúng theo hợp đồng tín dụng đã ký kết. Đối với các đơn vị thành viên
phải tuân thủ đúng các qui định của Nhà nước về quản lý đầu tư XDCB, qui
định của Chính phủ, Bộ kế hoạch đầu tư, Ngân hàng Nhà nước về cơ chế tín
dụng đầu tư theo kế hoạch hàng năm; các qui định, qui trình nghiệp vụ của

Ngân hàng đầu tư và phát triển trung ương liên quan tới hoạt động tín dụng
đầu tư. Không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng đầu tư phát triển là nhiệm
vụ chung của tất cả cán bộ các bộ phận trong mối quan hệ chặt chẽ tín dụng -
thẩm định - kế toán - phòng ngừa rủi ro và xuyên xuốt trong quá trình xét
duyệt - giải ngân - thu nợ.


- 23 -

Chương II
thực trạng tín dụng đầu tư trung, dài hạn tại
ngân hàng đầu tư và phát triển thanh hoá

I/ Bối cảnh kinh tế xã hội trên địa bàn tỉnh thanh hoá
Thanh Hoá là một tỉnh lớn diện tích tự nhiên là 11,168 km2 trên 3,6
triệu dân. Có 4 vùng kinh tế rõ rệt: Vùng biển, đồng bằng, trung du, miền núi.
Giao thông thuận lợi, 80% là sản xuất nông nghiệp. Một số ngành kinh tế phát
triển như mía đường, xi măng, nuôi trồng đánh bắt, chế biến hải sản, công
nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng, sản xuất bia, sản xuất giấy các loại, chế
biến lâm sản, dịch vụ
Trong những năm qua thực hiện công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà
nước, hàng năm kinh tế xã hội của tỉnh luôn luôn phát triển, cơ sở hạ tầng
từng bước được nâng cao, kinh tế tăng trưởng.
1. Những thuận lợi trong thời gian tới :
Qui hoạch tổng thể của tỉnh đến năm 2010 đã được Chính phủ phê
duyệt. Xác định Thanh Hoá có sức thu hút mạnh vốn đầu tư. Các lĩnh vực đầu
tư lớn được triển khai như khu công nghiệp Lễ môn, khu công nghiệp Nghi
Sơn, Cảng nước sâu Nghi sơn, Nhà máy đường Lam Sơn, caỉ tạo nâng cấp
Nhà máy xi măng Bỉm sơn, nuôi trồng và đánh bắt chế biến hải sản. Công
nghiệp qui mô vừa và nhỏ cũng được mở rộng sản xuất như sản xuất giấy, bao

bì, thép, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến lâm sản. Một số doanh nghiệp
địa phương liên doanh hoặc gia nhập các công ty Trung ương như cán thép,
chế biến lâm sản, hoá chất, thuốc lá có xu hướng phát triển thu hút được vốn
đầu tư, công nghệ mới tiên tiến mở rộng thị trường và tạo thêm việc làm cho
người lao động đường.
- Việc xắp xếp lại doanh nghiệp cổ phần hoá đang được triển khai thực
hiện.
- Hạ tầng cơ sở như làm đường, điện, thuỷ lợi, nước sạch, đang được
triển khai sôi động.
2. Khó khăn:
- Tỷ lệ sản xuất nông nghiệp cao lại thường xuyên bị thiên tai. Điểm
xuất phát đi lên thấp, năm 2000 mức tăng trưởng bình quân lại thấp xa hơn so
với mức bình quân cả nước. do vậy nền kinh tế chưa có tích luỹ nhiều, thu
ngân sách khó khăn.

- 24 -

- Các doanh nghiệp địa phương làm ăn chưa có hiệu quả, một số doanh
nghiệp quốc doanh còn thua lỗ, chưa có phương án hữu hiệu đầu tư chiều sâu
đổi mới công nghệ.
- Việc cổ phần hoá các doanh nghiệp thực hiện còn chậm.
- Các dự án đầu tư liên doanh liên kết thu hút đầu tư chưa được chuẩn
bị sẵn sàng.
- Các chủ trương định hướng được thống nhất cao, nhưng việc tổ chức
triển khai còn nhiều vướng mắc. Chưa có cơ chế chính sách để gọi vốn đầu tư
xây dựng cơ sở hạ tầng, khu công nghiệp tập trung. Các chương trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn,
xây dựng vùng chuyên canh hiệu qủa chưa cao.
Các doanh nghiệp vốn tự có rất ít, chưa chủ động xây dựng những dự
án đầu tư lớn. Điều này hạn chế rất nhiều đến % vốn tự có tham gia vào dự án.

