Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Báo cáo tốt nghiệp: Thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 85 trang )








Báo cáo tốt nghiệp


Thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ


mục lục
1.1. khái quát về NHTM. 3
2.1. quy trình nghiệp vụ. 12
Sơ đồ cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý kinh doanh 29









































Chương I
Những vấn đề cơ bản về thanh toán quốc tế theo phương thức
tín dụng chứng từ
I. Hoạt động TTQT của Ngân hàng thương mại và vai trò của TTQT.

1.1. khái quát về NHTM.
NHTM là một tổ chức tín dụng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín
dụng với hoạt động thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cho
vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Mục tiêu hoạt động của NHTM khác
hẳn mục tiêu của NHTƯ là kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ để tìm kiếm và
tối đa hóa lợi nhuận trong phạm vi khuôn khổ pháp luật, đây là mục tiêu cơ
bản xuyên suốt quá trình hoạt động của NHTM.
ở nước ta, tổ chức tín dụng đầu tiên là Nhà tín dụng, được thành lập năm
1951. Đây là tiền thân của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Từ đó đến nay hệ
thống các NHTM đã không ngừng phát triển về loại hình và nghiệp vụ góp
phần vào sự tăng trưởng kinh tế đất nước. Hiện nay Việt Nam có nhiều loại
hình NHTM với các hình thức sở hữu, tính chất pháp lý khác nhau (NHTM
Quốc doanh hay còn gọi là NHTM nhà nước; NHTM cổ phần; chi nhánh
ngân hàng nước ngoài; ngân hàng liên doanh giữa Việt Nam với nước ngoài).
Trong đó, hệ thống NHTM Quốc doanh gồm: NH Công Thương Việt Nam,
NH Ngoại thương Việt Nam, NH Đầu tư và phát triển Việt Nam, NH Nông
Nghiệp và phát triển Nông thôn, NH Phát triển nhà Đồng Bằng sông Cửu
Long. NHTM Quốc doanh được tổ chức theo một hệ thống thống nhất từ
trung ương đến địa phương. Dưới các NHTM QD là các sở giao dịch, dưới sở
giao dịch là các chi nhánh và tiếp theo là phòng giao dịch. Ngoài mạng lưới
trong nước và các ngân hàng này còn mở văn phòng đại diện ở nước ngoài,
thiết lập quan hệ đại lý với nhiều ngân hàng trên khắp các châu lục .
Ngày nay hoạt động của NHTM rất đa dạng không chỉ là cho vay và làm
trung gian thanh toán nó còn mở rộng ra các lĩnh vực kinh doanh mới : Tư
vấn đầu tư chứng khoán, bảo lãnh, đại lý, quản lý danh mục đầu tư Đặc biệt
trong Thương mại Quốc tế NHTM còn có khả năng thanh toán, NHTM cung
cấp các phương tiện thanh toán cho nền kinh tế, tiết kiệm chi phí cho các chủ
thể tham gia thanh toán và nâng cao khả năng tín dụng. Việc mở tài khoản,
cung cấp và quản lý các phương tiện thanh toán làm cho NHTM trở thành
một trung tâm thanh toán cho nền kinh tế. Thay cho việc thanh toán trực tiếp

các doanh nghiệp, cá nhân, tổ chức có thể nhờ NHTM thực hiện những việc
này trên cơ sở những phương tiện thanh toán khác nhau, với kỹ thuật ngày
càng tiên tiến và thủ tục ngày một đơn giản. Những dịch vụ thanh toán của
NHTM ngày càng được ưa chuộng vì nó đem lại sự thuận tiện, mau chóng, an
toàn tiết kiệm chi phí hơn cho những chủ thể trong nền kinh tế.
1.2. hoạt động TTQT của NHTM.
1.2.1. TTQT và sự hình thành phát triển của hoạt động TTQTtại NHTM.
TTQT là việc thanh toán giữa các nước với nhau về những khoản tiền nợ
phát sinh từ các quan hệ giao dịch về kinh tế, chính trị, văn hóa Chủ thể
trong TTQT có thể là thể nhân hoặc chính phủ của các nước.
TTQT đã hình thành từ rất lâu cùng với quá trình hình thành và phát triển
hoạt động xuất nhập khẩu quốc tế. Hình thức thanh toán xuất nhập khẩu sơ
đẳng nhất là hàng đổi hàng. Sự xuất hiện của tiền tệ làm cho việc mua bán
trao đổi được diễn ra thuận tiện hơn. Nhưng các quốc gia khác nhau lại sử
dụng các đồng tiền khác nhau, chính vì vậy mà ngân hàng xuất hiện làm
trung gian chuyển hóa loại tiền này sang loại tiền khác, đại diện cho bên mua
thanh toán cho bên bán.
Khi kỹ thuật nghiệp vụ và mạng lưới hoạt động phát triển hơn, ngân
hàng có thể đại diện cho bên bán yêu cầu bên mua trả tiền trị giá món hàng đã
mua. Đến đây vai trò của ngân hàng còn giới hạn ở mức làm dịch vụ giúp hai
đối tác và không can thiệp vào quyết định mua bán thanh toán của họ, hai bên
mua bán vẫn phải hiểu rõ và tín nhiệm lẫn nhau.
Ngoại thương phát triển tạo ra khả năng để các đối tác dù chưa hiểu nhau
vẫn có thể mua bán với nhau để tạo thị trường và tăng lợi nhuận, cho dù họ
cách xa nhau về mặt địa lý, hàng rào ngôn ngữ, phong tục tập quán, chưa hiểu
rõ nhau để có thể làm ăn song phẳng với nhau. Ngân hàng cung cấp thêm dịch
vụ mới: dịch vụ cho mượn uy tín, giúp các đối tác kinh doanh xuất nhập khẩu
thanh toán mau chóng, thuận lợi và an toàn.
1.2.2. Vai trò của thanh toán Quốc tế
Tất cả các quan hệ trao đổi mua bán hàng hóa, dịch vụ và các hoạt động

