Tải bản đầy đủ (.pdf) (55 trang)

Báo cáo tốt nghiệp: “Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa” doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (552.51 KB, 55 trang )



-
-
1
1
-
-







Báo cáo tốt nghiệp


“Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại
Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa”


-
-
2
2
-
-

Mục lục
“Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Công


thương khu vực Đống Đa” 1
LỜI NÓI ĐẦU 4
CHƯƠNG I 6
I/ NHỮNG HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI: 6
1- Khái quát về Ngân hàng Thương mại: 6
II. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI: 10
1. Chất lượng tín dụng của Ngân hàng Thương mại: 10
2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại:
11
2.1. Đối với Ngân hàng: 11
2.2. Đối với khách hàng: 12
3. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng 12
Tổng dư nợ 15
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng: 16
4.1. Nhân tố khách quan: 16
Về công tác tổ chức của Ngân hàng: 18
Về chất lượng cán bộ: 18
5. Quản lý chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại. 19
5.1.1 - Quản lí qui mô và cơ cấu 19
Quản lý lãi suất gồm có: 21
5.2.1. Quản lý ngân quỹ. 22
Dư nợ ròng = Dư nợ - Dự phòng tín dụng 26
I. VÀI NÉT VỀ NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG KHU VỰC ĐỐNG ĐA:
27
Kết quả hoạt động kinh doanh : 32
Nguồn: Phòng kế hoạch tổng hợp - Ngân hàng Công thươngkhu vực Đống Đa32
1. Tình hình huy động vốn: 33
Biểu 2; Tình hình hoạt động vốn tại Ngân hàng 33
2. Thực trạng sử dụng vốn tín dụng: 35
Biểu 3: Tình hình cho vay vốn tại Ngân hàng 36

3. Đánh giá chất lượng tín dụng của Ngân hàng Công thương khu vực Đống
Đa: 38
Biểu4: Kết quả sử dụng vốn tại Ngân hàng 38
Biểu 5: tình hình nợ quá hạn 38
Đơn vị: tỷ đồng 39
Biểu7: Phân tích nợ quá hạn theo nguyên nhân: 40
3.2. Nguyên nhân về tồn tại và hạn chế: 42
3.2.1. Nguyên nhân chủ quan. 42


-
-
3
3
-
-
3.2.2. Nguyên nhân khách quan. 43
Chương III. 45
1. Thực hiện nghiêm các biện pháp phòng ngừa rủi ro, hạn chế nợ quá hạn. 46
3. Chiến lược con người, phát huy hiệu quả nguồn nhân lực 49
4. Các giải pháp hỗ trợ 51
4.1. Về phía nhà nước. 51
4.2. Về phía ngân hàng: 52
1. Đối với ngân hàng công thương Việt Nam: 53
2. Đối với ngân hàng Nhà nước: 53
KẾT LUẬN 55





















-
-
4
4
-
-

LỜI NÓI ĐẦU

Những năm qua, nền kinh tế nước ta đã và đang chuyển đầu tư cơ chế kế
hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết và quản lý của Nhà
nước, việc chuyển đổi cơ chế mang tính tất yếu cho sự phát triển kinh tế của một
quốc gia như Việt Nam.
Ở Việt Nam trong bước chuyển đổi sang cơ chế thị trường có sự quản lý

của Nhà nước thực hiện nhất quán kinh tế nhiều thành phần theo định hướng
XHCN và theo luật pháp của Nhà nước. Từ đó nền kinh tế thị trướng phát triển
tất yếu sẽ tạo ra những tiền đề cần thiết và đòi hỏi sự ra đời của nhiều loại ngân
hàng như: Ngân hàng Nhà nước, Ngân hàng thương mại quốc doanh bao gồm:
Ngân hàng công thương, Ngân hàng đầu tư và phát triển của các ngân hàng liên
doanh, Ngân hàng cổ phần cho nên cần tăng cường quản lý, hướng dẫn hoạt
động của các Ngân hàng, tạo thuận lợi cho sự phát triển nền kinh tế.
Hoạt động Ngân hàng là một trong những mắt xích quan trọng cấu thành
sự vận động nhịp nhàng của nền kinh tế. Cùng với sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế
của đất nước, hệ thống ngân hàng cũng có những bước chuyển mình cho phù
hợp với điều kiện và hoàn cảnh kinh tế mới. Cụ thể là từ hệ thống Ngân hàng ba
cấp chuyển thành hệ thống Ngân hàng hai cấp, từ sau khi có hai pháp lệnh Ngân
hàng (5/1990) tách bạch chức năng: Ngân hàng Nhà nước có chức năng quản lý
Nhà nước đối với hệ thống Ngân hàng, chức năng kinh doanh tiền tệ và dịch vụ
Ngân hàng thuộc về Ngân hàng Thương mại và tổ chức tín dụng với nội dung
nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi cấp tín dụng, cung ứng và dịch vụ thanh toán.
Sau hơn 10 năm đổi mới Ngân hàng đã đưa lại nhiều thành quả. Đóng góp
tích cực vào thành tựu chung đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã
hội, chấm dứt việc phát hành tiền để bù đắp thâm hụt cho Ngân sách. Đặc biệt là
Việt Nam đã thành công trong việc đẩy lùi lạm phát, ổn định giá cả. Hoạt động
Ngân hàng đã góp phần tích cực trong việc huy động vốn trong và ngoài nước
đảm bảo cho tăng trưởng kinh tế với mức độ cao. Tuy nhiên hiện nay lĩnh vực
Ngân hàng đã bộc lộ những yếu kém mà dư luận xã hội đang quan tâm về những
tiềm ẩn và nguy cơ không lành mạnh. Đặc biệt là chất lượng tín dụng chưa cao
đang đòi hỏi tìm kiếm những giải pháp tháo gỡ có hiệu quả.
Qua thời gian học tại trường và thời gian thực tế tại Ngân hàng Công
thương khu vực Đống Đa, cùng với việc nhận thức sự cần thiết phải nâng cao


-

-
5
5
-
-
chất lượng hoạt động tín dụng Ngân hàng trong giai đoạn hiện nay, với sự chỉ
dẫn và chỉ bảo tận tình của giáo viên hướng dẫn và cán bộ hướng dẫn thực tập
Ngân hàng Công thương Đống Đa. Từ thực tiễn trên tôi đã mạnh dạn chọn đề
tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Công
thương khu vực Đống Đa. làm khoá luận tốt nghiệp của mình.
Đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Công
thương khu vực Đống Đa. là một lĩnh vực nghiên cứu phức tạp. Song trong
quá trình tìm hiểu thực tế tại Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa tôi đã đi
vào nghiên cứu một số vấn đề sau đây:
Kết cấu chuyên đề gồm ba chương:
Chương I: Ngân hàng thương mại và chất lượng của ngần hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh và chất lượng tín dụng tại
ngân hàng công thương đống đa.
Chương III: Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân
hàng công thương đống đa.






-
-
6
6

-
-
CHƯƠNG I
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I/ NHỮNG HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI:
1- Khái quát về Ngân hàng Thương mại:
Ngân hàng Thương mại trước hết là một doanh nghiệp,vì Ngân hàng
thương mại hoạt giống như các doanh nghiệp khác: có vốn riêng, mua vào, bán
ra,có chi phí và thu nhập, có nghĩa vụ nộp thuế cho Ngân hàng Nhà nước, có thể
lãi hoặc lỗ, có thể giầu nên hoặc phá sản.
Ngân hàng Thương mại kinh doanh dịch vụ tiền tệ, không trực tiếp sản
xuất ra của cải vật chất như các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực sản xuất kinh
doanh nhưng tạo điều kiện thuận lợi cho qúa trình sản xuất , lưu thông và phân
phối sản phẩm xã hội bằng cách cung ứng vốn tín dụng, vốn đầu tư cho các
doanh nghiệp, tổ chức kinh tế mở rộng kinh doanh góp phần tăng nhanh tốc độ phát
triển kinh tế.
Nói tóm lại Ngân hàng Thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt
động thường xuyên và chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm
hoàn trả và sử dụng số tiền gửi đó để cho vay đầu tư thực hiện nghiệp vụ triết
khấu và làm các phương tiện thanh toán.
Ngân hàng Thương mại có hoạt động gần gũi nhất với nhân dân về nền
kinh tế càng phát triển cao, hoạt động của Ngân hàng Thương mại càng đi sâu
vào đời sống kinh tế của đất nước.
Hoạt động của Ngân hàng Thương mại mang tính cạnh tranh cao độ.
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là quy luật hoạt động tự nhiên, không lệ
thuộc vào nhuận thực hoặc chọn lựa chủ quan của con người. Mục tiêu của kinh
doanh, là tối đa hoá lợi nhuận, an toàn trong kinh doanh không ngừng gia tăng
doanh thu. Nên cạnh tranh không ngừng xảy ra nên thị trường đây chính là chìa
khoá của mỗi doanh nghiệp để đạt được tham vọng trong thương trường và cạnh

trạnh là điểu không tránh khỏi. Ngân hàng Thương mại ra đời trên cơ sở sản
xuất và lưu thông hàng hoá phát triển và nền kinh tế ngày càng cần đến hoạt
động của Ngân hàng Thương mại với các chức năng , vai trò của mình nhất là
chức năng trung gian tín dụng.Ngân hàng Thương mại đã trở thành bộ phận thúc
đẩy nền kinh tế phát triển.
Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, Ngân hàng Thương mại
hoạt động một cách có hiệu quả thông qua các nghiệp vụ kinh doanh của mình
sẽ thực sự là một công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Bằng hoạt


