Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (710.92 KB, 31 trang )

Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ


Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16
1







Đề án
Lý thuyết tài chính tiền tệ
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ


Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16
2
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ HÀNG HOÁ CỦA THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN
I- KHÁI NIỆM, CHỨC NĂNG, VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN.
1.Khái niệm: Thị trường chứng khoán được hiểu một cách chung nhất là nơi
diễn ra các hoạt động mua bán, trao đổi các loại hàng hoá - chứng khoán và các
dịch vụ tài chính giữa các chủ thể tham gia trên thị trường.
2. Chức năng của thị trường chứng khoán.
Sự ra đời và phát triển của TTCK có vai trò rất quan trọng đối với nền
kinh tế của các quốc gia, kể các nước phát triển và nước đang phát triển. Nó
thức sự là một kênh huy động vốn hiệu quả, thúc đẩy quá trình tích luỹ, tập


trung và phân phối vốn phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế. Chức năng này
được thể hiện như sau:
2.1 Cung cấp nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế
Như chúng ta biết lượng tiền nhàn rỗi trong nền kinh tế là rất lớn đặc biệt
là trong dân cư. Vì vậy, vấn đề tập trung nguồn vốn này để đầu tư sản xuất luôn
là vấn đề được rất nhiều tổ chức, nhà quản lý quan tâm. Hiện nay công cụ được
họ sử dụng nhiều nhất là phát hành các loại chứng khoán. Khi nhà đầu tư mua
chứng khoán do các công ty, tổ chức phát hành, số tiền nhàn rỗi này sẽ được
đưa vào sản xuất kinh doanh qua đó góp phần mở rộng đầu tư thúc đẩy kinh tế
phát triển. Còn đối với chính phủ, chính quyền địa phương họ có thể phát hành
các trái phiếu để tài trợ cho các công trình, đầu tư và phát triển cơ sở hạ tầng
hoặc qua đó Ngân hàng Nhà nước phát hành các công cụ trên thị trường mở để
điều tiết, thực hiện chính sác kinh tế vĩ mô.
Như vậy, ta có thể thấy thị trường chứng khoán là nơi cung cấp và phân
phối các nguồn vốn tiết kiệm. Thông qua thị trường nó được tập trung và phân
phối lại cho những người có nhu cầu sử dụng. Việc huy động vốn trên thị
trường chứng khoán làm tăng vốn của các công ty và giúp họ tránh các khoản
vay có chi phí cao cũng như sự kiểm soát chặt chẽ của Ngân hàng thương mại.
Bên cạnh đó cũng tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức, cá nhân nước ngoài
đầu tư vào các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả, có tiềm năng, mà không phải chụi
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ


Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16
3
sự kiểm soát chặt chẽ của nhà nước như khi đầu tư thành lập các doanh nghiệp
thông qua nguồn vốn trực tiếp và gián tiếp.
2.2 Tạo môi trường đầu tư cho công chúng.
Thị trường chứng khoán được thành lập và hoạt động dưới sự kiểm soát
chặt chẽ của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy, nó cung cấp cho

công chúng môi trường đầu tư lành mạnh và các cơ hội lựa chọn cực kì phong
phú dưới nhiều hình thức khác nhau. Các loại chứng khoán được trao đổi mua
bán trên thị trường rất khác nhau về tính chất, lợi nhuận và mức độ sinh lời và
đặc biệt là tính thanh khoản của nó. Mỗi nhà đầu tư có mức độ chụi rủi ro khác
nhau sẽ chọn cho mình các loại chứng khoán khác nhau, tùy thuộc vào khả
năng, mục tiêu và sở thích của họ. Các chứng khoán được mua bán trên thị
trường sẽ mạng lại thu nhập và các quyền lợi khác cho người sở hữu, nắm giữ
nó.
Bên cạnh đó với sự tham gia đông đảo của quần chúng nhân dân sé làm
cho cầu về hàng hoá đa dạng hơn, đông đảo hơn làm tăng tính thanh khoản của
thị trường. Đây là điều hết sức quan trọng bởi nó là điều mà bất kì thị trường
nước nào cũng cần và tìm mọi cách để đạt được.
2.3 Nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Một doanh nghiệp khi tham gia thị trường tức là nó phải đáp ứng các yêu
cầu như: minh bạch quản lý, thường xuyên công bố thông tin,…đồng thời họ
chụi sự giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Vì vậy, nó băt buộc
các doanh nghiệp phải sử dụng nguồn vốn huy động được một các hợp lý, đảm
bảo khả năng sinh lời nếu không họ sẽ tự bị đào thải ra khỏi thị trường. Mặt
khác thông qua thị trường chứng khoán các doanh nghiệp làm ăn tốt, hiệu quả
có thể tự quảng bá hình ảnh thương hiệu và uy tín của mình trên thị trường, tạo
điều kiện thuận lợi cho việc huy động vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh
doanh, đổi mới công nghệ, thực hiện tái sản xuất mở rộng, đầu tư vào các dự án
mới….
2.4 Giúp chính phủ hoạch định và thực hiện chính sách kinh tế vĩ mô.
Thị trường chứng khoán là một trong những chỉ báo hết sức quan trọng
và nhạy bén. Nó phản ánh sự ổn định, chu kì kinh doanh của nền kinh tế. Khi
chỉ số chứng khoán tăng điều đó có nghía là các hoạt động đầu tư, sản xuất
trong nước đang được mở rộng điều này cho phép Chính phủ và các công ty
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ



Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16
4
phân bổ lại nguồn lực một các hợp lý tạo điều kiện tái cấu trúc lại nền kinh tế,
ngược lại chỉ số trên thị trường chứng khoán có xu hướng giảm điều này có
nghĩa là nền kinh tế trong nước đang có diễn biến xấu đòi hỏi Chính phủ phải
có những thay đổi , điều chỉnh kịp thời. Mặt khác, thông qua thị trường chứng
khoán Chính phủ có thể phát hành các trái phiếu bù đắp thâm hụt Ngân sách
Nhà nước và quản lý lạm phát, Ngân hàng Nhà nước có thể phát hành các
chứng chỉ, tín phiếu, trái phiếu,… thực hiện chính sách tiền tệ, chính sách tài
khoá giúp nền kinh tế phát triển tốt hơn.
3 Vai trò của TTCK đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam
Mặc dù thị trường chứng khoán Việt Nam còn khá là non trẻ mới có hơn
6 tuổi nhưng nó đã đóng góp vai trò vô cùng to lớn cho sự phát triển kinh tế đất
nước, vai trò này được thể hiện qua một số điểm:
3.1 Là một kênh huy động vốn hiệu quả, phù hợp với nền kinh tế Việt
Nam.
Việt Nam là một đất nước đang phát triển khả năng tích tụ, tập trung vốn
còn rất thấp và gặp nhiều hạn chế, trong khi đó thị trường tài chính mới ở giai
đoạn sơ khai của sự phát triển. Nhưng với sự ra đời của thị trường chứng khoán
nó đã tạo ra những bước tiến đột phá cho nền kinh tế đất nước và thực sự trở
thành một kênh huy độngvốn vô cùng hiệu quả cho các doanh nghiệp. Nhờ có
nó mà lượng tiền tiết kiệm trong dân cư được tích tụ tập trung thành các nguồn
vốn đầu tứ có hiệu quả. Bên cạnh đó luồng vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài
chảy vào Việt Nam cũng không ngừng tăng lên. Tính đến thời điểm hiện tại(
tính theo vốn gốc) lượng vốn đạt đến 2 tỷ USD còn nếu tính theo lượng vốn hoá
thị trường thì con số này đã lên đến trên 4 tỷ USD, theo thông tin từ UBCKNN
thì trong vòng từ tháng 6 đến cuối tháng 12 lượng vốn đầu tư gián tiếp đổ vào
Việt Nam có thể tăng lên 600 triệu USD. Có thể nói đây là một con số đáng mơ
ước với một thị trường còn rất mới mẻ như nước ta. Điều đó cũng khẳng định