khác trong nền kinh tế đều được kết thúc bằng khâu thanh toán. Thanh toán
quốc tế không chỉ đem lại lợi ích cho những bên tham gia mua bán hàng hóa
dịch vụ, nó còn đem lại lợi nhuận cho các ngân hàng cũng như đem lại lợi ích
cho toàn bộ nền kinh tế.
 vai trò của TTQT đối với doanh nghiệp XNK
Phần lớn các doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân đều không thể tự thực
hiện TTQT do có khó khăn về mặt địa lý, phong tục tập quán và rất nhiều khó
khăn khác nữa dẫn đến nhu cầu thanh toán hộ được thực hiện bởi các ngân
hàng. Ngân hàng với sức mạnh về năng lực, uy tín của mình có thể giúp các
doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu hạn chế được rủi ro trong thanh toán
trực tiếp bằng tiền mặt. Ngoài ra, cũng nhờ thanh toán qua ngân hàng mà các
nhà xuất khẩu, nhà nhập khẩu có thể tận dụng được các hình thức tín dụng
hoặc tài trợ xuất nhập khẩu đi kèm hoạt động thanh toán để hỗ trợ về tài chính
cho hoạt động buôn bán, kinh doanh đó của mình.
 vai trò của TTQT đối với NHTM
- Khi thực hiện chức năng trung gian thanh toán ngân hàng sẽ có khả
năng tăng doanh thu và lợi nhuận thu từ phí các dịch vụ phát sinh như:
+ Những khoản thu được do kinh doanh ngoại tệ vì buôn bán với nước
ngoài đòi hỏi phải có ngoại tệ và ngân hàng chính là người đảm nhân vai trò
cung cấp ngoại tệ cho các bên tham gia buôn bán.
+ Những khoản lợi nhuận thu từ phí dịch vụ thanh toán quốc tế, lãi thu
được từ tài trợ thương mại mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng. Cũng qua
đó tạo điều kiện cho các dịch vụ bảo lãnh thanh toán, tài trợ tín dụng xuất
nhập khẩu, kinh doanh ngoại tệ của ngân hàng ngày càng phát triển.
+ TTQT làm tăng tính thanh khoản cho ngân hàng. Bởi lẽ muốn thanh
toán qua ngân hàng khách hàng phải mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng.
Trên cơ sở đó giúp ngân hàng huy động số dư tài khoản tiền gửi của ngân
hàng để cho vay, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh.
- Kinh doanh ngân hàng là lĩnh vực kinh doanh nhiều rủi ro nhất(rủi ro
tín dụng, rủi ro lãi suất, rủi ro ngoại hối, rủi ro thanh toán )TTQT giúp ngân

hàng phân tán rủi ro thông qua việc kinh doanh trong nhiều lĩnh vực. Lợi
nhuận thu được từ hoạt động TTQT sẽ hỗ trợ khi thị trường biến động giúp
ngân hàng phát triển ổn định bền vững. Hơn nữa thông qua TTQT , ngân hàng
có thể giám sát được tình hình kinh doanh của các doanh nghiệp xuất nhập
khẩu, có thông tin chính xác về tình hình tài chính của các doanh nghiệp này.
- Hoạt động TTQT giúp cho quy mô hoạt động của NH vượt ra khỏi
phạm vi quốc gia làm tăng cường quan hệ đối ngoại. NH thực hiện TTQT sẽ
có được quan hệ đại lý với ngân hàng và các đối tác nước ngoài. Mối quan hệ
này dựa trên cơ sở hợp tác và tương trợ. Với thời gian hoạt động nghiệp vụ
càng lâu, mối quan hệ ngày càng mở rộng giúp khai thác được các nguồn tài
trợ của ngân hàng nước ngoài, nguồn vốn trên thị trường tài chính quốc tế.
1.3. Các phương thức thanh toán quốc tế chủ yếu được áp dụng trong
TMQT
Phương thức TTQT là toàn bộ quá trình, cách thức nhận trả tiền hàng
trong giao dịch mua bán ngoại thương giữa người nhập khẩu và người xuất
khẩu. Trong quan hệ ngoại thương, có rất nhiều phương thức thanh toán khác
nhau thông qua ngân hàng như: chuyển tiền, nhờ thu, tín dụng chứng từ
Mỗi phương thức đều có ưu nhược điểm, thể hiện thành mâu thuẫn quyền lợi
giữa người nhập khẩu và người xuất khẩu.Vì vậy, việc chọn phương thức
thanh toán thích hợp phải được 2 bên bàn bạc thống nhất, ghi vào hợp đồng
mua bán ngoại thương.
1.3.1. Phương thức chuyển tiền.
a. Khái niệm:
Đây là phương thức thanh toán đơn giản nhất, trong đó một khách hàng
(người trả tiền, người mua, người nhập khẩu, người mắc nợ ) ủy nhiệm cho
ngân hàng phục vụ mình trích từ tài khoản của mình một số tiền nhất định
chuyển cho người khác ( người bán, người xuất khẩu, chủ nợ ) ở một địa
điểm nhất định và trong một thời gian nhất định.
Việc chuyển tiền xem như hoàn tất khi thanh toán hết số tiền cho người
thụ hưởng; trước thời điểm này, số tiền trong tài khoản vẫn thuộc quyền sở

hữu của người chuyển tiền và người này có quyền hủy bỏ lệnh chuyển tiền,
mà người thụ hưởng không thể khiếu nại gì với ngân hàng. Như vậy, việc trả
tiền phụ thuộc vào thiện chí của người mua, quyền lợi của người xuất khẩu
không đảm bảo. Ngược lại nếu việc chuyển tiền được thực hiện trước khi
giao hàng hóa thì việc giao hàng phụ thuộc vào thiện chí của người bán,
quyền lợi của người nhập khẩu không đảm bảo.
Có hai hình thức chuyển tiền: chuyển tiền bằng thư (mail transfer, M/T)
và chuyển tiền bằng điện báo (telegraphic transfer T/T ).
b. quá trình tiến hành nghiệp vụ
Trong phương thức thanh toán này, có các bên liên quan:
- Người phát hành lệnh chuyển tiền (người mua, người nhập khẩu )
- Ngân hàng nhận thực hiện việc chuyển tiền (ngân hàng nơi đơn vị
chuyển tiền mở tài khoản tiền gửi ngoại tệ )
-Ngân hàng trả chuyển tiền (ngân hàng đại lý của ngân hàng chuyển tiền)
- Người nhận chuyển tiền (người bán, tổ chức xuất khẩu )
Bước 1: Sau khi thỏa thuận đi đến ký kết hợp đồng mua bán ngoại
thương, tổ chức xuất khẩu thực hiện việc cung ứng hàng hóa, dịch vụ cho tổ
chức nhập khẩu, đồng thời chuyển giao toàn bộ chứng từ(vận đơn, hóa đơn,
chứng từ về hàng hóa ) cho tổ chức nhập khẩu.
Bước 2: Tổ chức nhập khẩu sau khi kiểm tra chứng từ, hóa đơn, viết lệnh
chuyển tiền gửi đến ngân hàng phục vụ mình, trong đó phải ghi rõ ràng và
đầy đủ những nội dung theo quy định.
Bước 3: Sau khi kiểm tra, nếu hợp lệ và đủ khả năng thanh toán, ngân
hàng sẽ trích tài khoản của đơn vị để chuyển tiền, gửi giấy báo nợ, giấy báo
đã thanh toán cho đơn vị nhập khẩu.
Bước 4: Ngân hàng chuyển tiền ra lệnh( bằng thư hay điện báo) cho
ngân hàng đại lý mình ở nước ngoài để chuyển trả cho người nhận tiền.
Bước 5: Ngân hàng đại lý chuyển tiền cho người được hưởng(trực tiếp
hoặc gián tiếp qua ngân hàng khác) và gửi giấy báo Có cho đơn vị.
Quy trình thanh toán theo phương thức chuyển tiền