-
-
7
7
-
-
động tín dụng Ngân hàng Thương mại đã góp phần mở rộng khối lượng tiền
cung ứng trong lưu thông . Tiền tệ là kết của quá trình phát sinh lâu dài của sản
xuất hàng hoá. Nó ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu của việc mở rộng giao lưu kinh
tế, mở rộng thị trường làm cho kinh tế hàng hoá phát triển của quá trình sản xuất
và lưu thông hàng hoá. Trong quá trình đó đã phát triển yêu cầu vay mượn vốn
lẫn nhau giữa các thương gia nhằm đáp ứng cho sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Vốn được chuyển từ người thừa vốn sang người thiếu vốn và phải có một Ngân
hàng đứng ra làm trung gian để cho người thừa vốn và người thiếu vốn gặp
nhau. Thông qua hoạt động tín dụng là chiếc“cầu nối” đưa họ đến với nhau, dần
dần thiết lập nên mối quan hệ mật thiết với nhau đó là quan hệ vay mượn. Ngân
hàng Thương mại là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ hoạt động trên cơ sở
“đi vay” để “cho vay”. Đây là hình thức sơ khai của tín dụng. Chính trên cơ sở
của sự phát triển đó Ngân hàng cũng đồng thời xuất hiện, trong cuốn Tư Bản
(Tập III, phần II) Các Mác đã viết “Một mặt Ngân hàng là sự tập trung tư bản

tiền tệ của những người có tiền cho vay, mặt khách nó là sự tập trung của những
người đi vay”.
Như vậy, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng từ buổi sơ khai bắt đầu từ
hoạt động tín dụng và cho đến nay vẫn bằng con đường đó.
Trong qúa trình hoạt động của Ngân hàng Thương mại đáp ứng nhu cầu
của thị trường dẫn tới sự phân chia và hình thành nên hệ thống Ngân hàng hai
cấp: Ngân hàng Trung ương làm nhiệm vụ quản lý vĩ mô hoạt động Ngân hàng
và các Ngân hàng Thương mại làm nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ - tín dụng. Như
vậy hoạt động của Ngân hàng Thương mại rất đa dạng phong phú và có phạm vi
rộng lớn ở quy mô, tính toàn cầu, tính hiện đại trong công nghệ Ngân hàng.


-
-
8
8
-
-
2. Nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng Thương mại.
Nghiệp vụ Ngân hàng nói chung bao gồm tất cả những việc Ngân hàng
thường làm trong khuôn khổ nghề nghiệp của họ. Các nghiệp vụ Ngân hàng
Thương mại có quan hệ chặt chẽ hỗ trợ lẫn nhau trong suốt quá trình hoạt động,
tạo thành một chỉnh thể thống nhất.
Các nghiệp vụ cơ bản, chủ yếu của Ngân hàng Thương mại bao gồm:
- Nghiệp vụ huy động vốn.
- Nghiệp vụ sử dụng vốn.
- Một số nghiệp vụ khác.
2.1. Nghiệp vụ huy động vốn: Đây là nghiệp vụ chủ yếu để tạo nên nguồn vốn
kinh doanh của Ngân hàng, Ngân hàng có thể huy động vốn bằng một trong hai
cách sau:

Nhận tiền gửi: Đây là nghiệp vụ mang tính truyền thống, đây là nghiệp vụ
nhận tiền gửi một cách thụ động, nó phụ thuộc vào ý muốn của người có tiền gửi
vào Ngân hàng.
- Phát hành các phiếu nợ: Có thể ngắn hạn và có thể là dài hạn, đây là
hình thức huy động vốn chủ động tức là Ngân hàng có kế hoạch ấn định được
thời gian và số lượng cần phát hành. Để thực hiện được nghiệp vụ này, Ngân
hàng sử dụng công cụ chính lãi suất.
Vốn kinh doanh của Ngân hàng Thương mại chủ yếu là vốn đi vay và vốn
tự tạo, vốn tự chỉ có thể chiếm một phần nhỏ trong tổng số vốn tín dụng.
Vốn đi vay của Ngân hàng Thương mai bao gồm: Tiền vay trên thị
trường, tiền gửi, tiền vay trên thị trường tiền tệ, tiền vay trên thị trường trái
phiếu, tiền vay chiết khấu của Ngân hàng Trung ương tất cả gộp lại thành nguồn
vốn tín dụng của Ngân hàng Thương mại.
Trong quá trình sử dụng các nguồn vốn tiền gửi và vay trên thị trường,
công nghệ Ngân hàng đã tạo ra một nguồn vốn mới gọi là tự tạo để có thêm bổ
sung chho nhu cầu tín dụng và đầu tư cho các ngành kinh tế, cung ứng thêm
phương tiện thanh toán cho các doanh nghiệp, việc tổ chức kinh tế để mở rộng
sản xuất kinh doanh trong cả nước.
2.2. Nghiệp vụ sử dụng vốn: Đây là nghiệp vụ chủ yếu của Ngân hàng Thương
mại, nó thể hiện ở nhiều Ngân hàng, dư nợ chiếm trên 70% tổng tài sản có. Đây
là nghiệp vụ sinh lời cao nhất mang lại nguồn thu nhập lớn nhất cho Ngân hàng.
Song đây cũng là nghiệp vụ mang lại rủi ro nhiều nhất cho Ngân hàng.
Khi thực hiện nghiệp vụ này, Ngân hàng quan tâm nhiều hơn đến lợi
nhuận có tính thanh khoản của các hợp đồng cho vay chỉ ở vào vị trí thứ yếu vì


-
-
9
9

-
-
Ngân hàng không thể đòi nợ trước hạn nếu quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng với
khách hàng vẫn diễn ra bình thường.
Ngoài ra Ngân hàng còn đầu tư vào mua công trái, trái phiếu, tín phiếu
kho bạc giấy tờ có giá do Kho bạc Nhà nước đại diện cho Chính phủ phát hành
và các giấy tời có giá có khả năng thanh toán cao và trách nhiệm cao của các
Công ty lớn.
Bất cứ chứng khoán nào cũng có thể đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng
nếu Ngân hàng chủ yếu quan tâm đến việc nâng cao thanh khoản thì đầu tư vào
các tín phiếu do Kho bạc phát hành.
Mặt khác Ngân hàng đầu tư vào các chứng khoán nhằm phân tán.
2.3. Một số nghiệp vụ khác: Ngân hàng thực hiện kinh doanh và làm dịch vụ
hưởng hoa hồng theo sự uỷ thác của khách hàng, các nghiệp vụ này bao gồm:
- Nghiệp vụ thu hộ, chi hộ.
- Nghiệp vụ uỷ thác.
- Mua hộ bán hộ.
- Môi giới và kinh doanh chứng khoán.
Hoạt động của Ngân hàng Thương mại tập trung chủ yếu vào nhận tiền
gửi và cho vay. Đó là hai mặt hoạt động tín dụng. Hoạt động tín dụng nhằm đáp
ứng nhu cầu tạm thời thiếu hụt về vốn của các doanh nghiệp,các tổ chức kinh tế
hoặc cá nhân trong quá trình sản xuất kinh doanh hoặc tiêu dùng hàng ngày.
Xét trên góc độ khác, khi hoạt động tín dụng ngày càng được mở rộng và
phát triển một cách đa dạng , phong phú, với sự tham gia của nhiều chủ thể kinh
tế, quan hệ tín dụng hàng ngày càng mở rộng về đối tượng và quy mô thì hoạt
động của tín dung của Ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn, phức tạp.
Để các Ngân hàng Thương mại có tồn tại và phát triển đứng vững trong
điều kiện cạnh tranh gay gắt của thị trường và để phục vụ nền kinh tế ngày một
tốt hơn, đòi hỏi các Ngân hàng phải thực hiện có hiệu quả các hoạt động tín tụng
hay nói cách khác là phải nâng cao chất lượng tín dụng.