II/ về tình hình hoạt động kinh doanh của ngân hàng Đầu tư và phát triển Thanh Hoá.
1- Mô hình tổ chức của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá :
Hơn 40 năm hoạt động và trưởng thành, Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển nói chung, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá nói riêng, liên tục
có sự thay đổi, bổ sung về chức năng nhiệm vụ Song, hiện nay về bản chất
vẫn là một Ngân hàng thương mại quốc doanh, với vai trò duy nhất hiện nay
là Ngân hàng chủ đạo phục vụ cho sự nghiệp xây dựng, đầu tư phát triển.
Quá trình hoạt động và trưởng thành của Ngân hàng Đầu tư và Phát
triển Thanh Hoá gắn liền với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội
của địa phương qua các thời kỳ, các giai đoạn cách mạng. Đặc biệt là từ ngày
01/01/1995 theo quyết định 293/QĐ-NHNN ngày18/11/1994 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng Ngân hàng Đầu tư và Phát triển được phép
thực hiện các hoạt động của Ngân hàng thương mại. Trong những năm qua,
căn cứ vào chức năng nhiệm vụ được giao và tình hình đặc điểm địa bàn hoạt
động, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá đã tiến hành sắp xếp ổn
định lại mô hình tổ chức, thường xuyên thực hiện tốt công tác quản lý, qui
hoạch, đào tạo cán bộ trong chi nhánh để đáp ứng với yêu cầu hiện đại hoá
công nghệ Ngân hàng. Hiện nay, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá
có 5 phòng, 1 tổ Kiểm soát, 1 tổ Thẩm định Kinh tế - Kỹ thuật và 1 chi nhánh
trực thuộc (hiện đang chuẩn bị thành lập thêm 1 chi nhánh mới trong thời gian
tới); có 105 cán bộ công nhân viên, trong đó số cán bộ có trình độ đại học, cao
đẳng chiếm 70%; Công tác quản trị điều hành được chi nhánh hết sức quan
tâm, tạo được sự đoàn kết nhất trí trong nội bộ. Nhằm phát huy được sức
mạnh tổng hợp trong chỉ đạo điều hành, chi nhánh đã qui định rõ chức năng
nhiệm vụ của từng bộ phận và đến từng loại cán bộ

- 25 -

Có thể nói mô hình tổ chức hiện nay ở Chi nhánh Ngân hàng ĐTvà PT
Thanh hoá là phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ; công tác tổ chức, xây dựng

nguồn lực và quản trị điều hành là đúng đắn, hiện đã và đang phát huy được
sức mạnh trong hoạt động kinh doanh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của một
Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường và trong giai đoạn đất
nước đang thực hiện sự nghiệp Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá.
2- Tình hình hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển qua các
năm:
Trong 5 năm qua, thực hiện hoạt động như một Ngân hàng thương mại,
Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá đã nhanh chóng đổi mới hoạt
động Ngân hàng, bám sát mục tiêu, định hướng chiến lược kinh doanh của
toàn ngành, cụ thể hoá trong điều kiện thực tế trên địa bàn. Tranh thủ những
thuận lợi vượt lên những khó khăn để phấn đấu đạt được các chỉ tiêu kế hoạch
với mức tăng trưởng vững chắc cả về số lượng và chất lượng. Hiện nay Ngân
hàng Đầu tư và Phát triển Thanh Hoá là một trong những Ngân hàng thương
mại hoạt động có hiệu quả, an toàn, tăng trưởng và giữ được vị thế, nâng cao
được uy tín nhất trên địa bàn. Hàng năm được Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Việt Nam xếp loại khá giỏi.
Tình hình hoạt động kinh doanh 5 năm (từ 1996-2000) cụ thể như sau:
* Về khách hàng:
Với chính sách khách hàng đúng đắn, phù hợp với cơ chế thị trường,
thực hiện mục tiêu “Bắt đầu từ nhu cầu của khách hàng chứ không phải từ sản
phẩm Ngân hàng", “Hiệu quả kinh doanh của khách hàng là mục tiêu hoạt
động của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển”, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển
Thanh Hoá đã không ngừng nâng cao chất lượng phục vụ, tranh thủ được
khách hàng truyền thống, mở rộng thị trường trong tất cả các thành phần kinh
tế. Do vậy khách hàng có quan hệ tiền gửi và khách hàng có quan hệ tiền vay
(kể cả bão lãnh) qua các năm đều tăng về số lượng và đảm bảo chất lượng.
+Khách hàng có quan hệ tiền gửi: Năm 1996, mới chỉ có 3699 khách
hàng chủ yếu là các tổ chức kinh tế; Năm 1997 số lượng khách hàng là 4962;
năm 1998 số lượng khách hàng là 7544 tăng 52% so năm 1997. Năm 1999 số
khách hàng là 11.930, so năm 1998 tăng 58%; đến 31/12/2000 có số lượng

khách hàng là 13.720, so với năm 1999 tăng15%. Trong đó khách hàng là tổ
choc kinh tế – xã hội tăng 29%.
+ Khách hàng có quan hệ tiền vay và bảo lãnh:
Từ 224 khách hàng năm 1996 chủ yếu là khách hàng tiền vay. Năm
1997 có 788 khách hàng, so với 1996 tăng 3,5 lẩn. Năm 1998 là 595 khách và

×