- Ưu điểm: Thanh toán chuyển tiền là thanh toán trực tiếp giữa người
chuyển tiền và người nhận. Đối với các NH đây là phương thức thanh toán
đơn giản, ít rủi ro, dễ thực hiện nhất trong các phương thức TTQT. Ngân hàng
khi thực hiện việc chuyển tiền và trả tiền, chỉ đóng vai trò trung gian thanh
toán theo ủy nhiệm để được hưởng hoa hồng, và không bị ràng buộc gì cả đối
với người mua lẫn người bán.
- Nhược điểm: Đối với người mua(khi trả tiền trước khi nhận hàng) và
người bán(khi giao hàng trước nhận tiền sau) thì đây là phương thức chứa
đựng nhiều rủi ro. Còn đối với NH khi thực hiện thanh toán theo phương thức
này phí dịch vụ thu được thấp hơn so với phương thức khác.
- Trường hợp áp dụng: phương thức này thường được áp dụng trong lĩnh
vực chuyển vốn hoặc cấp kinh phí ra nước ngoài, chuyển kiều hối, hay áp
dụng trong thanh toán phi mậu dịch hoặc thanh toán các chi phí có liên quan
đến XNK hàng hóa. Tuy nhiên, nếu được thực hiện để thanh toán tiền hàng
thì chỉ sử dụng trong trường hợp 2 bên mua bán tin cậy, tín nhiệm lẫn nhau.
1.3.2. Phương thức nhờ thu.
a. Khái niệm:
Phương thức thanh toán nhờ thu là phương thức thanh toán, mà qua đó tổ
chức xuất khẩu sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ gửi hàng, giao chứng từ hàng
hóa ủy thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ số tiền trên cơ sở hối phiếu
do mình lập ra ở người nhập khẩu thông qua ngân hàng phục vụ người nhập
khẩu. Người nhập khẩu khi nhận được giấy báo nhờ thu của ngân hàng, phải
tiến hành ngay việc chi trả tiền để nhận lại chứng từ hàng hóa và đi lãnh hàng.
Trong mối quan hệ này, ngân hàng ở cả hai bên nước nhà nhập khẩu lẫn
nhà xuất khẩu, chỉ tham gia với tư cách là người trung gian đi thu tiền hộ, có
nhận giữ các chứng từ có liên quan đến hàng hóa đã gửi đi, nhưng không bị
ràng buộc trách nhiệm, phải kiểm tra các chứng từ gửi nhờ thu, cũng như việc
giấy nhờ thu có được nhà nhập khẩu chấp nhận và thanh toán hay không.
Phương thức thanh toán này hoàn toàn dựa vào sự tín nhiệm lẫn nhau giữa

nhà xuất khẩu và nhà nhập khẩu, nó đảm bảo hơn hai hình thức thanh toán
bằng séc và chuyển tiền ở chỗ, nhà xuất khẩu yêu cầu ngân hàng bên mua
không giao chứng từ đi lãnh hàng cho nhà nhập khẩu, khi người này chưa
thanh toán tiền. Tuy nhiên tốc độ thanh toán vẫn chậm, rủi ro cho bên xuất
khẩu lớn, trường hợp nhà nhập khẩu không chịu thanh toán, từ chối nhận
hàng vì lý do giá mua sản phẩm đang xuống thấp mà người bán không chấp
nhận giảm giá, và nhất là vì lô hàng nhập về không còn phù hợp thị hiếu
người tiêu dùng.
b. Quá trình tiến hành nghiệp vụ:
Trong phương thức thanh toán nhờ thu, có các bên liên quan như sau:
- Tổ chức xuất khẩu, người cung ứng dịch vụ, người ký phát
hối phiếu tức là người ra lệnh.
- Ngân hàng nhờ thu là ngân hàng nhận sự ủy thác thu tiền,
ngân hàng bên xuất khẩu.
- Ngân hàng nhận nhiệm vụ thu tiền: thông thường là ngân
hàng đại lý của ngân hàng bên xuất khẩu tại nước nhập khẩu.
- Tổ chức nhập khẩu là người quyết định thanh toán, là người
mà hối phiếu, chứng từ sẽ gửi đến cho họ.
Căn cứ vào nội dung chứng từ thanh toán gửi đến ngân hàng nhờ thu,
người ta chia phương thức thanh toán này thành hai loại:
Nhờ thu phiếu trơn( Clean collection):Người xuất khẩu giao hàng và bộ
chứng từ cho người nhập khẩu, sau đó lập hối phiếu ủy quyền cho ngân
hàng phục vụ mình nhờ thu tiền từ người nhập khẩu.
Nhờ thu kèm chứng từ( Documentary collection): Người xuất khẩu chỉ
giao hàng cho người nhập khẩu, sau đó lập hối phiếu cùng bộ chứng từ
giao hàng ủy quyền cho ngân hàng phục vụ mình nhờ thu.
Quy trình
Bước 1: Người xuất khẩu sau khi ký hợp đồng, trong đó qui định
phương thức thanh toán là Nhờ thu, sẽ tiến hành giao hàng. Nếu là nhờ thu
phiếu trơn thì giao cả bộ chứng từ giao hàng cho người nhập khẩu.

Bước 2: Người xuất khẩu sau đó chuyển hối phiếu ( nếu là nhờ thu trơn)
hoặc bộ chứng từ kèm hối phiếu (nếu là nhờ thu kèm chứng từ) cho ngân
hàng phục vụ mình ủy thác để nhờ thu.
Bước 3: Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu chuyển hối phiếu (hoặc hối
phiếu kèm chứng từ) cho ngân hàng phục vụ người nhập khẩu để nhờ thu.
Bước 4: Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu chuyển hối phiếu (hoặc
hối phiếu kèm chứng từ) cho người nhập khẩu để đổi lấy tiền hoặc đổi lấy sự
chấp nhận của ngân hàng mình.
Bước 5: Người nhập khẩu chuyển trả tiền hoặc trả lại hối phiếu đã chấp
nhận cho ngân hàng của mình.
Bước 6: Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu chuyển tiền hoặc hối phiếu
đã chấp nhận cho ngân hàng phục vụ người xuất khẩu.
Bước 7: Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu báo Có hoặc trả lại hối
phiếu cho người xuất khẩu.
(Trong trường hợp nhờ thu đổi lấy sự chấp nhận, khi đến hạn thanh toán
người nhập khẩu tiến hành các bước (5)(6)(7) lần nữa để tiến hành thanh toán)
Quy trình thanh toán theo phương thức nhờ thu