3. Vai trò của Ngân hàng Thương mại:
- Ngân hàng thương mại giúp doanh nghiệp có vốn đầu tư mở rộng sản
xuất kinh doanh nâng cao hiệu quả kinh doanh.
- Góp phần phân bố hợp lý các nguồn lực giữa các vùng trong quốc gia,
tạo điều kiện phát triển kinh tế.
- Ngân hàng Thương mại tạo môi trường cho việc thực hiện chính sách
tiền tệ của Ngân hàng Trung ương.


-
-
1
1
0
0
-
-
- Ngân hàng Thương mại là cầu nối cho việc phát triển kinh tế đối ngoại
giữa các quốc gia.
II. CHẤT LƯỢNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI:
1. Chất lượng tín dụng của Ngân hàng Thương mại:
Quan niệm về chất lượng tín dụng không chỉ giới hạn trong lĩnh vực hoạt
động ngân hàng trực tiếp mà nó còn được thể hiện qua hiệu quả sử dụng vốn tín
dụng của khách hàng vay, nói rộng hơn nó được thể hiện qua sự tăng trưởng và
phát triển của các ngành cũng như của toàn bộ nền kinh tế. Chỉ có trên cơ sở
hiệu quả sử dụng vốn tín dụng của khách hàng thì chất lượng tín dụng ngân hàng
mới được đảm bảo. Điều này được thể hiện rõ nét ở một số khía cạnh sau đây:
a - Chất lượngtín dụng nhìn từ phía khách hàng vay vốn:
Một khoản tín dụng được đánh giá có chất lượng đối với người vay khi
khoản tín dụng đó bù đắp một cách kịp thời, đầy đủ nhu cầu thiếu hụt về vốn của

khách hàng vay. Nó đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra
nhịp nhàng, làm tăng sản lượng hàng hoá sản xuất ra, tăng vòng quay vốn và do
đó tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
b - Nhìn từ lợi ích xã hội:
Dưới giác độ này, tín dụng được coi là có chất lượng khi nó hỗ trợ và làm
tăng hiệu quả hoạt động của từng doanh nghiệp đơn lẻ, tạo điều kiện để những
doanh nghiệp này thực hiện tốt nghĩa vụ với Ngân sách Nhà nước giải quyết
được việc làm cho người lao động, tạo nên tốc độ phát triển chung của nền kinh
tế. Đồng thời, chất lượng tín dụng được đảm bảo cũng sẽ góp phần tích cực vào
việc thực thi chính sách tiền tệ của Nhà nước.
Bên cạnh đó, khi sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển, nhu cầu của
xã hội và của từng thành viên sẽ được đáp ứng một cách tốt hơn.
c - Từ phía ngân hàng:
Với ngân hàng, chất lượng tín dụng được xác định thông qua các chỉ tiêu
cơ bản sau đây:
- Phục vụ tốt sự phát triển của các ngành, các địa phương theo định hướng
của Nhà nước qua từng thời kỳ.
- Các khoản tín dụng được thực hiện đúng mục đích, đúng đối tượng, có
hàng hoá, vật tư tương đương làm đảm bảo.
- Các khoản tín dụng được thu hồi đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi góp
phần tăng nhanh vòng quay sử dụng vốn của ngân hàng, giảm thiểu các khoản
nợ quá hạn, nợ khó đòi, trên cơ sở đó, tăng doanh lợi cho hoạt động của các
ngân hàng thương mại.


-
-
1
1
1

1
-
-

2. Sự cần thiết phải nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân hàng thương mại:
Tín dụng là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư tín dụng, góp phần điều hoà
nguồn vốn trong xã hội từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu vốn. Giúp cho Ngân hàng có
một nguồn vốn nhất định và giải quyết quan hệ cung cầu về vốn. Đồng thời làm tăng
tốc độ luân chuyển hàng hoá và tiền vốn. Chính vì vậy, chất lượng tín dụng tạo điều
kiện cho Ngân hàng làm tốt chức năng trung gian tín dụng trong nền kinh tế quốc dân.
Chất lượng tín dụng góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định tiền tệ, tăng trưởng
kinh tế. Nghiệp vụ tín dụng của Ngân hàng có quan hệ chặt chẽ với khối lượng tiền
mặt tronglưu thông. Thông qua cho vay bằng chuyển khoản các Ngân hàng có khả
năng mở rộng tiền ghi sổ bấp nhiều lần so với số tiền thực có. Vì vậy tín dụng còn là
nguyên nhân của lạm phát. Đảm bảo chất lượng tín dụng sẽ tạo điều kiện cho các
Ngân hàng cung cấp đủ các phương tiện thanh toán cho nền kinh tế.
Tín dụng là công cụ để thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và Nhà
nước về phát triển kinh tế. Chất lượng tín dụng được nâng cao sẽ góp phần tăng hiệu
quả sản xuất xã hội, đầu tư đúng hướng để khai thác khả năng tiền tàmg về tài
nguyên, lao độg, tiền vốn, đảm bạ chuyển dịch cơ cấu kinh tế phát triển cân đối giữa
các ngành nghề, các vùng trong cả nước theo công nghiệp hoá, hiện đại hoá đât
nước.
2.1. Đối với Ngân hàng:
Chất lượng tín dụng góp phần lành mạnh hoá quan hệ tín dụng, các thủ
tục về tín dụng được đơn giản hoá, thuận tiện nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc sẽ
tạo điều kiện để mở rộng quan hệ tín dụng, từ đó đi đến hạn chế và xoá bỏ nạn
cho vay nặng lãi, góp phân lành mạnh hoá quan hệ tín dụng.
Chất lượng tín dụng đối với sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng thương
mại: Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp, Ngân hàng muốn tồn tại và
phát triển thì hoạt động phải sinh lời. Bởi vậy cũng như tất cả các doanh nghiệp

hoạt động sản xuất kinh doanh khác, muốn tồn tại và phát triển thì Ngân hàng
phải giải quyết được các mâu thuẫn trong quá trình kinh doanh: mâu thuẫnvề giá
cả, mức cung cầu của vốn
Bởi vì chất lượng tín dụng cho phép Ngân hàng có những khách hàng
trung thành, khách hàng có quan hệ thường xuyên và gắn bó lâu dài với Ngân
hàng vì đối với Ngân hàng tạo lập củng cố và phát triển được ngày càng nhiều
khách hàng truyền thống. Ngân hàng phải thiết lập được nhiều khách hàng trung
thành, các khách hàng trung thành này sẽ không bỏ Ngân hàng mà ra đi với các
Ngân hàng khác vì thế Ngân hàng phải quan tâm đến lợi ích, nhu cầu của họ.


-
-
1
1
2
2
-
-
2.2. Đối với khách hàng:
Chất lượng tín dụng tạo lòng tin đối với khách hàng, trong điều kiện nền
kinh tế mở cửa khách hàng có thể lựa chọn Ngân hàng này làm đối tác cho
mình. Vì tiền họ gửi vào Ngân hàng là đồng tiền quay vòng và sinh lời. Nếu là
một Ngân hàng uy tín trên thị trường thì Ngân hàng đó gặp rất nhiều thuận lời và
giao dịch với những khách hàng lớn thậm chí có cả khách hàng nước ngoài. Để
tạo uy tín hay lòng tin nào đó củanhg thì ko khó nhưng Ngân hàng phải làm sao
tạo được tin tưởng khi khách hàng đến giao dịch với Ngân hàng, khi khách hàng
đến giao dịch mà Ngân hàng đó để lại ấn tượng sâu sắc như thái độ giao tiếp
niềm nở, phục vụ chu đáo nhiệt tình thì khách hàng đó sẽ tuyên truyền cho Ngân
hàng. Đây là điều thuận lợi nhất cho Ngân hàng. Điều này có nghĩa là khách