rằng nó thực sự là một kênh huy động vốn hiệu quả.
3.2 Thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu.
3.3 Thúc đẩy cổ phàn hoá doanh nghiệp Nhà nước
Khi chúng ta đưa thị trường chứng khoán vào hoạt động điều đó có nghĩa
là chúng ta đã chấp nhận cuộc cạnh tranh, bình đẳng công bằng đối với tất cả
doanh nghiệp nói chung trong nền kinh tế. Doanh nghiệp muốn niêm yết chứng
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ


Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16
5
khóan khoán của mình trên thị trường thì họ bắt buộc phải tiến hành Cổ phần
hoá. Bởi chí có các doanh nghiệp cổ phần mới được phát hành đầy đủ các loại
chứng khoán ( công ty trách nhiệm hữu hạn chỉ được phát hành trái phiếu), điều
này giúp họ phát huy được thế mạnh tự chủ, tự lập, tự cường không chụi sự
quản lý, can thiệp của Nhà nước tạo lợi thế trong kinh doanh và huy động vốn.
Như vậy có thể kết luận Cổ phần hoá là con đường và mô hinh ưu việt nhất để
doanh nghiệp phát triển.
Theo báo cáo gần đây cho thấy, ở Việt Nam tính từ thời điểm doanh
nghiệp nhà nước đầu tiên đi vào cổ phần hoá thì đến nay có khoảng hơn 4000
Doanh nghiệp Nhà nước đã hoàn thành cổ phần hoá. Trong đó riêng khoảng
thời gian từ năm 2000 đến nay, đã có khoảng hơn 3500 doanh nghiệp được cổ
phần hoá. Đây cũng là thời gian thị trường chứng khoán mới được thành lập và
đi vào hoạt động, điều này đã chứng tỏ thị trường chứng khoán có vai trò vô
cùng quan trọng trong tiến trình cổ phần hoá doanh nghiệp.
Trong 7 năm qua, hay nói rộng hơn việc Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà
nước ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn. Điều này đã góp
phần vô cùng quan trọng đối với đổi mới kinh tế, chuyển nền kinh tế từ cơ chế
tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở
rộng phạm vi kinh doanh, quyền đầu tư của khu vực kinh tế nước ngoài thông

qua chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài, khuyến khích kinh tế tư nhân
phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế.
3.4 Thúc đẩy hội hội nhập kinh tế quốc tế
Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời giúp cho các doanh nghiệp Việt
Nam thu hút được luồng vốn đầu tư nước ngoài rẻ hơn, tăng cường đầu tư tiết
kiệm bên ngoài mà ít chụi sự kiểm soát của Nhà nước. Đồng thời thông qua đó
họ cũng có thể Niêm yết cổ phiếu, trái phiếu của mình trên thị trường chứng
khoán nước khác, điều này còn mới mẻ với các doanh nghiệp Việt Nam nhưng
lợi ích của nó mang lại là rất lớn: họ có vốn, quảng bá hình ảnh, thương hiệu
của mình… mở rộng cơ hội kinh doanh của các công ty trong nước.
Bên cạnh đó các doanh nghiệp cũng nhận ra rằng xu thế hội nhập và toán
cầu hoá là xu thế tất yếu hiện tại và tương lai. Có nhiều con đường và các làm
để tiến tới xu thế này nhưng hiệu quả nhất vẫn là thông qua thị trường chứng
khoán bởi nó là con đường nhanh và hiệu quả nhất, tiết kiệm được thời gian và
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ


Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16
6
chi phí. Đồng thời nó cũn thúc đẩy họ phải tăng tính cạnh tranh, sáng tạo, hoạt
động có hiệu quả trên thị trường trong nước và quốc tế thì mới có thể phát triển
và đứng vững được.
II- HÀNG HOÁ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
Một trong những yếu tố tạo nên sự hoạt động sôi động của thị trường
chứng khoán là hàng hoá của thị trường chứng khoán. Đó là công cụ xác nhận
tư cách chủ sở hữu đối với một công ty (cổ phiếu), hay mối quan hệ chủ nợ với
một công ty hay một cơ quan chính phủ (trái phiếu), hoặc xác nhận các quyền
đối với quyền sở hữu (thể hiện ở một số công cụ phái sinh)
Các chứng khoán được chia ra làm 4 nhóm chính là:
- Cổ phiếu (chứng khoán vốn - Equity Securities)

- Trái phiếu (Chứng khoán nợ - Debt Securities)
- Các công cụ chuyển đổi
- Các công cụ phái sinh
1. Cổ phiếu
1.1 Khái niệm: Khi một công ty gọi vốn, số vốn cần gọi đó được chia
thành nhiều phần nhỏ bằng nhau gọi là cổ phần. Người mua cổ phần gọi là cổ
đông. Cổ đông được cấp một giấy chứng nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu
và chỉ có công ty cổ phần mới phát hành cổ phiếu. Như vậy, cổ phiếu chính là
một chứng thư chứng minh quyền sở hữu của một cổ đông đối với một công ty
cổ phần và cổ đông là người có cổ phần thể hiện bằng cổ phiếu. Thông thường
hiện nay các công ty cổ phần thường phát hành 02 dạng cổ phiếu: Cổ phiếu
thường và cổ phiếu ưu đãi. Các cổ đông sở hữu cổ phiếu thông thường có quyền
hạn và trách nhiệm đối với công ty như: Được chia cổ tức theo kết quả kinh
doanh; Được quyền bầu cử, ứng cử vào bộ máy quản trị và kiểm sóat công ty;
Và phải chịu trách nhiệm về sự thua lỗ hoặc phá sản tương ứng với phần vốn
góp của mình. Các cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu đãi cũng là hình thức đầu tư vốn
cổ phần như cổ phiếu thông thường nhưng quyền hạn và trách nhiệm hạn chế
như: lợi tức cố định; không có quyền bầu cử, ứng cử v.v
1.2 Tác dụng của phát hành cổ phiếu
Đối với Công ty phát hành: Việc phát hành Cổ phiếu sẽ giúp cho Công ty
có thể huy động vốn khi thành lập hoặc để mở rộng kinh doanh. Nguồn vốn huy
động này không cấu thành một khoản nợ mà công ty phải có trách nhiệm hoàn
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ


Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16
7
trả cũng như áp lực về khả năng cân đối thanh khoản của công ty sẽ giảm rất
nhiều, trong khi sử dụng các phương thức khác như phát hành trái phiếu công
ty, vay nợ từ các tổ chức tín dụng thì hoàn toàn ngược lại. Tuy nhiên, mỗi

phương thức huy động đều có những ưu nhược điểm riêng và nhà quản lý công
ty phải cân nhắc, lựa chọn tùy từng thời điểm và dựa trên những đặc thù cũng
như chiến lược kinh doanh của công ty để quyết định phương thức áp dụng
thích hợp.
Đối với nhà Đầu tư Cổ phiếu: Các nhà đầu tư trên thị trường sẵn sàng
mua Cổ phiếu được công ty phát hành. Giấy chứng nhận sở hữu cổ phần được
phát hành dưới dạng chứng thư có giá và được xác định thông qua việc chuyển
dịch, mua bán chúng trên thị trường chứng khoán giữa các chủ thể đầu tư và
được pháp luật bảo vệ. Mặt khác, người mua cổ phiếu nghĩ rằng đồng vốn họ
đầu tư được các nhà quản lý công ty sử dụng có hiệu quả, tạo ra nhiều lợi nhuận
hoặc đánh giá hoạt động cũng như tiềm năng phát triển, sinh lợi của công ty dự
định đầu tư là cao, và đương nhiên họ sẽ được hưởng một phần từ những thành
quả đó thông qua việc thanh toán cổ tức cho các cổ đông, đồng thời giá trị cổ
phần sở hữu cũng sẽ gia tăng trên cơ sở thực tại và triển vọng phát triển của
công ty mình đã chọn. Thông thường, khả năng sinh lợi, thu hồi vốn đầu tư cổ
phiếu tỷ lệ thuận vớI giá cả giao dịch cổ phiếu trên thị trường.
2. Trái phiếu.
2.1 Khái niệm : Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ
của người phát hành (người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán
(người cho vay) một khoản tiền xác định, thường là trong những khoảng thời
gian cụ thể, và phải hoàn trả khoản cho vay ban đầu khi nó đáo hạn
2.2 Đặc điểm
2.21. Một trái phiếu thông thường có ba đặc trưng chính
+ Mệnh giá
+ Lãi suất định kì ( Coupon)
+ Thời hạn
2.22 Trái phiếu thể hiện quan hệ chủ nợ - con nợ giữa người phát hành và
người đầu tư.
Phát hành trái phiếu là đi vay vốn. Mua trái phiếu là cho người phát hành
vay vốn và như vậy, trái chủ là chủ nợ của người phát hành. Là chủ nợ, người

Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ


Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16
8
nắm giữ trái phiếu (trái chủ) có quyền đòi các khoản thanh toán theo cam kết về
khối lượng và thời hạn, song không có quyền tham gia vào những vấn đề của
bên phát hành
2.23. Lãi suất của các trái phiếu rất khác nhau, được quy định bởi các yếu tố
Cung cầu vốn trên thị trường tín dụng. Lượng cung cầu vốn đó lại tuỳ
thuộc vào chu kỳ kinh tế, động thái chính sách của ngân hàng trung ương, mức
độ thâm hụt ngân sách của chính phủ và phương thức tài trợ thâm hụt đó.
Mức rủi ro của mỗi nhà phát hành và của từng đợt phát hành. Cấu trúc rủi ro
của lãi suất sẽ quy định lãi suất của mỗi trái phiếu. Rủi ro càng lớn, lãi suất càng
cao.
Thời gian đáo hạn của trái phiếu: Nếu các trái phiếu có mức rủi ro như
nhau, nhìn chung thời gian đáo hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
2.3 Phân loại trái phiếu
Thông thường trên thị trường trái được phân loại như sau:
2.31 Căn cứ vào việc có ghi danh hay không :
* Trái phiếu vô danh: là trái phiếu không mang tên trái chủ, cả trên
chứng chỉ cũng như trên sổ sách của người phát hành. Những phiếu trả lãi đính
theo tờ chứng chỉ, và khi đến hạn trả lãi, người giữ trái phiếu chỉ việc xé ra và
mang tới ngân hàng nhận lãi. Khi trái phiếu đáo hạn, người nắm giữ nó mang
chứng chỉ tới ngân hàng để nhận lại khoản cho vay.
* Trái phiếu ghi danh: Là loại trái phiếu có ghi tên và địa chỉ của trái
chủ, trên chứng chỉ và trên sổ của người phát hành. Hình thức ghi danh có thể
chỉ thực hiện cho phần vốn gốc, cũng có thể là ghi danh toàn bộ, cả gốc lẫn lãi.
Dạng ghi danh toàn bộ mà đang ngày càng phổ biến là hình thức ghi sổ. Trái
phiếu ghi sổ hoàn toàn không có dạng vật chất, quyền sở hữu được xác nhận

bằng việc lưu giữ tên và địa chỉ của chủ sở hữu trên máy tính.
2.32. Căn cứ vào đối tượng phát hành trái phiếu đó
* Trái phiếu chính phủ: là những trái phiếu do chính phủ phát hành nhằm
mục đích bù đắp thâm hụt ngân sách, tài trợ cho các công trình công ích, hoặc
làm công cụ điều tiết tiền tệ hoặc làm công cụ điều tiết tiền tệ.
Trái phiếu chính phủ là loại chứng khoán không có rủi ro thanh toán và cũng là
loại trái phiếu có tính thanh khoản cao. Do đặc điểm đó, lãi suất của trái phiếu
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ


Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16
9
chính phủ được xem là lãi suất chuẩn để làm căn cứ ấn định lãi suất của các
công cụ nợ khác có cùng kì hạn
* Trái phiếu công trình: là loại trái phiếu được phát hành để huy động vốn
cho những mục đích cụ thể, thường là để xây dung những công trình cơ sở hạ
tầng hay công trình phúc lợi công cộng. Trái phiếu này có thể do chính phủ
trung ương hoặc chính quyền địa phương phát hành
*Trái phiếu công ty: là các trái phiếu do các công ty phát hành để vay vốn
dài hạn. Trái phiếu công ty có đặc điểm:
Trái chủ được trả lãi định kỳ và trả gốc khi đáo hạn, song không được
tham dự vào các quyết định của công ty. Nhưng cũng có loại trái phiếu không
được trả lãi định kỳ, người mua được mua dưới mệnh giá và khi đáo hạn được
nhận lại mệnh giá. Khi công ty giải thể hoặc thanh lý, trái phiếu được ưu tiên
thanh toán trước các cổ phiếu. Có những điều kiện cụ thể kèm theo, hoặc nhiều
nhiều hình thức đảm bảo cho vay. Trái phiếu công ty bao gồm những loại sau:
- Trái phiếu có đảm bảo: là trái phiếu được đảm bảo bằng những tài sản
thế chấp cụ thể, thường là bất động sản và các thiết bị. Người nắm giữ trái phiếu
này được bảo vệ ở một mức độ cao trong trường hợp công ty phá sản, vì họ có
quyền đòi nợ đối với một tài sản cụ thể.