Ưu nhược điểm :
- Nhờ thu phiếu trơn: Thích hợp khi hai bên mua bán tin cậy lẫn nhau
hoặc áp dụng trong thanh toán một số dịch vụ liên quan đến xuất khẩu hàng
hóa không cần chứng từ. Tuy vậy, nó có nhược điểm là chưa ràng buộc trách
nhiệm trả tiền của người nhập khẩu dẫn đến rủi ro không nhận được tiền hàng
của người xuất khẩu hoặc bị kéo dài thời hạn thanh toán, điều này không đảm
bảo quyền lợi cho người bán. nhưng đối với người mua phương thức này cũng
mang lại nhiều bất lợi khi áp dụng nếu hối phiếu đến sớm hơn chứng từ hàng
hóa, người mua trả tiền ngay nhưng sau đó không biết việc giao hàng của
người bán có đúng hợp đồng không.
- Nhờ thu kèm chứng từ: phương thức này có ưu điểm là khắc phục được
một phần nhược điểm của nhờ thu phiếu trơn do nhờ ngân hàng thu hộ tiền và

khống chế bộ chứng từ hàng hóa. điều đó có nghĩa là quyền lợi của người
xuất khẩu được đảm bảo vì thông qua ngân hàng họ đã khống chế được quyền
định đoạt hàng hóa đối với người mua. Nhưng phương pháp này vẫn có
nhược điểm là chưa hạn chế được việc trả tiền cũng như thời hạn trả tiền của
người mua, còn người mua thì lại không kiểm tra được số lượng, chất lượng
hàng hóa của người bán để biết có phù hợp như trong hợp đồng hay không.
1.3.3. Phương thức tín dụng chứng từ.
Đây là phương thức thanh toán khá phổ biến trong thương mại quốc tế.
Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ là một thoả thuận mà trong đó
một ngân hàng (Ngân hàng phát hành thư tín dụng: Inssuing bank) đáp ứng
những yêu cầu của khách hàng (Người xin mở thư tín dụng: Applicant) cam
kết hay cho phép một ngân hàng khác (Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu)
cho trả hoặc chấp thuận những yêu cầu của nhà xuất khẩu theo đúng những
điều kiện và chứng từ thanh toán phù hợp với thư tín dụng.
II. Thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ.
2.1. quy trình nghiệp vụ.
Như vậy, phương thức thanh toán tín dụng chứng từ liên quan đến các
bên:
- Người xin mở thư tín dụng, người nhập khẩu hay người mua trong thư
tín dụng: “The applicant for the credit”
- Người thụ hưởng thư tín dụng, người xuất khấu hay người bán
“benefitciary”
- Ngân hàng phát hành thư tín dụng: the Issuing bank; the Opening bank
- Ngân hàng thông báo thư tín dụng: the Advising bank
Ngoài ra, trong quá trình thương lượng, thanh toán thư tín dụng còn xuất
hiện các bên:
- Ngân hàng thương lượng (Bộ chứng từ): the Negotiating bank
- Ngân hàng thanh toán: the Paying bank
- Ngân hàng xác nhận: the Confirming bank
- Ngân hàng hoàn tiền: the Remitting bank

Trong thực tế, ngân hàng Phát hành thường là ngân hàng Thanh toán
hoặc ngân hàng Hoàn tiền và ngân hàng Thông báo thường cũng đảm nhận
luôn việc Thương lượng và Xác nhận (nếu có yêu cầu của người thụ hưởng
thông qua ngân hàng phát hành)
Sơ đồ quy trình thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ

Quy trình
Bước 1: Người nhập khẩu và người xuất khẩu ký kết hợp đồng ngoại
thương, trong đó quy định phương thức thanh toán là tín dụng chứng từ
Bước 2: Người nhập khẩu lập thủ tục đề nghị ngân hàng phục vụ mình
phát hành tín dụng theo thư yêu cầu của mình định trong hợp đồng ngoại
thương
Bước 3: Ngân hàng sau khi xem xét đề nghị mở tín dụng thư, nếu chấp
thuận sẽ phát hành thư tín dụng cho ngân hàng phục vụ người xuất khẩu.
Bước 4: Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu, sau khi nhận được thông
báo này sẽ thông báo tín dụng thư cho người xuất khẩu.
Bước 5: Người xuất khẩu sau khi xem xét những ràng buộc trong tín
dụng thư phù hợp với thoả thuận trong hợp đồng, sẽ tiến hành giao hàng. Nếu
không sẽ đề nghị ngân hàng phục vụ mình thực hiện việc tu chỉnh.
Bước 6: Người xuất khẩu tập hợp chứng từ theo yêu cầu trong thư tín
dụng, xuất trình chứng từ với ngân hàng phục vụ mình.
Bước 7: Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu(ngân hàng thông báo) sau
khi kiểm tra chứng từ lần nữa, sẽ gửi bộ chứng từ cho ngân hàng phục vụ
người nhập khẩu, yêu cầu thanh toán theo chỉ định.
Bước 8: Sau khi kiểm tra chứng từ, ngân hàng phục vụ người nhập khẩu
tiến hành thanh toán cho người xuất khẩu (nếu bộ chứng từ hợp lệ) hoặc
thông báo bất hợp lệ chứng từ thông qua ngân hàng phục vụ người xuất khẩu.
Bước 9: Ngân hàng phục vụ người nhập khẩu (NH mở L/C)giao bộ
chứng từ nhận hàng cho người nhập khẩu để đổi lấy việc thanh toán hoặc cấp
tín dụng.

Bước 10: Người nhập khẩu sau khi kiểm tra bộ chứng từ, nếu phù hợp
thì thanh toán cho ngân hàng nếu không sẽ từ chối thanh toán.
Đối với ngân hàng phương thức này có ưu điểm:
+ Phí dịch vụ thu được lớn hơn các hình thức khác. Ngoài việc thu phí
mở thư tín dụng, ngân hàng còn sẽ thu được thêm phí tu chỉnh, sửa đổi, xác
nhận bảo lãnh hoặc thêm các dịch vụ khác nếu có do khách hàng yêu cầu
nhằm đảm bảo an toàn trong thanh toán của khách hàng.
+ Mở rộng nghiệp vụ kinh doanh của ngân hàng tăng thu nhập, nâng cao
trình độ nghiệp vụ của cán bộ ngân hàng.
+ Thông qua nghiệp vụ của ngân hàng sẽ góp phần giúp đỡ các khách
hàng xuất nhập khẩu của mình đồng thời thúc đẩy quá trình thanh toán quốc
tế được phát triển.
Nhược điểm
+ Phương thức này phức tạp hơn hai phương thức trên, trách nhiệm của
ngân hàng trong phương thức này cũng rất cao.
+ Phương thức này chứa đựng nhiều rủi ro vì ngân hàng phải dùng uy tín
của mình cam kết trả tiền nếu người nhập khẩu không chịu thanh toán hay
không có khả năng thanh toán cho người xuất khẩu.
Tóm lại phương thức tín dụng chứng từ đảm bảo được quyền lợi của
người bán, người mua trong quá trình hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu
và nâng cao vai trò của ngân hàng trong hoạt động thanh toán khắc phục
những mâu thuẫn của các phương thức thanh toán khác, tuy vậy phương thức
này còn nhiều phức tạp đòi hỏi các bên tham gia phải có trình độ nghiệp vụ
cao trong việc mở L/C và lập bộ chứng từ hoàn hảo.
2.2. Thư tín dụng là công cụ quan trọng của phương thức thanh toán
TDCT.
2.1.1. Khái niêm về thư tín dụng:
Thư tín dụng (Letter of Credit – L/C )là văn bản thể hiện sự cam kết của
ngân hàng mở thư tín dụng đối với nhà xuất khẩu để thực hiện nghĩa vụ thanh
toán theo điều khoản thanh toán của hợp đồng ngoại thương nếu họ xuất trình