hàng chỉ đến với Ngân hàng mà tạo điều kiện giúp đỡ họ thực hiện có hiệ quả
hoạt động thông qua quan hệ tín dụng, dịch vụ so với Ngân hàng khác. Và điều
này cũng có tác dụng tích cực trở lại đối với Ngân hàng trong việc tăng thêm số
lượng khách hàng, thu hút nguồn vốn và mở rộng tín dụng dịch vụ.
Chất lượng tín dụng góp phần phát triển sản xuất, kinh doanh và lành
mạnh tình hình tài chính của khách hàng, chất lượng tín dụng được đảm bảo
cũng có nghĩa là Ngân hàng phát triển tốt nhờ vậy Ngân hàng có điều kiện cung
cấp vốn tín dụng đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh của khách hàng. Mặt
khác để đảm bảo chất lượng tín dụng thì Ngân hàng tiến hành việc kiểm tra,
kiểm soát hoạt động vốn tín dụng của khách hàng, qua đó cùng với khách hàng
uốn nắn và chấn chỉnh những sai sót trong hoạt động tài chính của họ.
Việc kiểm tra, kiểm soát sử dụng vốn tín dụng của khách hàng là việc cần
thiết vì nếu như khách hàng xin vay vốn của Ngân hàng mà Ngân hàng không
biết khả năng thanh toán của họ trong những năm tới hay tài chính của họ làm
ăn sa sút hay khách hàng xin vay vốn không đúng mục đích vì họ xin vay vốn
vào mục đích sản xuất kinh doanh nhưng họ lại sử dụng vào mục đích khác. Nếu
Ngân hàng không biết được mà vẫn cho vay đó là sai lầm. Cho nên để tránh sai lầm
thì Ngân hàng phải tiến hành kiểm tra, khiểm soát việc sử dụng vốn tín dụng của
khách hàng để tránh gây khó khăn cho cả hai bên. Qua phân tích ta thấy được việc
củng cố và tăng cường nâng cao chất lượng tín dụng là sự cần thiết khách hàng vì sự
tồn tại và phát triển lâu dài của Ngân hàng nói riêng và nền kinh tế nói chung.
3. Chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng
3.1- Chỉ tiêu định tính
 Chính sách tín dụng: Bao gồm các chủ trương, đường lối đảm bảo cho
hoạt động tín dụng đi đúng mục tiêu của ngân hàng đồng thời tuân thủ tốt qui


-
-
1

1
3
3
-
-
định của Chính phủ, NHNN, nó có liên qua đến việc mở rộng hay thu hẹp tín
dụng, thay đổi cơ cấu tín dụng trong từng thời kỳ và có ý nghĩa quyết định sự
thành bại của một ngân hàng. Bất cứ một ngân hàng nào muốn có được chất
lượng tín dụng cao đều phải có chính sách tín dụng phù hợp với điều kiện của
ngân hàng, phải căn cứ vào đòi hỏi của thị trường.
* Công tác huy động vốn: Huy động vốn đối với ngân hàng được coi như
hoạt động cung cấp đầu vào cho sản xuất để tạo ra sản phẩm đầu ra ở các doanh
nghiệp. Nếu nguồn vốn không được huy động đầy đủ về số lượng và phù hợp về
thời hạn cũng như loại tiền thì ngân hàng khó có thể đáp ứng được các nhu cầu
đa dạng của khách hàng một cách nhanh chóng và đầy đủ. Do vậy, chất lượng
tín dụng khó có thể được nâng cao, thậm chí còn trở nên kém hơn.
* Công tác tổ chức của ngân hàng: Một ngân hàng có cơ cấu tổ chức
khoa học sẽ đảm bảo được sự phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các cán bộ
nhân viên trong cùng một phòng, giữa các phòng ban với nhau và cao hơn là
giữa các ngân hàng trong cùng hệ thống, từ đó nắm bắt và triển khai tốt việc đáp
ứng nhu cầu khách hàng, nâng cao được chất lượng hoạt động tín dụng và đảm
bảo được tính thống nhất và hiệu quả trong quá trình hoạt động.
* Trình độ đội ngũ cán bộ, nhân viên tín dụng: Đây có thể coi là một
trong những yếu tố quan trọng nhất có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của
không chỉ hoạt động tín dụng mà cả sự tồn tại và phát triển của ngân hàng. Hoạt
động kinh tế đối ngoại càng phức tạp, công nghệ ngân hàng càng hiện đại thì đòi
hỏi trình độ, năng lực của cán bộ ngân hàng phải được nâng cao. Với một đội
ngũ cán bộ nhân viên có nghiệp vụ giỏi, có đạo đức và năng lực trong sáng tạo -
quản lí sẽ giúp ngân hàng hạn chế được những rủi ro, nắm bắt được những cơ
hội tốt để cho vay và tất yếu sẽ dẫn đến nâng cao chất lượng tín dụng của ngân

hàng .
* Qui trình tín dụng: Đây là những trình tự, những giai đoạn, những bước,
công việc cần phải thực hiện theo một thủ tục nhất định trong việc cho vay bắt
đầu từ việc xem xét đơn xin vay của khách hàng đến khi thu nợ nhằm bảo đảm
an toàn vốn tín dụng . Chất lượng tín dụng phụ thuộc vào việc lập ra một qui
trình tín dụng đảm bảo tính khoa học vừa nhanh chóng, thuận tiện, vừa đảm bảo
thực hiện đầy đủ nghiêm túc các bước của qui trình. Qui trình tín dụng thường
gồm ba bước chính:


-
-
1
1
4
4
-
-
 Xét đề nghị vay của khách hàng và thực hiện cho vay: Giai đoạn này
chất lượng tín dụng phụ thuộc nhiều vào công tác thẩm định khách hàng và việc
chấp hành các qui định về điều kiện và thủ tục cho vay của ngân hàng.
 Kiểm tra, giám sát quá trình sử dụng vốn vay và theo dõi dự báo rủi ro:
việc thiết lập hệ thống kiểm tra hữu hiệu, áp dụng có hiệu quả các hình thức
kiểm tra sẽ góp phần không nhỏ nâng cao chất lượng tín dụng.
 Thu nợ và thanh lí: Sự linh hoạt của cán bộ tín dụng của ngân hàng
trong khâu thu nợ sẽ giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro và hạn chế nợ qua hạn,
bảo toàn vốn và nâng cao chất lượng tín dụng.
* Thông tin tín dụng: Thông tin tín dụng là hết sức cần thiết, nó là cơ sở
để xem xét quyết định cho vay và theo dõi, quản lí khoản cho vay. Thông tin tín
dụng có thể thu được từ nhiều nguồn khác nhau như: hồ sơ vay vốn của khách

hàng, nguồn số liệu thống kê của Tổng cục thống kê, số liệu của Bộ Tài Chính,
các nghành liên quan về tình hình của các đơn vị, doanh nghiệp hay điều tra trực
tiếp tại các cơ sở Chất lượng tín dụng chỉ có thể được nâng cao khi ngân hàng
có những nguồn thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời để dự đoán và đề ra các
biện pháp ngăn ngừa phòng chống rủi ro.
* Công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ: Chất lượng tín dụng phụ thuộc vào
việc chấp hành những qui chế, thể lệ, chính sách và mức độ kịp thời phát hiện
sai sót cũng như những nguyên nhân dẫn đến sai sót lệch lạc trong quá trình thực
hiện các khoản tín dụng.
* Trang thiết bị phục vụ hoạt động tín dụng: Trang thiết bị tuy không là
yếu tố cơ bản nhưng nó góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng tín
dụng của ngân hàng. Nó là công cụ, phương tiện thực hiện tổ chức, quản lí, kiểm
tra, kiểm soát nội bộ. Đặc biệt với sự phát triển nhanh của công nghệ thông tin
hiện nay các trang thiết bị tin học đã giúp cho ngân hàng có được thông tin về
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, thị trường trong tương lai
* Các hoạt động bổ trợ cho hoạt động tín dụng: Các hoạt động bổ trợ
như: Kinh doanh ngoại tệ, Thanh toán hộ, Thu hộ, có ảnh hưởng đến nguồn
vốn, cũng như sự an toàn của ngân hàng (Một ngân hàng sẽ ở trong vùng an toàn
nếu có 40% - 45% doanh thu là từ hoạt động dịch vụ). Như vậy sẽ có tác động
lớn đến chất lượng tín dụng và uy tín của ngân hàng.
3.2 - Chỉ tiêu định lượng


-
-
1
1
5
5
-

-
* Tổng nguồn vốn huy động: Chỉ tiêu này cho biết khả năng thu hút
và cung ứng vốn của Ngân hàng cho khách hàng. Ngoài ra, nó còn cho thấy uy
tín và qui mô của Ngân hàng trên thị trường. Nguồn vốn huy động lớn thường
gắn với những ngân hàng có uy tín cao.
* Tổng dư nợ tín dụng: chỉ tiêu này cho biết Ngân hàng cho vay được
nhiều hay ít. Tiền gửi tại các tổ chức tín dụng, cho các tổ chức tín dụng hay
khách hàng vay nhiều cho thấy Ngân hàng đã tạo được uy tín với các bạn hàng,
cung cấp nhiều hình thức dịch vụ đa dạng, phong phú, tham gia nhiều nghiệp vụ
thanh toán.