- Trái phiếu không đảm bảo: Trái phiếu tín chấp không được đảm bảo
bằng tài sản mà được đảm bảo bằng tín chấp của công ty. Nếu công ty bị phá
sản, những trái chủ của trái phiếu này được giải quyết quyền lợi sau các trái chủ
có ba bảo đảm, nhưng trước cổ đông.
Các trái phiếu tín chấp có thể chuyển đổi cho phép trái chủ được quyền
chuyển trái phiếu thành cổ phiếu thường của công ty phát hành. Tuỳ theo quy
định, việc chuyển đổi có thể được tiến hành vào bất cứ thời điểm nào, hoặc chỉ
vào những thời điểm cụ thể xác định. Ngoài những đặc điểm trên, mỗi đợt trái
phiếu được phát hành có thể được gắn kèm theo những đặc tính riêng khác nữa
nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể của một bên nào đó. Cụ thể là:
+ Trái phiếu có thể mua lại: cho phép người phát hành mua lại chứng
khoán trước khi đáo hạn khi thấy cần thiết. Đặc tính này có lợi cho người phát
hành song lại bất lợi cho người đầu tư, nên loại trái phiếu này có thể có lãi suất
cao hơn so với những trái phiếu khác có cùng thời hạn.
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ


Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16
10
+ Trái phiếu có thể bán lại: cho phép người nắm giữ trái phiếu được
quyền bán lại trái phiếu cho bên phát hành trước khi trái phiếu đáo hạn. Quyền
chủ động trong trường hợp này thuộc về nhà đầu tư, do đó lãi suất của trái phiếu
này có thể thấp hơn so với những trái phiếu khác có cùng thời hạn.
+ Trái phiếu có thể chuyển đổi: cho phép người nắm giữ nó có thể
chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu thường, tức là thay đổi tư cách từ người
chủ nợ trở thành người chủ sở hữu của công ty. Loại trái phiếu này thuộc vào
nhóm hàng hoá chứng khoán có thể chuyển đổi được đề cập tới dưới đâ:
2.4. Lợi ích của đầu tư trái phiếu
- Dù làm ăn thua lỗ, công ty vẫn phải trả đủ tiền lãi, không cắt giảm hoặc
bỏ như cổ phiếu. Nếu công ty ngừng hoạt động, thanh lý tài sản, trái chủ được

trả tiền trước người có cổ phần ưu đãi và cổ phần thông thường. Nhưng nếu
công ty có lợi nhuận cao, công ty có thể chia thêm cổ tức cho người có cổ phần,
thì trái chủ vẫn được hưởng ở mức đã định.
- Trái phiếu có loại được miễn thuế thu nhập (trái phiếu Chính phủ, trái
phiếu chính quyền địa phương). Đối với những người có thu nhập cao, mua trái
trên vẫn có lợi
- Trái phiếu trên thị trường thứ cấp có giá lên xuống đối nghịch với lãi suất
thị trường. Nếu biết tính toán phân tích để thực hiện mua bán thì vẫn có lợi.
2.5. Bất lợi đầu tư trái phiếu
- Khi nhận được tiền lãi phải lo đầu tư số tiền đó vì rất ít công ty có -
chương trình tái đầu tư tiền lãi trái phiếu. Trong khi đó, nhiều công ty có
chương trình tái đầu tư cổ tức. Cổ đông có thể mua thêm cổ phần được miễn sở
phí, và có khi còn được mua cổ phần với giá rẻ hơn giá thị trường.
- Giá trái phiếu công ty cũng biến động khá mạnh trên thị trường: khi lãi
suất suất thị trường lên cao hơn lãi suất trái phiếu thì giá trái phiếu sẽ hạ. Khi cơ
quan đánh giá xếp loại doanh nghiệp, đánh giá công ty phát hành từ loại
AAA(3A) xuống AA(2A) hoặc xuống BBB(3B) thì giá trái phiếu cũng sẽ bị hạ.
Hoặc khi có sự mất mát thị trường, vỡ nợ… thì giá trái phiếu cũng sẽ bị hạ giá
và giá trái phiếu cũng sẽ giảm đi khi ít người mua.
2.6. Những điều cần chú ý khi đầu tư vào trái phiếu.
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ


Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16
11
Trước khi mua trái phiếu cần tìm hiểu hai điều: Chiều hướng hay xu
hướng lên của lãi xuất và uy tín của công ty phát hanh. Nên mua trái phiếu lúc
lãi suất đang ở thời điểm cao nhất và đang trên đà giảm dần. Và nên mua trái
phiếu dài hạn để có thể được hưởng lãi suất cao trong một thời gian dài. Ngược
lại, lúc lãi suất đang ở mức thấp nhất và bắt đầu tăng, nên bán trái phiếu dài hạn

đi để mua vào trái phiếu trung và dai hạn.
3. Chứng khoán có thể chuyển đổi
3.1 Chứng khoán có thể chuyển đổi
Khái niệm: Chứng khoán có thể chuyển đổi là những chứng khoán cho
phép người nắm giữ nó, tuỳ theo lựa chọn và trong những điều kiện nhất định
có thể đổi nó thành một chứng khoán khác.
Những loại chứng khoán có thể chuyển đổi là:
- Cổ phiếu ưu đãi
- Trái phiếu chuyển đổi
3.2 Mục đích của phát hành trái phiếu chuyển đổi.
Phát hành chứng khoán có thể chuyển đổi là nhăm mục đích huy động
thêm vốn váo những thời điểm chưa thích hợp cho việc phát hành cổ phiếu
thường. Việc phát hành chứng khoán có thể chuyển đổi cũng có thể nhằm mục
đích tăng thêm tính hấp dẫn cho đợt phát hành, nhất là khi thị trường trái phiếu
và cổ phiếu ưu đãi đang xuống giá.
3.3 Lợi ích của phát hành trái phiếu chuyển đổi
* Đối với bên phát hành: do việc người đầu tư sẽ được hưởng quyền
chuyển đổi trái phiếu này ra cổ phiếu thường khi đến hạn:
+ Nếu là trái phiếu: Bên phát hanh sẽ phát hành trái phiếu ra với lãi suất
thấp
+ Nếu là cổ phiếu ưu đãi: bên phát hành sẽ chào bán với giá cao.
Khi các chứng khoán được chuyển đổi, nhà phát hành còn có lợi vì loại bỏ được
các khoản cố định phải trả, đồng thời tăng thêm số lượng cổ đông của công ty,
một chỉ báo có lợi cho danh tiếng công ty.
* Đối với nhà đầu tư:
+ Chứng khoán có thể chuyển đổi có sức hấp dẫn ở chỗ chúng kết hợp
được tính an toàn của trái phiếu (thu nhập cố định) với tính có thể đầu cơ của cổ
phiếu thường.
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ



Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16
12
+ Chứng khoán có thể chuyển đổi cho phép nhà đầu tư có thể được bảo
hiểm trước tình trạng lạm phát.
Tuy nhiên, những lợi ích của việc thực hiện chuyển đổi tuỳ thuộc nhiều
vào giá chuyển đổi, tỷ lệ chuyển đổi, và tương quan giá giữa công cụ có thể
chuyển đổi với những công cụ mà chúng có thể chuyển đổi thành. Đó là những
yếu tố thường không nằm trong tầm kiểm soát của người đầu tư.
Ví dụ 1: một trái phiếu có mệnh giá là 1.000.000 đồng; nếu cứ 50.000 đồng
được đổi lấy một cổ phần của cổ phiếu thường, thì giá chuyển đổi là 50.000
đồng; hệ số chuyển đổi là 1.000.000 đồng: 50.000 đồng = 20 cổ phần.
Ví dụ 2: Giả sử trái phiếu trên đang có giá là 1.045.000 đồng ; được chuyển
thành 100 cổ phần của một cổ phiếu thường. Giá tương đương chuyển đổi là
1045000 đồng : 100 = 10450 đồng.
Điều đó có nghĩa là giá trị trường của cổ phiếu ít nhất phải bằng 10.045
đồng thì việc nắm giữ trái phiếu và chuyển đổi nó thành cổ phiếu mới được coi
là tương đương về mặt giá trị. Nếu giá thị trường của cổ phiếu cao hơn giá
tương đương chuyển đổi thì việc chuyển đổi sẽ đem lại một phần lợi nhuận.
Trên thực tế rất có thể có giá cổ phiếu không lên đến mức mà người nắm giữu
trái phiếu có thể chuyển đổi trái phiếu để thu lợi nhuận.
4. Chứng khoán phái sinh.
4.1 Khái niệm: Công cụ phái sinh là những công cụ được phát hành trên
cơ sở những công cụ đã có như cổ phiếu, trái phiếu nhằm nhiều mục tiêu khác
nhau như: phân tán rủi ro, bảo vệ lợi nhuận hoặc tạo ra lợi nhuận,…
4.2 Các loại chứng khoán phái sinh.
4.21 Quyền chọn (Option).
* Khái niệm: Quyền lựa chọn là một công cụ cho phép người nắm giữ nó
được mua (nếu là quyền chọn mua) hoặc bán (nếu là quyền chọn bán) một khối
lượng nhất định hàng hoá với một mức giá xác định, và trong một thời gian nhất

định. Các hàng hoá cơ sở này có thể là cổ phiếu, chỉ số cổ phiếu, trái phiếu, chỉ
số trái phiếu, thương phẩm, đồng tiền hay hợp đồng tương lai.
* Những yếu tố cấu thành một quyền chọn:
- Tên của hàng hoá cơ sở và khối lượng được mua theo quyền.
- Loại quyền ( chọn mua hay chọn bán)
- Thời hạn của quyền
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ


Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16
13
- Mức giá thực hiện quyền

* Những mức giá liên quan một quyền là:
- Giá thị trường hiện hành của loại hàng hoá cơ sở đó.
- Giá hàng hoá cơ sở thực hiện theo quyền
- Giá quyền lựa chọn
Đối với quyền chọn mua, nếu giá thực hiện thấp hơn giá hiện hành của
chứng khoán cơ sở, thì quyền đó được gọi là đang được tiền, tức là người có
quyền có thể có lợi từ việc thực hiện quyền. Nếu giá thực hiện bằng với giá thị
trường, quyền đang ở trạng thái hoà vốn, và nếu cao hơn, gọi là đang mất tiền
Đối với quyền chọn bán: ngược lại, người thực hiện quyền sẽ có lợi nếu
giá bán thực hiện quyền cao hơn giá thị trường của hàng hoá cơ sở và sẽ bị mất
tiền nếu giá thực hiện quyền thấp hơn giá thị trường của hàng hoá cơ sở.
Giá trị mà người nắm giữ quyền lựa chọn sẽ nhận được bằng cách thực hiện
quyền được gọi là giá trị nội tạ. Nếu quyền ở trạng thái bị mất tiền, giá trị nội tại
bằng 0. Giá thị trường của một quyền thường ít nhất là bằng giá trị nội tại. Giá
bán quyền được gọi là phần phụ trội, chênh lệch giữa giá bán quyền với giá trị
nội tại (trong trường hợp quyền đang được tiền) được gọi là phần phụ trội giá trị
theo thời gian. Nói cách khác, khi đó: Giá trị theo thời gian của quyền chọn =

Giá quyền – ( Giá thị trường – giá thực hiện).Ví dụ : Giá của một quyền chọn
mua XYZ là 400.000 đồng, giá thị trường của XYZ là 42.000 đồng. Người giữ
quyền có thể chiếm lấy 200.000 đ ngay tức thì bằng cách thực hiện quyền, tức
là mua 100 cổ phần ( mức giá được quyền ấn định) với tổng chi phí 4.000.000
đồng, cũng theo mức giá thực hiện theo quyền là 40.000 đ một cổ phần; sau đó
bán ngay với giá thị trường, thu về 4.200.000 đ. Giá trị nội tại của quyền là
200.000 đồng. Mức phụ trội giá trị theo thời gian = giá quyền – giá nội tại =
400.000 đồng – 200.000 đồng = 200.000 đồng. Người mua vẫn sẵn sàng trả
phần phụ trội cho các quyền lựa chọn vì họ nhận được nhiều lợi ích từ một
quyền lựa chọn.
* Ứng dụng của quyền chọn:
Quyền lựa chọn cho phép nhà đầu tư thu được tỷ lệ % lợi tức trên vốn đầu tư
cao nhất. Ví dụ : Giả sử thị trường hiện nay của cổ phiếu XYZ là 42.000
VND/cổ phần, và bạn dự đoán sau nửa năm nữa, giá cổ phiếu XYZ sẽ tăng
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ


Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16
14
mạnh, lên tới 50.000 VND. Giả sử các quyền lựa chọn có liên quan đến giao
dịch cổ phiếu XYZ được niêm yết, bạn có thể mua một quyền chọn mua cổ
phiếu XYZ được niêm yết với giá 40.000 VND/ cổ phần. Trong vòng 6 tháng
giá cổ phiếu XYZ tăng lên 50.000 VND/cổ phần. Bạn có thể buộc người bán
giao 100 cổ phần XYZ cho bạn với giá 40.000 VND/cổ phần, sau đó bán chúng
ra thị trường với giá 50.000 đồng.
Như vậy, bạn đã tạo ra một lợi nhuận đáng kể. Trên thực tế bạn đã thu được lợi
nhuận 60.000 đồng trên khoản đầu tư 40.000 đồng, vậy lợi suất là 150%, trong
đó khoản thời gian là 6 tháng
Quyền lựa chọ được sử dụng để bảo vệ lợi nhuận. Ví dụ: Với XYZ đang
có giá thị trường là 44.000 đồng, người sở hữu 100 cổ phần XYZ bán một