được bộ chứng từ thanh toán phù hợp với nội dung của L/C.
L/C được soạn thảo trên cơ sở hợp đồng mua bán đã được ký kết giữa hai
đơn vị nhưng vì L/C do ngân hàng mở cam kết, do đó L/C hoàn toàn độc lập
với hợp đồng mua bán. Tính chất độc lập của L/C thể hiện ở chỗ ngân hàng
mở L/C không cần biết đến việc thực hiện hợp đồng mua bán như thề nào; chỉ
cần biết việc xuất khẩu có lập bộ chứng từ hoàn toàn phù hợp với những điều
khoản quy định trọng L/C là sẽ thanh toán, nó ràng buộc các bên hữu quan
tham gia vào phương thức thanh toán tín dụng chứng từ như: Nhà nhập
khẩu(người làm đơn), Ngân hàng mở L/C, nhà xuất khẩu (người hưởng lợi
L/C ), ngân hàng thông báo, ngân hàng thanh toán. Còn hợp hồng mua bán
ngoại thương chỉ có giá trị pháp lý ràng buộc quyền lợi và trách nhiệm giữa
hai bên xuất khẩu và nhập khẩu.
Bên nhập khẩu còn có thể sử dụng thư tín dụng để cụ thể hóa, chi tiết hóa
hoặc để bổ sung một cách đầy đủ hơn vào điều khoản của hợp đồng mua bán
và cũng có thể dùng thư tín dụng để đính chính, sửa chữa những nội dung ký
hớ trong hợp đồng ngoại thương. Những nội dung liên quan tới hàng hóa,về
vận chuyển, phương thức giao hàng cũng được ghi cụ thể, đầy đủ vào nội
dung L/C.
2.2.2. những nội dung cơ bản của một L/C
a. Số hiệu của thư tín dụng (L/C)
Mỗi L/C đều được đánh số nhằm tạo điều kiên thuận tiện trong việc trao
đổi thông tin giữa các bên có liên quan, trong quá trình thực hiện số hiệu này
phải thể hiện trên chứng từ trong bộ chứng từ thanh toán.
b. Địa điểm và ngày mở L/C:
- Địa điểm mở L/C là nơi ngân hàng mở L/C viết cam kết trả tiền cho
người hưởng lợi. Địa điểm này liên quan đến việc tham chiếu luật lệ áp dụng
giải quyết xung đột, bất đồng xảy ra.
- Ngày mở L/C là ngày bắt đầu phát sinh hiệu lực về sự cam kết của ngân
hàng mở L/C đối với người thụ hưởng, là ngày ngân hàng mở L/C chính thức
chấp nhận đơn xin mở L/C của người nhập khẩu, đây cũng là ngày bắt đầu

tính thời hạn hiệu lực của L/C và cũng là căn cứ để người xuất khẩu kiểm tra
xem người nhập khẩu có thực hiện việc mở thư tín dụng có đúng thời hạn như
trong hợp đồng không.
c. Loại thư tín dụng:
Mỗi loại thư tín dụng đều có tính chất nội dung khác nhau, quyền lợi và
nghĩa vụ của những người liên quan tới thư tín dụng cũng khác nhau. Do đó,
khi mở L/C, người có nhu cầu phải xác định cụ thể loại L/C cần mở.
d. Tên, địa chỉ của những người có liên quan đến phương thức tín dụng
chứng từ:
Những người có liên quan đến phương thức tín dụng chứng từ nói chung
chia làm 2 loại: một là các thương nhân, hai là các ngân hàng.
Các thương nhân chỉ bao gồm những người nhập khẩu, là người yêu cầu
mở L/C và người xuất khẩu là người hưởng lợi L/C.
Các ngân hàng tham gia gồm: ngân hàng mở L/C; ngân hàng thông báo
L/C; ngân hàng thanh toán; ngân hàng xác nhận.
e. Số tiền của thư tín dụng:
Số tiền của L/C vừa được ghi bằng số vừa đươc ghi bằng chữ và thống
nhất với nhau. Tên đơn vị tiền tệ cũng phải ghi rõ ràng cụ thể.
Không nên ghi rõ số tiền dưới dạng số tuyệt đối, vì như vậy có thể gây
khó khăn trong việc giao hàng và nhận tiền của bên bán. Vì vậy, ghi số tiền
L/C ở một giới hạn “khoảng chừng”.
f. Thời han hiệu lực của L/C :
Là thời hạn mà ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu,
nếu người này xuất trình được bộ chứng từ trong thời hạn đó và phù hợp với
quy định trong thư tín dụng. Thời hạn hiệu lực của L/C được tính từ ngày
mở(date of issue) đến ngày hết hiệu lực (expiry day).
g. Thời hạn trả tiền của L/C (date of payment):
Liên quan đến việc trả tiền ngay hay trả tiền sau. Điều này hoàn toàn tùy
thuộc vào quy định của hợp đồng.
Thời han trả tiền của L/C có thể nằm trong thời hạn hiệu lực của L/C