Tổng dư nợ
 Hiệu suất sử dụng vốn vay =
Tổng nguồn vốn huy động
Chỉ tiêu này giúp các nhà phân tích đánh giá khả năng cho vay của ngân
hàng cũng như so sánh giữa các ngân hàng với nhau trong việc sử dụng vốn vay.
Hiệu suất sử dụng vốn vay cao chưa hẳn đã tốt bởi nó còn phụ thuộc vào cơ cấu
nguồn vốn. Chẳng hạn, trong cơ cấu nguồn vốn tỉ trọng vốn vay thương mại lớn
thì cho vay nhiều chưa hẳn là đưa đến chất lưọng tín dụng cao, vì lãi suất với các
khoản vốn vay thương mại thường lớn trong khi ngân hàng khó có thể cho vay
với lãi suất quá cao hơn do phải cạnh tranh lãi suất để thu hút khách hàng.
Doanh số cho vay trong kì
* Vòng quay vốn tín dụng =
Dư nợ trong kì
Chỉ tiêu này thể hiện khả năng tổ chức, quản lí vốn tín dụng, đồng thời thể
hiện chất lượng tín dụng của ngân hàng trong việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn
tín dụng và đáp ứng nhu cầu khách hàng. Để có thể đánh giá chính xác chất
lượng tín dụng, các tiêu chuẩn tính toán cần phải đồng nhất trong việc áp dụng
đối với từng loại cho vay cụ thể.
* Tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ : Nợ quá hạn là những khoản nợ đã

đến hạn thanh toán nhưng khách hàng chưa trả được. Ngân hàng có chỉ tiêu nợ
quá hạn trên tổng dư nợ càng thấp khả năng gặp rủi ro càng thấp chất lượng tín
dụng càng cao. Chỉ tiêu này lại chia ra hai chỉ tiêu cụ thể hơn:

Nợ quá hạn từ 6-12 tháng
 Tỉ lệ nợ quá hạn khê đọng =


-
-
1
1
6
6
-
-
Tổng dư nợ
Đây là một trong những chỉ tiêu định lượng quan trọng nhất phản ánh chất
lượng tín dụng của khoản tín dụng. Nếu tỉ lệ này càng cao mà ngân hàng không
có biện pháp xử lí kịp thời thì khả năng tổn thất của ngân hàng càng lớn.
Nợ quá hạn từ 12 tháng trở lên
 Nợ quá hạn khó đòi =
Tổng dư nợ
Nếu tỉ lệ này cao có nghĩa là ngân hàng không những phải chịu rủi ro tín
dụng cao, chất lượng tín dụng kém mà còn có nguy cơ mất khả năng thanh toán
bởi việc đòi nợ các khoản vay này là rất khó khăn. Một khoản tín dụng có chất
lượng cao thì tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi phải thấp.
 Khe hở lãi suất = Tài sản nhạy cảm với lãi suất - Nguồn nhạy cảm với lãi
suất
Nếu giá trị tuyệt đối của chỉ tiêu này lớn thì sự biến lãi suất trên thị trường sẽ

tạo ra những thu nhập và chi phí ngoài dự kiến, gọi chung là rủi ro lãi suất. Đây cũng
là nhân tố làm cho nhiều ngân hàng phải quan tâm, nếu khe hở lãi suất lớn thì có thể
cho thu nhập cao, nhưng bên cạnh đó là rủi ro lớn theo đúng qui luật kinh tế.
4. Các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng:
Chất lượng hoạt động tín dụng có ý nghĩa rất lớn với sự tồn tại và phát triển
của một Ngân hàng. Ý nghĩa của hoạt động tín dụng xuất phát từ định nghĩa Ngân
hàng thương mại là một trung gian tài chính. Ngân hàng thương mại một mặt thu hút
các khoản tiền nhàn rỗi trong xã hội, mặt khác nó dùng chính số tiền đã huy động
được đối với các thành phần kinh tế trong xã hội, khi chúng có nhu cầu bổ xung
vốn. Như vậy cùng với ý nghĩa kinh tế trong hoạt động tín dụng, việc quản lý tín
dụng một bộ phận quản lý Ngân hàng nói cung luôn luôn là một vấn đề thực tiễn và
bức xúc đối với mỗi Ngân hàng. Để quản lý chất lượng tín dụng đồng bộ phải hiểu
rõ sự tác động của các nhân tố ta càng chủ động trong hoạt động. Có thể chia các
nhân tố làm hai loại: Nhân tố chủ quan và nhân tố khách quan. Tuỳ vào điều kiện cụ
thể của từng nước và của từng Ngân hàng mà hai loại nhân tố này có ảnh hưởng
khác nhau.
4.1. Nhân tố khách quan:
Một nền kinh tế phát triển ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động tín dụng. Ngân hàng có thể huy động được nhiều nguồn vốn để mở rộng
hoạt động cho vay phục vụ cho việc phát triển nền kinh tế. Môi trường kinh tế
có ảnh hưởng đến sức mạnh của người đi vay và thiệt hại hay thành công đối vơí


-
-
1
1
7
7
-

-
người cho vay. Sự hưng thịnh hay suy thoái của chu kỳ kinh doanh cũng ảnh
hưởng đến lợi nhuận của người vay. Trong giai đoạn kinh tế hưng thịnh người
vay hoạt động tốt do lợi nhuận thu được cao.
Trong hoạt động kinh doanh lạm phát có ảnh hưởng bất lợi đến giá cả
nguyên vật liệu làm cho các cá nhân và doanh nghiệp gặp khó khăn về tài
chính dẫn đến nhu cầu tín dụng tăng còn thiểu phát cũng có ảnh hưởng bất lợi
đến công việc kinh doanh: Chỉ số tăng giá thấp hơn so với lãi suất cho vay làm
cho các doanh nghiệp cầm chừng trong vay vốn phát triển sản xuất điều đó dẫn
tới tốc độ tăng trưởng tín dụng chậm, hoạt động Ngân hàng kém, nền kinh tế trì
trệ, các doanh nghiệp không có cơ hội để hoạt động sản xuất kinh doanh thu lợi
nhuận. Các Ngân hàng sẽ chịu thiệt hại lớn do đồng tiền mất giá, chất lượng tín
dụng bị giảm sút.
Việc xác định mức lãi xuất cho vay cũng ảnh hưởng đến chất lượng tín
dụng, vì lợi tức của Ngân hàng thu được từ hoạt động tín dụng bị giới hạn bởi
lợi nhuận bình quân của các đơn vị sử dụng vốn vay của doanh nghiệp thì các
doanh nghiệp sẽ không có khả năng trả nợ Ngân hàng. Vì vậy chất lượng tín
dụng cũng bị ảnh hưởng.
Ngoài ra chất lượng của tín dụng còn bị ảnh hưởng của các nhân tổ rủi ro
như thiên tai, bão lụt các nguyên nhân bất khả kháng có thể bị lừa đảo Các
thảm hoạ thiên tai bão lụt, hoả hoạn có thể là nguyên nhân ảnh hưởng đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, các biến động kinh tế xã hội chính
trị sẽ dẫn đến môi trường xã hội, môi trường kinh tế bất ổn định sẽ tạo điều kiện
nảy sinh rủi ro.
Khách hàng nhiều lần trì hoãn trong việc bố trí cho cán bộ tín dụng đi
kiểm tra tình hình thực tế của doanh nghiệp. Nếu là cán bộ tín dụng đi kiểm tra
thì các nhà tín dụng phải kiểm tra thực tế của doanh nghiệp là đúng nhưng đến
định kỳ cán bộ tín dụng kiểm tra thường xuyên có mặt tại doanh nghiệp. Nếu
doanh nghiệp sản xuất kinh doanh bình thường họ sẽ đón tiếp đúng nội quy và
đúng thủ tục còn nếu doanh nghiệp sản xuất kinh doanh không bình thường thì

họ sẽ trì hoãn và không đưa các số liệu thông tin của doanh nghiệp và cho Ngân
hàng biết.Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ giữa Ngân hàng và khách hàng
là quan hệ bạn hàng bình đẳng trước pháp luật song mối quan hệ này phải được
thực hiện trên cơ sở tôn trọng lẫn nhau. Một khi có sự chậm trễ trong việc dàn
xếp các cuộc viếng thăm doanh nghiệp,thì đó là doanh nghiệp có dấu hiệu cho
biết tình hình sản xuất doanh nghiệp.