quyền chọn XYZ 44.000 với gía 400.000 đồng, người bán sẽ được bảo vệ trước
các khoản thua lỗ nhờ có 40.000 đồng từ người bán quyền chọn.Nếu XYZ tiếp
tục giảm giá thì đương nhiên người bán sẽ mất tiền. Như vậy khoản thu 40.000
đồng từ việc bán quyền lựa chọn tạo ra một sự bảo vệ cụ bộ đối với tình trạng
sụt gía.
Nếu trong 6 tháng tới giá XYZ vẫn giữ nguyên, quyền sẽ không được
thực hiện. Khoản thu phụ trội 40.000 đồng là một thu nhập bổ sung trên tổng
đầu tư.
4.22 Quyền mua trước.
Khái niệm: Quyền mua trước là một quyền lựa chọn mua có thời hạn rất
ngắn, có khi chỉ vài tuần. Quyền này được phát hành khi các công ty tăng vốn
bằng cách phát hành thêm các cổ phiếu thường. Quyền cho phép một cổ đông
mua cổ phiếu mới phát hành với mức giá đã ấn định trong một khoảng thời gian
xác định.
Loại quyền này thường được phát hành theo từng đợt, mỗi cổ phiếu đang
lưu hành được kèm theo một quyền. Số quyền cần để mua một cổ phiếu mới
được quy định tuỳ theo từng đợt phát hành mới. Giá cổ phiếu ghi trên quyền
thường là thấp hơn giá hiện hành của cổ phiếu. Giá của quyền tính bằng chênh
lệch giữa giá thị trường hiện hành của cổ phần đang lưu hành và giá mua cổ
phần mới theo quyền, chia cho số lượng quyền cần có để mua một cổ phần mới.
Ví dụ: cổ phiếu bán theo quyền (giá thực hiện) là 800.000 đồng/cổ phần, nhưng
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ


Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16
15
có giá thị trường là 1.000.000 đồng, nếu cứ 10 quyền được mua một cổ phần
mới cổ phần thì giá của quyền được xác định theo công thức:
Vr = (Po – Pn)/r
Trong đó: Vr là giá trị của một quyền

Po là giá thị trường của cổ phiếu đang lưu hành
Pn là giá thực hiện cổ phiếu mới và r là số quyền cần có để mua cổ
phiếu đang lưu hành.
Vậy, giá quyền ở đây là Vr = (1.000.000 – 800.000)/10 = 20.000đồng.
Nếu không muốn thực hiện quyền, cổ đông thường có thể bán quyền trên thị
trường trong thời gian quyền chưa hết hạn. Giá quyền có thể lên xuống trong
khoảng thời gian chào bán, tuỳ thuộc biến động giá thị trường của cổ phiếu.
4.23 Chứng quyền
Khái niệm: Chứng quyền là quyền cho phép mua một số cổ phần xác định
của một cổ phiếu, với một giá xác định, trong một thời hạn nhất định. Quyền
này được phát hành khi tiến hành tổ chức lại các công ty, hoặc khi công ty
muốn khuyến khích các nhà đầu tư tiềm năng mua những trái phiếu hay cổ
phiếu ưu đãi nhưng có những điều kiện kém thuận lợi. Để chấp nhận những
điều kiện đó, nhà đầu tư có được một lựa chọn đối với sự lên giá có thể xảy ra
của cổ phiếu thường.
Đặc điểm: Khác với quyền mua trước, chứng quyền có thời hạn dài hơn,
do công ty đã phát hành công cụ cơ sở phát hành đồng thời với công cụ cơ sở.
Khác với quyền lựa chọn (option), khi chứng quyền được thực hiện, nó tạo
thành dòng tiền vào cho công ty và tăng thêm lượng cổ phiếu lưu hành trên thị
trường. Chứng quyền có thể được giao dịch tách rời với trái phiếu hay cổ phiếu
mà nó đi kèm.
Các điều kiện của chứng quyền được ghi rõ trên chứng chỉ: Các điều kiện
của chứng quyền được ghi rõ trên tờ chứng chỉ: số cổ phiếu được mua theo mỗi
chứng quyền (thườnglà 1:1); giá thực hiện cho mỗi cổ phiếu; tại thời điểm
chứng quyền được phát hành, giá này bao giờ cũng cao hơn giá thị trường của
cổ phiếu cơ sở, và giá đó có thể cố định, có thể được tăng lên định kỳ; và thời
hạn của quyền, đa số là 5-10 năm.
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ



Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16
16
4.24. Hợp đồng kì hạn
Khái niệm: Hợp dồng kỳ hạn là một thoả thuận trong đó một người mua
và một người bán chấp thuận thực hiện một giao dịch hàng hoá với khối lượng
xác định, tại một thời điểm xác định trong tương lai với một mức giá vào ngày
hôm nay. Hàng hóa ở đây có thể là bất kì thứ hàng háo nào từ nông sản, các
đồng tiền, chứng khoán. Theo hợp đồng này thì chỉ có hai bên tham gia vào việc
ký kết, giá cả do hai bên tự thoả thuận với nhau, dựa theo những ước tính mang
tính các nhân. Giá hàng hoá đó trên thị trường giao ngay vào thời điểm giao
nhận hàng hoá có thể thay đôỉ, tăng lên hoặc giảm xuống so với mức giá đã ký
kết trong hợp đồng. Khi đó, một trong hai bên mua và bán sẽ bị thiệt hại do đã
cam kết một mức giá thấp hơn (bên bán) hoặc cao hơn (bên mua) theo giá thị
trường.
Như vậy, bằng việc tham gia vào một hợp đồng kỳ hạn, cả hai bên đều
giới hạn được rủi ro tiềm năng cũng như hạn chế lợi nhuận tiềm năng của mình.
Vì chỉ có hai bên tham gia vào hợp đồng, cho nên mỗi bên đều phụ thuộc duy
nhất vào bên kia trong việc thực hiện hợp đồng. Khi có thay đổi giá cả trên thị
trường giao ngay, rủi ro thanh toán sẽ tăng lên khi một trong hai bên không thực
hiện hợp đồng. Ngoài ra, vì mức giá đặt ra mang tính cá nhân và chủ quan nên
rất có thể không chính xác.
4.25 Hợp đồng tương lai.
Khái niệm: Hợp đồng tương lai, nhờ đặc tính linh hoạt của nó, đã khắc
phục được những nhược điểm của hợp đồng kỳ hạn, và thường được xem là một
cách thức tốt hơn để rào chắn rủi ro trong kinh doanh
Những điểm khác biệt căn bản của hợp đồng tương lai so với hợp đồng
kỳ hạn là:
- Niêm yết tại sở giao dịch: Một giao dịch hợp đồng tương lai nói chung
được xử lý trên một Sở giao dịch. Điểm này cho phép giá cả được hình thành
hợp lý hơn, do các bên mua bán được cung cấp thông tin đầy đủ và công khai.