(nếu trả tiền ngay ) hoặc có thể nằm ngoài thời hạn hiệu lực của L/C (nếu trả
tiền có kỳ hạn) trong trường hợp này phải lưu ý là hối phiếu có kỳ hạn phải
được xuất trình để ký chấp nhận trong thời hạn hiệu lực của L/C.
h. Thời han giao hàng (date of delivery):
Thời hạn giao hàng được ghi trong L/C và cũng do hợp đồng thương mại
quy định. Đây là thời hạn quy định bên bán phải chuyển giao hàng cho bên
mua kể từ khi thư tín dung có hiệu lực của L/C. Nếu hai bên thỏa thuận kéo
dài thời gian giao hàng một số ngày, thì đương nhiên ngân hàng mở L/C cũng
phải hiểu rằng thời han hiệu lực của L/ C cũng được kéo dài thêm một số
ngày tương ứng.
i. Sự cam kết trả tiền của ngân hàng mở L/C: Là nội dung cuối cùng của
thư tín dụng nó ràng buộc trách nhiệm của ngân hàng mở L/C, trong các mẫu
thư tín dụng là tương tự nhau, nó có điểm chung là.
+ Đây là sự cam kết thực sự.
+ Là sự cam kết có điều kiện .
+ Là sự cam kết dự phòng (bảo lưu) tức là ngân hàng chỉ cam kết tôn
trọng các hối phiếu xuất trình đúng hạn và phù hợp với điều kiện của L/C, còn
việc có trả tiền hay không còn phụ thuộc vào việc xem xét bộ chứng từ thanh
toán có phù hợp với L/C và không mâu thuẫn với nhau.
k. Nhưng điều khoản đặc biệt khác: Ngoài những nội dung kể trên, khi
cần thiết, ngân hàng mở L/C và người nhập khẩu có thêm những nội dung
khác, ví dụ như có thể hoàn trả tiền bằng điện
Những nội dung liên quan đến hàng hóa, vận chuyển cũng được ghi
trong L/C.
l. Chữ ký của ngân hàng mở thư tín dụng: L/C thực chất là một khế ước
dân sự , do vậy , người ký nó cũng phải là người có đầy đủ năng lực hành vị,
năng lực pháp lý để tham gia thực hiện quan hệ dân luật.
m. Các chứng từ mà người xuất khẩu phải xuất trình:
Đây cũng là nội dung rất quan trọng của L/C. Bộ chứng từ này là căn cứ
để ngân hàng kiểm tra mức độ hoàn thành nghĩa vụ giao hàng của người xuất

khẩu để tiến hành việc trả tiền cho người xuất khẩu, ngân hàng mở thư tín
dụng thường yêu cầu người xuất khẩu phải thỏa mãn những yếu tố sau:
- Các loại chứng từ phải xuất trình: Trong thanh toán quốc tế, ngân
hàng thực hiện thanh toán trên cơ sở chứng từ, chứ không dựa vào hàng hóa.
Vì vậy yêu cầu cần lập chứng từ phải nghiêm ngặt, hoàn hảo, phù hợp với
những điều khoản, điều kiện đã quy định.
Bộ chứng từ dùng trong thanh toán quốc tế bao gồm: các chứng từ tài
chính và các chứng từ thương mai quốc tế.
+ Chứng từ tài chính trong thanh toán bằng L/C là hối phiếu.
+ Chứng từ thương mại còn được gọi là chứng từ hàng hóa, là những
chứng từ mô tả về tình trạng hàng hóa và bao bì hàng hóa. Trong một số
trường hợp, chúng là chứng từ đại diện hợp pháp cho hàng hóa. Điều quan
trọng là chứng từ hợp lệ phải được lập đúng chỗ, đúng lúc; và để đẩy nhanh
việc giao hàng và thanh toán, chúng phải được đầy đủ một cách hợp lệ. Chỉ
một điểm nhỏ không rõ ràng trong chứng từ chắc chắn sẽ dẫn đến sự khó
khăn trong việc thanh toán.
Chứng từ thương mại bao gồm các loại chứng từ sau:
1.Hóa đơn thương mại(commercial invoice) là chứng từ do người
bán lập tạo cho người mua để chứng minh thực sự việc cung cấp hàng hóa
hay dịch vụ sau khi hoàn thành nghĩa vụ giao hàng. Chi tiết của hóa đơn phải
đúng như trong hợp đồng bán hàng; nếu một thư tín dụng được mở, hóa đơn
phải tuân theo chính xác các điều khoản của nó. Thông thường người ta có vài
bản sao hóa đơn để phục vụ cho người mua hải quan và các cơ quan phụ trách
nhập khẩu ở nước ngoài. Một số nước còn yêu cầu “hóa đơn chứng thực” hay
“giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa” để khẳng định hàng hóa xuất đi từ một
nước cụ thể.
2.Chứng từ vân tải( Bill of transport) là chứng từ vân tải cung cấp
cho người gửi hàng đồng thời xác định quan hệ pháp lý giữa đôi bên trong
suốt quá trình vận chuyển hàng hóa.
Vận đơn được coi là “sạch” khi chúng không có bất cứ điều khoản nào

nó về tình trạng hư hỏng của hàng hóa; ngược lại vận đơn bị coi là “phốt” hay
“bẩn”.
Tùy theo từng loại phương tiện vận tải mà có nhiều loại vận đơn: như
vận đơn đường biển, vận đơn hàng không.
3.Các chứng từ bảo hiểm: là chứng từ do công ty bảo hiểm cấp cho
người mua bảo hiểm hàng hóa trong quá trình chuyên chở hàng hóa. Hàng
hóa xuất khẩu luôn được bảo hiểm đầy đủ từ thời điểm rời máy bay tới khi
người mua nhận hàng. Người mua phải trả bảo hiểm phí và công ty bảo hiểm
chịu trách nhiệm bồi thường những tổn thất rủi ro xẩy ra theo những điều
khoản đã được ký kết.
Ngoài ra con một số giấy chứng nhận như :
- Giấy chứng nhận phẩm chất hàng hóa (certificate of quality)
- Giấy chứng nhận xuất xứ hàng hóa (certificate of origin)
- Giấy chứng nhận số lượng / trong lượng(certificate of quantity /
weigh)
- Giấy chứng nhận vệ sinh (sanitary certificate), kiểm nghiệm thực vật
(phytosanitary certificate), kiểm dịch động vật ( veterinary certificate),
phiếu đóng gói (packing list)
Các điều khoản hợp đồng ghi rõ ai sẽ có trách nhiệm đối với việc thu xếp
và thanh toán bảo hiểm trong quá trình vận chuyển, lộ trình được bảo hiểm,
v.v Các rủi ro bảo hiểm phải giống như những rủi ro được bên mua yêu cầu.
2.2.3. Phân loại L/C:
Mỗi loại L/C đều có tính chất, nội dung khác nhau, quyền lợi và nghĩa vụ
của các bên hữu quan cũng rất khác nhau. Do đó, cần phải xác định loại L/C
cần mở.
* Các loại L/C cơ bản:
- Thư tín dụng có thể hủy ngang (Revocable L/C)
Là loại thư tín dụng mà ngân hàng mở và người mua có quyền tự ý đề
nghị ngân hàng mở L/C sửa đổi bổ sung hoặc hủy bỏ L/C mà không cần sự
chấp thuận của người bán. Tuy nhiên khi hàng hóa đã giao, ngân hàng mới