-
-
1
1
8
8
-
-
Mặt khác, trong kinh doanh các yếu tố pháp lý tác động đến hoạt động
kinh doanh gồm hệ thống luật, hệ thống các biện pháp đảm cho pháp luật được
thhi và sự chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật của các chủ thể tham gia hoạt động
kinh doanh và các ngành có liên quan. Pháp luật là bộ phận không thể thiếu
được của bất kỳ nền kinh tế nào, không có pháp luật hoặc pháp luật không phù
hợp thì mọi hoạt động trong nền kinh tế sẽ gặp khó khăn.Các yếu tố này có
quan hệ đan xen và tác động hoạt động kinh doanh một các tổng hợp chứ không
riêng rẽ, hay nói một cách khác chúng mang tính đồng bộ cao.
Với những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định có một hệ thống luật pháp
tương ứng. Nền kinh tế thị trường đòi hỏi các yếu tố pháp lý rõ ràng và chặt chẽ,
đảm bảo cho hoạt động kinh doanh đặc biệt là hoạt động kinh doanh tiền tệ tín
dụng đi theo một quỹ đạo nhất định nhằm hạn chế rủi ro.Vì vậy pháp luật có vai
trò hết sức quan trọng đối với hoạt động Ngân hàng nói chung và chất lượng
hoạt động tín dụng nói riêng.

4.2.Các nhân tố chủ quan:
Bao gồm các nhân tố thuộc về phía Ngân hàng như các yếu tố: Chính sách
tín dụng, công tác tổ chức, chất lượng cán bộ, quy trình nghiệp vụ, kiểm soát.
Nếu chính sách tín dụng phù hợp sẽ thu hút được nhiều khách hàng, đảm bảo
khả năng sinh lợi của hoạt động tín dụng phân tán rủi ro, tuân thủ pháp luật và
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước.Vì thế phải có chính sách cho vay
rõ ràng để xác định phương hướng sử dụng vốn được hình thành tù cổ đông và
người được ký thác.Trong những năm gần đây, càng ngày càng có nhiều Ngân
hàng đưa ra chính sách cho vay. Mặc dù các chính sách cho vay trên văn bản,
phục vụ một số mục đích nhất định, điều quan trọng là chúng ta đem lại cho
nhân viên tín dụng sự hướng dẫn cần thiết.Vì chất lượng tín dụng tuỳ thuộc vào
việc xây dựng chính sách tín dụng của Ngân hàng có đứng đắn hay không.
Về công tác tổ chức của Ngân hàng:
Cần được sắp xếp một cách khoa học, có tính linh hoạt trên cơ sở tôn
trọng các nguyên tắc tín dụng, quản lý được cơ cấu tài sản có, tài sản nợ của
Ngân hàng, đây là cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh. Cần có
sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban, có sự đoàn kết thống nhất chỉ đạo
từ trên xuống dưới, tạo điều kiện cho việc quản lý có hiệu quả các khoản vốn tín
dụng.
Về chất lượng cán bộ:
Trong một Ngân hàng muốn biết chất lượng cán bộ tốt (mặt tích cực) thì
việc trước tiên là người cán bộ phải có trình độ nghiệp vụ chuyên môn giỏi xem


-
-
1
1
9
9

-
-
xét các thủ tục để tiến hành giải quyết cho vay theo đúng luật mà Ngân hàng quy
định các bước đó là: Xét duyệt hồ sơ, quyết định đầu tư, kiểm tra việc sử dụng
vốn, thu nợ, hoạch định chủ trương, chính sách đến việc thẩm định dự án.Nói
chung mọi đúng, sai, thành công hay thất bại của các dự án tín dụng ngoài
nguyên nhân khách quan còn có nguyên nhân chủ quan đó là con người với tư
cách pháp nhân hay chủ thể cho vay trong quan hệ tín dụng vì trong Ngân hàng
phải thường xuyên giao dịch thanh toán với khách hàng. Chính vì vậy cán bộ tín
dụng phải làm vừa lòng, thoả mãn yêu cầu của khách hàng để khách hàng luôn
sẵn sàng quan hệ tín dụng với Ngân hàng và họ là khách hàng truyền thống.
Trong Ngân hàng qua thực tiễn cho thấy Ngân hàng có chất lượng cán bộ mọi
mặt đều tốt có rất nhiều các doanh nghiệp đến quan hệ tín dụng với Ngân hàng
đó là mặt điển hình của Ngân hàng.Chất lượng cán bộ là đội ngũ nhân viên trong
Ngân hàng càng làm tốt thì Ngân hàng càng có nhiều thuận lợi để phát triển
Ngân hàng. Muốn vậy Ngân hàng cần tổ chức thực hiện tốt quy trình tuyển dụng
từ khi phát sinh đến khi kết thúc. Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát vì
kiêm tra kiểm soát là nghiệp vụ rất quan trọng để đảm bảo chất lượng tín dụng.
Kiểm tra kiểm soát là giải pháp mạnh mẽ có ý nghĩa quyết định đối với việc phát
hiện, ngăn chặn và xử lý các vi phạm của tổ chức tín dụng làm cho tổ chức này
hoạt động lành mạnh có hiệu quả.
Để việc kiểm tra, kiểm soát có hiệu quả, bảo vệ được tài sản cũng như uy tín của
Ngân hàng thì cần phải bố trí cán bộ kiểm tra giỏi nghiệp vụ, chuyên môn hiểu
pháp luật, trung thực để kịp thời phát hiện và ngăn chặn kịp thời những vi phạm
có thể xảy ra, nhằm nâng cao chât lượng tín dụng.
5. Quản lý chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại.
5.1 - Quản lí nguồn huy động và đi vay của ngân hàng thương mại
Các khoản nợ là tài nguyên chính của ngân hàng. Chất lượng và số lượng
của nó ảnh hưởng đáng kể tới chất lượng số lượng các khoản cho vay và đầu tư.
Mục tiêu quản lý các khoản nợ không nằm ngoài mục tiêu quản lý chung của

ngân hàng đó là an toàn và sinh lời.
5.1.1 - Quản lí qui mô và cơ cấu
Quản lí qui mô và cơ cấu là nhằm đưa ra và thực hiện các biện pháp để ra
tăng qui mô, thay đổi cơ cấu của nguồn một cách có hiệu quả nhât.
Gia tăng các khoản tiền gửi và đi vay là một chỉ tiêu phản ánh chất lượng
hoạt động của Ngân hàng, là điều kiện để Ngân hàng mở rộng quy mô hoạt
động, nâng cao tính thanh khoản và tính ổn định, của nguồn vốn. Cơ cấu nguồn


-
-
2
2
0
0
-
-
ảnh hưởng tới cơ cấu tài sản và quyết định chi phí của Ngân hàng. Quản lý quy
mô và cơ cấu gồm những nội dung sau:
- Thống kê đầy đủ, kịp thời các thay đổi về các loại nguồn, tốc độ quay
vòng cuẩ mỗi nguồn.
- Phân tích kỹ lưỡng của các nhân tố gắn liền với thay đổi đó (các nhân tổ
ảnh hưởng và bị ảnh hưởng).
- Lập kế hoạch nguồ cho từng giai đoạn phù hợp với vật yêu cầu sử dụng.
- Công tác thống kê nguồn sẽ cho các nhà quản lí nghiên cứu mối liên hệ
giữa số lượng, cấu trúc nguồn với các nhân tố ảnh hưởng cũng như thấy được
đặc tính của thị trường nguồn Ngân hàng.
- Trong điều kiện cụ thể, các nguồn vốn của Ngân hàng có thể có tốc độ
và qui mô thay đổi khác nhau. Các Ngân hàng lớn có quy mô nguồn lớn và tốc
độ tăng trưởng nguồn có thể không cao như các Ngân hàng nhỏ. Những Ngân

hàng ở trung tâm tiền tệ có cơ cấu nguồn khác với Ngân hàng ở xa.
- Những nhân tổ ảnh hưởng và bị ảnh hưởng bởi quy mô và kết cáu của
nguồn tiền thường xuyên thay đổi và cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng. Đây
là cơ sở Ngân hàng đưa ra các quyết định phù hợp để thay thay đổi quy mô và
kết cấu nguồn tiền. Vào gần dịp tết, quy mô có tiền gửi tiết kiệm có thể giảm
xuống tương đối; hoặc nếu Ngân hàng phục vụ chủ yếu các doanh nghiệp xây
lắp, tiền gửi của họ tăng hay giảm phụ thuộc nhiều vào mùa xây dựng .Từ đó,
nhà quản lý Ngân hàng cần phân chia các loại khách hàng gắn với quy mô và tốc
độ gia tăng của mỗi nguồn.
Các khách hàng hoặc nhóm khách hàng có tiền gửi lớn cần được đặc biệt
chú ý, các nhóm khách hàng truyền thống, các nhóm khách hàng nhạy cảm với
những thay đổi về công nghệ, lãi suất và chất lượng dịch vụ kèm theo càn phải
được nghiên cứu cụ thể. Nhà quản lí cũng cần xem xét thị phần nguồn tiền của
các Ngân hàng khác trên địa bàn và khả năng cạnh tranh của họ.
- Kế hoạch nguồn cần được xây dựng cho từng giai đoạn bao gồm kế
hoạch gia tăng quy mô của mỗi nguòn, nhằm đáp ứng nhu cầu cho vay, đầu tư
hoặc chi trả cho các doanh nghiệp và dân chúng, khả năng thay đổi cơ cấu
nguồn, hoặc tìm kiếm nguồn mới. Kế hoạch nguồn được đặt trong kế hoạch sử
dụng và lợi nhuận kỳ vong, bao gồm kế hoạch về lãi suất, mở chi nhánh hoặc
điểm huy động, loại nguồn tiếp thị
5.1.2. Quản lý lãi suất chi trả.