thông báo lệnh hủy bỏ thì lệnh này không có giá trị; Nghĩa là khi đó các ngân
hàng vẫn phải thực hiện nghĩa vụ thanh toán như đã cam kết, coi như không
có việc hủy bỏ này.
- Thư tín dụng không hủy ngang(Irrevocable L/C)
Đây là loại thư tín dụng mà sau khi đã được mở ra, thì mọi việc liên quan
đến sửa đổi, bổ sung hay hủy bỏ nó, ngân hàng mở L/C chỉ có thể được tiến
hành trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên liên quan. Như vậy, nếu không có
sự nhất trí của bên bán, của ngân hàng xác nhận thì ngân hàng mở không
được phép thực hiện theo yêu cầu của bên mua, do đó quyền lợi của bên bán
được bảo đảm.
Theo quy định trong bản UCP 500 thì: Nếu không có ghi chú đặc biệt
khác thì loại thư tín dụng sẽ được hiểu là thư tín dụng không hủy ngang.
- Thư tín dụng không hủy ngang có xác nhận(confirmed irrevocable L/C)
Đây là loại L/C không hủy ngang, được một ngân hàng có uy tín đứng ra
đảm bảo thanh toán tiền cho người hưởng lợi khi ngân hàng mở gặp các rủi ro
nên không có khả năng thanh toán. Nguyên nhân phát sinh loại L/C này là vì
người hưởng lợi không tin tưởng vào khả năng thanh toán của ngân hàng mở
L/C. Ngân hàng xác nhận có thể do người hưởng lợi chỉ định, hay ngân hàng
mở lựa chọn nhưng phải được sự đồng ý của người hưởng lợi.
- Thư tín dụng không hủy ngang miễn truy đòi (Irrevocable without
Recourse L/C)
Đây là loại L/C không hủy ngang trong đó quy đinh rằng sau khi đã
thanh toán cho người hưởng, ngân hàng mở L/C mất quyền truy đòi lại số tiền
trong bất kỳ trường hợp nào. Khi phát hành hối phiếu theo L/C này người
hưởng phải ghi trên hối phiếu không được truy đòi người phát(without
recourse to drawers). Loại L/C này được sử dụng phổ biến trong thanh toán
quốc tế đặc biệt là các hợp đồng mua chịu hàng hóa.


* Các loại L/C đặc biệt:

- L/C tuần hoàn (Revolving L/C)
Là loại L/C mà sau khi đã sử dụng hết giá trị của nó hoặc đã hết thời hạn
hiệu lực của nó thì nó (tự động) có giá trị lại như cũ và tiếp tục tuần hoàn
trong một thời gian nhất định cho đến khi hoàn tất giá trị hợp đồng.
* Một thư tín dụng tuần hoàn có hai loại:
+ Thư tín dụng tuần hoàn tích luỹ: Cho phép chuyển số dư sang giai
đoạn tiếp theo và cứ như vậy cộng dồn cho đến L/C cuối cùng.
+ Thư tín dụng tuần hoàn không tích luỹ: không cho phép chuyển số
dư của giai đoạn trước sang giai đoạn kế tiếp.
*Thư tín dụng tuần hoàn theo 3 cách:
Tuần hoàn tự động: L/C sau tự động có giá trị không cần có sự thông báo
của ngân hàng phát hành L/C.
Tuần hoàn không tự động: Là chỉ khi nào ngân hàng phát hành L/C
thông báo cho người bán thì L/C sau mới có giá trị hiệu lực.
Tuần hoàn hạn chế: Nếu sau một vài ngày kể từ ngày L/C hết hạn hiệu
lực hoặc đã sử dụng hết mà không có ý kiến gì của ngân hàng phát hành thì
L/C kế tiếp tự động có giá trị hiệu lực.
L/C tuần hoàn được áp dụng trong trường hợp 2 bên mua bán những mặt
hàng có giá trị lớn, có quan hệ cung cấp hàng hoá hay dịch vụ thường xuyên,
giao nhiều lần trong năm với số lượng đều đặn.
- L/C có thể chuyển nhượng (Transferable L/C)
Thường là loại L/C không huỷ ngang cho phép chuyển từ người hưởng
lợi ban đầu sang một hay nhiều bên khác (người hưởng lợi thứ 2) theo yêu
cầu của người hưởng lợi thứ nhất.
Một L/C chuyển nhượng chỉ có thể chuyển nhượng một lần, những phần
tiền chuyển nhượng (mà tổng cộng không được quá số tiền của thư tín dụng).
Thủ tục phí và lệ phí chuyển nhượng sẽ do người hưởng lợi thứ nhất chịu.
Đây là loại L/C sử dụng khi người hưởng thứ nhất không tự cung cấp
được hàng hoá mà chỉ là một người môi giới và người này muốn chuyển
nhượng từng phần hay toàn bộ quyền lợi và nghĩa vụ của mình cho người

cung cấp hàng hoá (người hưởng lợi thứ 2). Sự chuyển nhượng phải được
thực hiện theo các điều khoản của L/C gốc. Một số điều kiện của L/C gốc như:
Cảng xếp, cảng dỡ hàng kho chuyển nhượng không được phép thay đổi.
- L/C giáp lưng (Back to back L/C)
Là L/C thứ hai được mở ra trên cơ sở L/C thứ nhất đã được mở; có nghĩa
là nhà xuất khẩu căn cứ vào một L/C mà bên nhập khẩu đã mở cho mình
hưởng (gọi đó là L/C gốc) sẽ yêu cầu ngân hàng phục vụ cho mình mở một
L/C cho người khác hưởng (L/C sau gọi là L/C giáp lưng).
Về cơ bản L/C gốc và L/C giáp lưng giống nhau, ngoài một số điểm khác
biệt như sau:
Người hưởng lợi L/C gốc là người xin mở L/C giáp lưng.
Kim ngạch L/C gốc lớn hơn kim ngạch L/C giáp lưng.
Thời hạn giao hàng, thời hạn xuất trình chứng từ, thời hạn hiệu lực của
L/C gốc dài hơn của L/C giáp lưng.
Loại L/C giáp lưng thường được áp dụng trong trường hợp người mua
muốn mua hàng của khách nước ngoài nhưng họ không thể mở L/C trực tiếp
cho người đó hưởng mà phải thông qua người trung gian hay sử dụng trong
mua bán chuyển khẩu.
- L/C điều khoản đỏ (Red cause L/C)
L/C điều khoản đỏ còn gọi là tín dụng ứng trước.Gọi là điều khoản đỏ và điều
khoản ban đầu được viết bằng mực đỏ để lưu ý tính chất riêng của loại tín
dụng này.
Tín dụng ứng trước là một tín dụng kèm theo một điều khoản đặc biệt
ủy nhiệm cho ngân hàng thông báo hoặc ngân hàng xác nhận, ứng tiền trước
cho người hưởng trước khi xuất trình các thủ tục. Điều khoản này được đưa ra
theo yêu cầu riêng của người mở tín dụng và việc trình bày phụ thuộc vào yêu
cầu của bên đó. Số tiền ứng trước trong một vài trường hợp có thể bằng toàn
bộ số tiền của L/C
L/C dự phòng (Stand by L/C)
Tín dụng dự phòng là một trong các bảo đảm trả tiền ngay khi có yêu

cầu lần đầu, được các ngân hàng trên thế giới sử dụng rộng rãi bên cạnh các
hình thức bảo lãnh cổ điển như bảo lãnh tham dự đấu thầu, bảo lãnh bồi hoàn
tiền ứng trước, bảo lãnh việc hoàn thành dịch vụ cả người mua (nhập khẩu)
lẫn người bán (nhà xuất khẩu) đều có quyền mở tín dụng thư dự phòng hoặc
yêu cầu bên đối tác mở cho mình nếu muốn quyền lợi của mình được bảo
đảm chắc chắn.
*Nếu không thực hiện đúng điều kiện đã quy định, người thụ hưởng tín
dụng dự phòng sẽ phát hành một văn bản nêu rõ những điều khoản cam kết
không được tôn trọng, ngân hàng mở tín dụng dự phòng sẽ phải thanh toán
ngay số tiền bồi thường cho người thụ hưởng.
L/C đối ứng (Reciprocal L/C)
Là loại L/C không thể hủy ngang này chỉ có giá trị hiệu lực khi L/C kia
đối ứng với nó được mở.
L/C đối ứng được áp dụng trong phương thức mua bán đổi hàng hay gia
công, nó đảm bảo quyền lợi cho người gia công bởi vì sản phẩm làm ra có đặc
điểm riêng do người đặt hàng quy định nên hầu như chỉ có người đặt hàng
tiêu thụ.
2.3. Trách nhiệm quyền hạn của các nhtm tham gia thanh toán
theo phương thức TDCT.
- Ngân hàng mở L/C:
Căn cứ vào đơn xin mở L/C của người nhập khẩu để phát hành L/C và
tìm cách thông báo L/C đó cùng với việc gửi bản gốc L/C cho người xuất
khẩu.
Tiến hành việc sửa đổi, bổ sung những nội dung của L/C theo yêu cầu và
thỏa thuận của các bên xuất, nhập khẩu rồi thông báo ngay để các sửa đổi đó
cho các bên liên quan.
Kiểm tra bộ chứng từ thanh toán của bên xuất khẩu gửi, nếu thấy phù
hợp với những quy định trong L/C thì trả tiền cho người xuất khẩu, nếu không
có quyền từ chối thanh toán. Theo quy định của UCP 500 thì ngân hàng chỉ
chịu trách nhiệm khiểm tra “bề ngoài” của chứng từ có phù hợp với L/C hay

không chứ không chịu trách nhiệm kiểm tra tính pháp lý hay tính xác thực
của chứng từ. Mọi sự tranh chấp về tính chất “bên trong ” của chứng từ là do
người nhập khẩu và người xuất khẩu tự giải quyết.
Ngân hàng được miễn trách nếu rơi vào các trường hợp bất khả kháng
như chiến tranh, đình công, nổi loạn, thiên tai Nếu L/C hết hạn giữa lúc đó,
ngân hàng cũng không chịu trách nhiệm thanh toán những bộ chứng từ gửi
đến vào dịp đó, trừ khi đã có quy định dự phòng.
Mọi hậu quả sinh ra do lỗi của mình, ngân hàng mở L/C đều phải chịu
trách nhiệm.
- Ngân hàng thông báo:
Khi nhận được thông báo của ngân hàng mở L/C về L/C đã mở và bản
gốc L/C đó thì chuyển ngay cho bên xuất khẩu.
Khi nhận được bộ chứng từ của người xuất khẩu chuyển tới, ngân hàng
phải chuyển ngay và nguyên ven bộ chứng từ đó tới ngân hàng mở L/C.
Ngân hàng không chịu trách nhiệm về những hậu quả phát sinh ra do sự
mất mát, chậm trễ về chứng từ trên đường đi đến ngân hàng mở L/C, miễn là
chứng minh rằng mình đã gửi nguyên vẹn và đúng hạn bộ chứng từ đó qua
bưu điện.
- Ngân hàng trả tiền:
Có thể là ngân hàng mở L/C hoặc một ngân hàng khác do ngân hàng
mở L/C ủy nhiệm.
Nếu địa điểm trả tiền quy định tại nước người xuất khẩu thì ngân hàng
trả tiền thường là ngân hàng thông báo.
Trách nhiệm của ngân hàng trả tiền giống như ngân hàng mở L/C khi
nhận được bộ chứng từ của người xuất khẩu gửi đến.
- Ngân hàng xác nhận:
Thường là một ngân hàng lớn có uy tín trên thị trường tài chính và tín
dụng quốc tế, chịu trách nhiệm thanh toán tiền L/C cho người hưởng lợi khi
ngân hàng trả tiền không thanh toán được cho người hưởng lợi khi họ xuất
trình đầy đủ chứng từ hợp lệ.

Ngân hàng xác nhận được hưởng phí xác nhận khá cao và thường yêu
cầu NH mở L/C đặt tiền ký quỹ có khi tới 100% trị giá của L/C.
2.4. Những rủi ro đối với NHTM trong thanh toán bằng phương thức
thanh toán tín dụng chứng từ
Trong thanh toán quốc tế tùy thuộc vào phương thức thanh toán do người
xuất nhập khẩu sử dụng mà vị trí vai trò của ngân hàng cũng như những rủi ro
và thu nhập của nó cũng sẽ khác nhau.
Đối với phương thức đơn giản như chuyển tiền, nhờ thu, trao chứng từ
giao tiền thì vai trò của ngân hàng chỉ làm trung gian trong việc thực hiện
lệnh chi trả hay nhờ thu cho khách hàng để thu phí mà không chịu trách
nhiệm trong việc có thu được tiền hay không, hay không thể chủ động trong
việc thanh toán. Cũng chính vì vậy mà khi tham gia thưc hiện các phương
thức này ngân hàng ít bị rủi ro là mất tiền hay không thu được tiền do người
bán không thực hiện hợp đồng hay người mua không chịu trả tiền và ngân
hàng cũng chỉ thu được lợi nhuận bằng phí các bên trả khi cung cấp dịch vụ
cho khách hàng.
Đối với TDCT thì rủi ro cho ngân hàng thường xảy ra ở chỗ ngân hàng
đã cho vay rồi nhưng không thu được nợ vì người vay mất khả năng trả nợ.
Tín dụng chứng từ với mức độ rủi ro của nó cũng không kém gì so với một
số loại tín dụng ngắn hạn khác như tín dụng ngân quỹ hay bảo lãnh vay vốn
của khách hàng. Vì cơ sở đảm bảo nợ ở đây là một con nợ, nghĩa là khi con
nợ không thể trả được nợ thì ngân hàng sẽ mất vốn
Rủi ro cho ngân hàng từ phía người mua: Ngân hàng vì phải đứng ra
cam kết thanh toán cho người bán (người hưởng lợi ) rủi ro sẽ xảy ra khi
người mua do nhiều lý do mà hủy bỏ L/C hay không nhận hàng, từ chối bộ
chứng từ không hợp lệ, hay vì họ không có khả năng thanh toán trong khi
ngân hàng không bắt buộc ký quỹ 100% trị giá L/C thì ngân hàng sẽ phải lãnh

×