-
-
2
2
1
1
-

-
Quản lí lãi suất của các khoản nợ là xác định các loại cơ cấu lãi suất traar
cho các nguồn tiền khác nhau nhằm đảm bảo duy trì quy mô và kế cấu nguồn
phù hợp với yêu cầu sinh lợi của Ngân hàng.
Quản lí lãi suất của các khoản nợ là một bộ phận trong quản lí chi phí của
Ngân hàng. Lãi suất chi trả càng cao càng có thể huy động và vay mượn được
càng lớn, từ đó mở rộng cho vay và đầu tư. Tuy nhiên, lãi suất càng cào làm gia
tăng chi phí của Ngân hàng và nếu doanh thu không tăng kịp chi phí, lợi nhuận
củ Ngân hàng sẽ giảm tương ứng. Vì vậy, quản lý lãi suất của nguồn vốn có liên
quan chặt chẽ với quản lý lãi suất cho vay và đầu tư của Ngân hàng.
Quản lý lãi suất gồm có:
- Nghiên cứu các nhân tổ ảnh hưởng tới lãi suất huy động:
- Đa dạng hoá lãi suất.
Lãi suất huy động gắn liền với mỗi loại sản phẩm của Ngân hàng vf với
mỗi loại Ngân hàng. Lãi suất huy động thay đổi thường xuyên dưới ảnh hưởng
của nhiều nhân tố như :
- Khả năng tiết kiệm và gia tăng tiết kiệm của quốc gia:
- Nhu cầu đầu tư của các doanh nghiệp. Nhà nước và hộ gia đình:
- Tỷ lệ làm phát.
- Tỷ lệ sinh lời của các hoạt động đầu tư khác.
- Trình độ phát triển của thị trường tài chính:
- Khả năng sinh lời của Ngân hàng.
- Độ an toàn của các Ngân hàng.
5.1.3.Quản lí kỳ hạn.
Quản lí kỳ hạn xác định kỳ hạn của nguòn phù hợp với yêu cầu về kỳ hạn
của sử dụng, đồng thời tạo sự ổn định của nguồn.
Nội dung quản lí kỳ hạn:
- Xác định kỳ hạn danh nghĩa của nguồn vốn và các nhân tố ảnh hưởng.
- Xác định kỳ hạn thực của nguồn và các nhân tố ảnh hưởng.
- Xem xét khả năng chuyển hoá kỳ hạn của nguồn.

5.1.4. Phân tích thanh khoản của nguồn vốn.
Đối với nhiều Ngân hàng phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn đang
trở thành trọng tâm quản lí nguồn vốn. Tính thanh khoản của nguồn vốn được
đo bằng khả năng tìm kiếm nguồn vốn mới với chi phí và thời gian nhỏ nhất.
Nhiều ngân hàng lớn, do thực hiện chuyển hoá kỳ hạn của nguồn (nguồn với kỳ
hạn ngắn được chuyển sang đầu tư hoặc cho vay với kỳ hạn dài hơn) và duy trì


-
-
2
2
2
2
-
-
tỷ lệ dự trữ thấp rất quan tâm tới khả năng tìm kiếm nguồn vốn để đáp ứng nhu
cầu thanh khoản đặc biệt là các nguồn trong ngắn hạn.
Tính thanh khoản của nguồn tuỳ thuộc rất lớn vào thị trường nợ của mỗi
Ngân hàng và chính sách tiền tệ đang được vận hành. Nhìn chung các Ngân
hàng lớn có nhiều chi nhánh và gần các trung tâm tiền tệ có nhiều khả năng tìm
kiêms các nguồn nhanh chóng hơn là các Ngân hàng nhỏ ít chi nhánh và ở xa.
Hơn nữa và sự phát triển của các công cụ nợ sẽ cho phép các Ngân hàng có
nhiều cơ hội tiếp xúc với các nguồn. Do vậy, tại các nước mà thị trường nợ kém
phát triển, tính thanh khoản của nguồn vốn của các Ngân hàng cũng bị giảm
thấp.
Phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn bắt đầu từ việc phân tích thị
trường nguồn vốn của mỗi Ngân hàng để thấy đặc điểm của mỗi nguồn (như quy
mô, tốc độ tăng trưởng, vòng quay, lãi suất và sự biến đổi của lãi suất, tỷ trọng
thị trường của Ngân hàng so với các tổ chức tín dụng khác ). Ngân hàng cần

tập trung phân tích nguồn vay mượn từ Ngân hàng Nhà nước và từ các tổ chức
tín dụng khác. Các nguồn này tuy ngắn hạn song có thể có được trong thời gian
ngắn, nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản trong hạn. Các nguồn mà ngân hàng
có ưu thế cũng cần được xem xét.
5. 2. Quản lí tài khoản.
Quản lý tài sản là hoạt đọng của Ngân hàng thương mại với nội dung
chuyển hoá nguồn vốn tiền gửi, tiền vay vốn của chủ thành các loại tài sản như
ngân quỹ, tín dụng, chứng khoán tài sản khác một phương thức thích hợp nhằm
thoả mãn các mục tiêu mà Ngân hàng đặt ra.
5.2.1. Quản lý ngân quỹ.
Ngân quỹ của Ngân hàng là những tài sản có tính thanh khoản cao nhất
(được sử dụng để thanh toán tức thời) được thiết lập nhằm duy trì khả năng chi
trả và các yêu cầu khác của Ngân hàng thương mại
Thư nhất, mỗi Ngân hàng đều cần duy trì dự trữ bắt buộc (dự trữ pháp
định) theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Dự trữ bắt buộc được tính dựa
trên nguồn huy động trong kỳ tính và tỷ lệ dự trữ bắt buộc cụ thể. Dự trữ bắt
buộc được tồn tại trong Ngân hàng dưới hình thức ngân quỹ của Ngân hàng, có
nghĩa là ngân quỹ trong kỳ của Ngân hàng phải đảm bảo thoả mãn số lượng dự
trữ bắt buộc mà một ngân hàng phải duy trì trong kỳ đó.


-
-
2
2
3
3
-
-
Mức dự trữ

bắt buộc trong kỳ
=
Tỷ lệ dự trữ

bắt buộc
x
Số dư binh quân của các nguồn
phải dự trữ bắt buộc trong kỳ

Tỷ lệ dự trữ bắt buộc thường do Quốc hội quy định, Ngân hàng Trung
ương (Ngân hàng Nhà nước) có thể thay đổi tỷ lệ này trong các thời kì khác
nhau đối với các nguồn khác nhau, hoặc có thể được phân biệt theo quy mô theo
loại tiền, theo vùng.
Các nguồn là đối tượng phải dự trữ bắt buộc cũng có thể bị thay đổi tuỳ
theo chính sách của Ngân hàng Nhà nước, thông thường đó là các nguồn tiền
gửi. Các nguồn tiền gửi ngắn hạn thường phải tính dự trữ bắt buộc với tỷ lệ cao
so với các nguồn khác.
Hình thức biểu hiện của dự trữ bắt buộc cũng khác nhau tại nước khác
nhau, tuỳ theo khả năng kiểm soát của Ngân hàng Nhà nước. Tại Việt Nam, dự
trữ bắt buộc thể hiện ở khoản mục “Tiền gửi của Ngân hàng thương mại tại
Ngân hàng Nhà nước”.
Ví dụ các nguồn tiền gửi phải dự trữ bắt buộc bình quân tháng 1 là 200 tỷ
và tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 5% thì mức dự trữ bắt buộc phải có trong tháng 2: 200
x 5% = 10tỷ
Vào 3 ngày đầu tháng 3, Ngân hàng Nhà nước sẽ tính số dư bình quân
tiền gửi của Ngân hàng thương mại tại Ngân hàng Nhà nước trong các tháng 2,
giả sử là 12 tỷ. Vậy trong tháng 2, Ngân hàng thương mại dư thừa dự trữ 12 - 10
= 2tỷ
Giả sử số là 9 tỷ thì Ngân hàng đã thiếu dự trữ bắt buộc 10 - 9 = 1 tỷ.
Thứ hai, Ngân hàng phải duy trì khả năng chi trả bằng cách duy trì ngân

quỹ với tỷ lệ thích hợp với nhu cầu thanh toán của khách. Đối với Ngân hàng
đáp ứng nhu cầu thanh khoản chủ yếu bằng các tài sản thanh khoản thì ngân quỹ
ngoài đảm bảo dự trữ bắt buộc còn phải đáp ứng yêu cầu chi trả. Tính toán nhu
cầu chi trả dựa vào các nguồn tiền gửi ngắn hạn với các tỷ lệ chi trả dự tính và
nhu cầu cho vay mà Ngân hàng đã cam kết, khả năng huy động của các nguồn
tiền rẻ để chi trả
Như vậy, ngân quỹ của Ngân hàng ngoài mục tiêu thực hiện chi trả
thường xuyên còn phải đảm bảo yêu cầu quy định của pháp luật về dự trữ bắt
buộc. Ngân quỹ Ngân hàng sinh lời rất thấp, vì vậy, giữ Ngân quỹ nhiều là
không kinh tế.Quản lí ngân quỹ về thực chất và tính toán số ngân quỹ tối thiểu


-
-
2
2
4
4
-
-
cần giữ trong các thời kỳ khác nhau, đồng thời cân đối giữ các bộ phận của
ngân quỹ (tiền mặt, tiền gửi )một cách phù hợp với nhu cầu sử dụng của khách
hàng (phần này được nghiên cứu kĩ hơn trong chương trình quản lí thanh
khoản).
5.2.2.Quản lý chứng khoán.
Chứng khoán có thể được phân chia theo nhiều tiêu thức. Tuy nhiên Ngân
hàng quan tâm tới chứng khoán trên 2 giác độ chính: An toàn và sonh lợi chứng
khoán. Vì vậy, Ngân hàng phân loại chứng khoán thành hai nhóm chính: Các
chứng khoán thanh khoản song sinh lợi thấp và các chứng khoán kém thanh
khoản hơn song sinh lợi lại cao. Loại thứ nhất được nắm giữ chủ yếu để đáp ứng

nhu cầu chi trả, loại thứ hai chủ yếu đáp ứng yêu cầu sinh lợin. Loại thứ nhất
trong chứng khoán của các Chính phủ, các tổ chức tài chính hàng đầu trong
nước và quốc tế và có thời gian dến lúc đào hạn ngắn. Loại thứ hai là của Chính
phủ, các tổ chức tài chính và các công th có thời gian đáo hạn tương đối dài.
Công tác quản lý chứng khoán đòi hỏi phải thướng xuyên xếp hạng chứng
khoán tuỳ theo tính an toàn và thời gian còn lại của chungns. Ví dụ chứng khoán
côg ty có thời hạn 5 năm, song đã nắm giữ được 4 năm 8 tháng, tình hình tài
chính ủa công ty trả nợ tốt, thì có thể xếp vào chứng khoán thanh khoản. Chứng
khoán 12 tháng song công ty phát hành đang lâm vào tình trạng khó khăn bất
thường, ít khả năng cữu vãn thì cũng xếp vào chứng khoán kém thanh khoản.
Nhiều Ngân hàng phân chia nhỏ thang bậc của chứng khoán theo cách xếp loại
của các tổ chức tư vấn tài chính quốc tế (theo chất lượng quốc gia, ngành, công
ty phát hành chứng khoán). Các chứng khoán cũng có thể được xếp loại theo
mục đích nắm giữ chủ yếu, như chứng khoán nắm giữ nhằm mục đích kiểm soát
công ty phát hành nắm giữ chỉ nhằm mục đích thu lợi tức, nắm giữ nhằm mục
đích thanh khoản (bán để có thể chi trả), nhằm mục đích đầu cơ (kỳ vọng giá lên
cao, bán để hưởng chênh lệch giá) Ngân hàng có thể tổ chức phòng quản lý
chứng khoán hoặc phòng ngân quỹ sẽ quản lý các chứng khoán thanh khoản còn
phòng chứng khoán ( hoặc công ty chứng khoán) sẽ quản lý chứng khoán đầu tư.
Để xếp loại chứng khoán, Ngân hàng phải thướng xuyên theo dõi, phân
tích và đánh giá tình hình tài chính của các công ty phát hành chứng khoán, sự
biến động tỷ giá, lãi suất thị trường, giá bất động sản tình hình chính trị của
mỗi quốc gia, khu vực và toàn cầu.
Ngân hàng thường xuyên xét một số chỉ tiêu liên quan đến danh mục
chứng khoán như rủi ro và thu thập chứng từ chứng khoán, xu hướng vận động
của giá chứng khoán và nhân tổ ảnh hưởng, tỷ lệ chứng khoán thanh khoản trên


-
-

2
2
5
5
-
-
ngân quỹ hoặc tiền gửi các tỷ lệ này phản ánh chiến lược quản lý chứng
khoán của Ngân hàng.
Quản lý chứng khoán được thực hiện trên nguyên tắc quản lý danh mục
đàu tư. Các chứng khoán thường xuyên được phân tích với giá thị trường và
cuối cùng là nguyên tắc đa dạng hoá “ không bỏ trừng vào một giỏ”.
5.2.3.Quả lý tín dụng.
Ngân hàng cấp tín dụng nhằm mục tiêu thu lời, như vậy mục tiêu an toàn
và sinh lợi vẫn là mục tiêu chính trong quản lí tín dụng.
5.3.3.1. Hoạt động tín dụng mang lại thu nhập lớn nhất trong Ngân hàng.
Thu dự tính từ hoạt động tín dụng (là một bộ phận của thu lãi) phụ thuộc
vào quy mô, thời gian và lãi suất và cả ba yếu tố này có mỗi liên hệ khàng khu.
Thư nhất, Ngân hàng, sử dụng mới nỗ lực của mình của tăng quy mô tín
dụng như mở rộng mạng lưới đa dạng hoá các loại hình tín dụng, phát triển công
nghệ mới nhằm gia tăng tiên ích cho khách giảm lãi suất hoặc cung cấp các điều
kiện ưu đãi các biện pháp này nhằm làm giảm rủi ro cho ngân hàng. Mối quan
hệ này cho phép Ngân hàng phân biệt lãi suất và các điều kiện tài trợ khác với
các khách hàng lớn, quan trọng và liên kết với các tổ chức tín dụng khác trên thị
trường.
5.3.3.2. Rủi ro từ hoạt động tín dụng là rất lớn.
Tổn thất nếu xảy ra làm giảm thu nhập dự tính và có thể gây thua lỗ hoặc
phá sản cho Ngân hàng. Do vậy, an toàn tín dụng là nội dung chính trong quản
lý rủi ro của mọi Ngân hàng thương mại. Có hai mối quan hệ giữa rủi ro và sinh
lợi trong hoạt động tín dụng. Trước khi tài trợ, mối quan hệ có thể lệ là:Rủi ro
càng cao, sinh lợi kỳ vọng càng lớn: cho vay trung và dài hạn, cho vay tiêu

dùng rủi ro cao hơn thì lãi suất danh nghĩa sẽ cao hơn so với lãi suất cho vay
ngắn hạn, hoặc cho vay đối với doanh nghiệp Tuy nhiên sau khi tài trợ quan
hệ đó lại là tồn thất càng cao thì sin lợi của ngân quỹ Ngân hàng có thể theo đuổi
chiến lược tài trợ rủi ro cao hoặc thấp trong ngắn hạn, song đều phải xác lập mối
liên hệ rủi ro và sinh lời nhằm đảm bảo gia tăng thu nhập cho chủ sở hữu trong
dài hạn.
Ngân hàng thường phân loại rủi ro tính dụng dựa trên thông kê kinh
nghiệm và phân tích các điều kiện thị trường. Phân loại này cho phép nhà quản
lý xác định các tỷ lệ rủi ro liên quan tới từng nhóm khách hàng, các nguyên
nhân rây ra rủi ro và môi trường rủi ro nảy sinh rủi ro. Phân loại cũng giúp nhà
quản lý xác định các phép đo rủi ro tín dụng một cách hợp lý và ngưỡng rui ro
mà Ngân hàng có thể chấp nhận.

×