- Xoá bỏ rủi ro tín dụng: Trong các giao dịch hợp đồng tương lai được
niêm yết trên sở giao dịch, cả hai bên bán và mua đều không bao giờ biết về đối
tác giao dịch của mình. Công ty thanh toán bù trừ sẽ phục vụ như một trung
gian trong tất cả các giao dịch. Người bán bán cho công ty thanh toán bù trừ, và
người mua cũng mua qua công ty thanh toán bù trừ. Nếu một trong hai bên
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ


Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16
17
không thực hiện được hợp đồng thì vẫn không ảnh hưởng gì đến bên kia.
- Tiêu chuẩn hoá: Các hợp đồng kỳ hạn có thể được thảo ra với một hàng
hoá bất kỳ, khối lượng, chất lượng, thời gian giao hàng bất kỳ, theo thoả thuận
chung giữa hai bên bán, mua. Tuy nhiên, các hợp đồng tương lai niêm yết trên
sở giao dịch đòi hỏi việc giao nhận một khối lượng cụ thể của một hàng hoá cụ
thể đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng tối thiểu, theo một thời hạn được ấn định
trước.
- Điều chỉnh đánh giá theo mức giá thị trường (Marking to market)
Trong các hợp đồng kỳ hạn, các khoản lỗ, lãi chỉ được trả khi hợp đồng đến
hạn. Với một hợp đồng tương lai, bất kỳ món lợi nào cũng được giao nhận hàng
ngày. Cụ thể là nếu giá của hàng hoá cơ sở biến động khác với giá đã thoả thuận
(giá thực hiện hợp đồng) thì bên bị thiệt hại do sự thay đổi giá này phải trả tiền
cho bên được lợi từ sự thay đổi giá đó. Trên thực tế, vì không bên nào biết về
đối tác của mình trong giao dịch, nên những người thua đều trả tiền cho công ty
thanh toán bù trừ, và công ty này sẽ trả tiền cho những người thắng.



















Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ


Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16
18
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HÀNG HOÁ TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN VIỆT NAM
I. THỰC TRẠNG HÀNG HOÁ
1. Chủng loại hàng hoá
Thị trường chứng khoán Việt Nam ra đời ngày 20-7-2000 và thực hiện
phiên giao dịch từ ngày 28-7-2000 chỉ với 2 cổ phiếu được niêm yết trên thị
trường là REE và SAM, với giá trị thị trường ban đầu chỉ đạt 444.000.000, đến
ngày 27/11/2005 có đến 21 loại cổ phiếu được niêm yết với tổng số vốn là 1086
tỷ đồng, hai loại trái phiếu công ty với số vốn là 157 tỷ đồng và 50 loại trái
phiếu chính phủ với số vốn 54000 tỷ đồng. Như vậy, tại thời điểm này có 73
loại chứng khoán được lưu hành trên thị trường với số vốn khoảng 6600 tỷ

đồng. Sau 5 năm ta có thể nhận thấy trong thời kì này thị trường chứng khoán
Việt Nam phát triển rất chậm, số lượng chứng khoán lưu hành còn quá ít. Điều
này không có gì là khó hiểu bởi đây là giai đoạn mà thị trường của chúng ta còn
sơ khai, non trẻ, mới đi vào hoạt động. Trong khi đó trình độ hiểu biết của dân
cư về chứng khoán còn rất hạn chế, tâm lý e ngại của doanh nghiệp không
muốn tham gia vì phải chụi sự quản lý của UBCKNN, phải công bố thông tin,
kiểm toán, điều này đã góp phần làm cho thị trường khá là nguội, số cổ phiếu
tham gia niêm yết ít.
Đến thời điểm cuối tháng 12 năm 2006 thị trường đã có những bước tiến
vượt bậc: tại TTGDCKTP.HCM đã có tới 61 cổ phiếu niêm yết ( tăng 2.9 lần 5
năm trước đó), 2 chứng chỉ quỹ và khoảng 350 trái phiếu công ty và trái phiếu
Chính phủ. Như vậy, chỉ trong một năm thị trường có bước chuyển mình rất
lớn, điều này đã phản ánh thị trường chứng khoán Việt Nam đã có những bước
đi đúng đắn, hợp lý. Nhưng bên cạnh đó cũng phải thừa nhận thị trường trong
giai đoạn này vẫn còn nhiều hạn chế về cơ sở hạ tầng, trình độ hiểu biết của dân
cư về thị trường vẫn còn nhiều hạn chế, đầu tư theo tâm lý bầy đàn, hàng hoá có
chất lượng tốt không nhiều.
Từ thời điểm cuối năm 2006 và đầu năm 2007 Việt Nam tổ chức thành
công hội nghị APEC và là thành viên chính thức của tổ chức WTO, đã tác động
rất lớn đến thị trường chứng khoán Việt Nam, chỉ số Vn-Index liên tục tăng
trong một thời gian dài trước và sau tết nguyên đán, đã có thời điểm chỉ số thị
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ


Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16
19
trường đã tăng độ biến lên đến 1.170 điểm, HASTC đạt 450 điểm vào ngày
12/3/2007. Điều này đã tạo lên cơn sốt hàng háo trên thị trường, mọi người đổ
sô đi mua chứng khoán tìm cơ hội kiếm lời làm cho cung không đủ cầu, hàng
hoá trở nên khan hiếm, các doanh nghiệp thấy được lợi ích của việc lên sàn nên

liên tục đăng kí niêm yết, phát hành cổ phiếu huy động vốn. Điều này làm cho
số lượng cổ phiếu trên thị trường liên tục tăng và tính cho đến thời điểm bây giờ
cả thị trường đã có 219 mã chứng khoán niêm yết. Trong đó tại Sở giao dịch
chứng khoán Hồ Chí Minh là 125 mã chứng khoá, 2 chứng chỉ quỹ, tại trung
tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội là 94 mã cổ phiếu. Bên cạnh đó là hàng loạt
các cổ phiếu có chất lượng tốt, tính thanh khoản cao liên tục lên sàn qua các
đợt IPO như: Bảo Việt, Đạm Phú Mĩ,…. Và đặc biệt là trong thời gian tới là các
đại gia ngành Ngân hàng như: Vietcombank, BIDVbank, Agribank, Habeco,
Mobifone,…. điều này làm cho thị trường trở nên sôi nổi, tính thanh khoản của
thị trường được cải thiện rõ rệt. Bên cạnh đó là trình độ hiểu biết của dân cư về
chứng khoán, tâm lý đầu tư bầy đàn đã bị hạn chế, thị trường sau một thời gian
tăng trưởng nóng đã có những bước điều chỉnh rất tích cực Vn-index dao động
xung quanh mức điểm 1000 điểm và đến ngày 14/11/2007 sau 8 phiên điều
chỉnh liên tục Vn-index mất 102.33 điểm và đạt tại mức 973,59 điểm. Sự điều
chỉnh này làm cho thị trường mất khá nhiều điểm nhưng đây là sự điều chỉnh
cần thiết, điều này sẽ giúp thị trường phát triển ổn định và bền vững trong tương
lãi, tránh được những rủi ro khi mà thị trường phát triển quá nóng.
2. Khối lượng giao dịch.
2.1 Cổ phiếu
- Khi thị trường mới đi vào hoạt động phiên giao dịch đầu tiên ngày
28/7/2000 chỉ có 2 cổ phiếu giao dịch với giá trị là 444 triệu đồng thì đến cuối
thời điểm tháng 12 năm 2006 tổng khối lượng cổ phiếu niêm trên thị trường là
900 triệu cổ phiếu tổng giá trị giao dịch trên 10% GDP. Đến tháng 9/2007 tại
TTGDCKTP.HCM tổng khối lượng cổ phiếu giao dịch bình quân hàng ngày là
6,1 triệu cổ phiếu tăng 15% so với tháng 6/2007. Tại TTGDCK Hà Nội tổng số
lượng cổ phiếu giao dịch trong tháng 9/2007 đạt 39,45 triệu cổ phiếu gấp hơn 2
lần số lượng cổ phiếu giao dịch tháng trước đó ( 19, 42 triệu cổ phiếu). Giá trị
giao dịch tăng mạnh lên tới 3.649,26 tỷ đồng tăng gấp đôi so với giá trị giao
dịch 1.836,8 tỷ đồng một tháng trước đó. Bình quân mỗi ngày có khoảng 2,076
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ



Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16
20
triệu cổ phần thực hiện giao dịch là 192 tỷ đồng. Đặc biệt là thời gian cuối
tháng giá trị giao dịch tăng lên rõ rệt đạt 400 tỷ so với 80 – 90 tỷ đồng so với
thời gian tháng 7.
- Giao dịch nhà đầu tư nước ngoài: Trong tháng 9 tổng lượng giao dịch
của Nhà đầu tư nước ngoài tháng này giảm 30,12% so với tháng trước. Tuy
nhiên xét về tương quan mua bán thì trong tháng này nhà đầu tư mua vào nhiều
hơn là bán ra. Chênh lệch mua bán lên tới 1,092 triệu cổ phần. Các cổ phiếu
được nhà đầu tư nước ngoài mua vào nhiều nhất là SSI với 1,048 triệu cổ phần,
với tương quan là 2,66% khối lượng giao dịch mua bán của toàn thị trường, tiếp
đến là BMI với 337.700 cổ phần được mua vào, đứng thứ 3 là NTP với 334.300
cổ phần.
- Số tài khoản giao dịch tăng lên nhanh chóng: Nếu như tính đến tháng
6/2006 cả thị trường chỉ có 22.000 tài khoản tham gia giao dịch trên thị trường
thì tính đến thời điểm cuối năm 2006 cả thị trường con số này tăng lên 52000 tài
khoản, riêng tháng 8 năm 2007 tới 28 tổ chức và 573 nhà đầu tư nước ngoài mở
tài khoản tham gia giao dịch trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Sự tăng lên
nhanh chóng cuả tài khoản giao dịch làm cho các giao dịch khống chế, làm giá
trên thị trường giảm xuống, tính thanh khoản thị trường tăng lên
- Chỉ số P/E: Trước khi giai đoạn thị trường có những điều chỉnh các nhà
quản lý, các chuyên gia trong và ngoài nước đều đưa ra lời nhận xét rằng giá cổ
phiếu quá cao so với giá trị thực của nó. Chỉ số P/E trung bình của 20 cổ phiếu
niêm yết có vốn hoá lớn nhất là : 54,98 trong khi đó chỉ số này ở thị trường các
nước khác khu vực châu á là:
Bảng 1: Chỉ số P/E ngày 29/3/2007
Thị trường Chỉ số P/E
Năm 2006 Năm 2007

Hồng Kông 16,5 14,5
Ấn Độ 19,8 16,7
In-đô-nê-xi-a 17,2 13
Malaysia 18 16,1
Philipin 16,4 15,9
Thailan 11,1 10
Đài Loan 16,4 13,3
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ


Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16
21
Như vậy, so với các nước thì P/E của chúng ta là rất cao. Khả năng sinh
lời bị giảm do mua ở cổ phiếu ở mức giá qúa cao so với thị trường các nước
trong khu vực. Điều này sẽ gây tâm lý lo lắng e ngại cho các nhà đầu tư, đặc
biệt là nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường Việt Nam vì mức độ rủi ro là rất
lớn.
2.2 Trái phiếu
Trong năm 2002 tình hình giao dịch trái phiếu còn có phần ảm đạm hơn.
Chính phủ trong thời gian qua đã rất cố gắng tạo nguồn hàng cho thị trường
chứng khoán với phương châm trong giai đoạn đầu chủ yếu là giao dịch trái
phiếu chính phủ nhằm tạo đà bôi trơn cho sự vận hành của thị trường chứng
khoán Việt Nam còn rất mới mẻ. Nhưng thực tế, trái phiếu Chính phủ được giao
dịch với khối lượng rất ít. Sau hơn 3 tháng thị trường giao dịch chứng khoán
hoạt động, đã có mặt 3 loại trái phiếu chính phủ được niêm yết nhưng có 2 loại
CP1-0200 và CP1A-0100 chưa thực hiện được giao dịch nào. Còn loại trái
phiếu CP1-0100 thì được giao dịch với khối lượng rất thấp với tổng số hơn
396 trái phiếu đạt giá trị giao dịch khoảng trên 39.206.000 đồng. Đặc biệt, trong
nhiều phiên giao dịch không một trái phiếu nào được thực hiện giao dịch.
Đến thời điểm tháng 9/2006 TTGDCK Hà Nội đã tổ chức thành công 4

phiên đấu thầu trái phiếu chính phủ TPCP tổng khối lượng trái phiếu gọi thầu là
1.500 tỷ đồng. Tổng khối lượng trái phiếu tham gia đăng kí đấu thầu là 4.183 tỷ
đồng ( gấp 2,78 lần khối lượng gọi thầu) kết quả khối lượng trái phiếu trúng
thầu đạt 1.200 tỷ đồng. Tính đến thời điểm tháng 9/2006 số trái phiếu phát hành
theo phương thức bảo lãnh phát hành của Kho bạc Nhà nước và Ngân hàng phát
triển Việt Nam đăng kí giao dịch trên TTGDCK Hà Nội có 38 loại tổng gía trị
giao dịch là 7.027 tỷ đồng trong đó Kho bạc Nhà nước đạt 3.042 tỷ đồng ( 8
loại) và 30 loại của NHPT Việt Nam đạt 3.985 tỷ đồng. Tính đến cuối năm
2006 cả thị trường đã có tới 350 loại trái phiếu tham gia thị trường. Nhưng cũng
có điều nhận thấy mặc dù số trái phiếu niêm yết là khá nhiều nhưng tham gia
giao dịch lại quá ít, nó chỉ diễn ra chủ yếu là giữa các ngân hàng với nhau trong
khi đó nhà đầu tư cá nhân tham gia lại quá ít.
Nguyên nhân:
- Tính thanh khoản của trái phiếu chính phủ là rất thấp, đơn điệu chưa
đáp ứng được nhu cầu đa dạng của nhà đầu tư; phương thức giao dịch chủ yếu
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ


Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16
22
là phương thức giao dịch thoả thuận, thị trường chưa có một hệ thống nào cung
cấp thông tin đầy đủ về các giao dịch mã trái phiếu như: khối lượng, gía trị giao
dịch. Trong khi đó việc tiến hành giao dịch chỉ được thực hiện qua 2 TTGDCK
rất dễ gây sự nhầm lẫn và khó khăn cho nhà đầu tư khi theo dõi.
- Khi nhà đầu tư vào trái phiếu sẽ phải đối mặt với 3 loại rủi ro: thứ nhất:
Là rủi ro về tín dụng; thứ 2: Tính thanh khoản bởi vì hiện nay trái phiếu có tính
thanh khoản rất thấp đặc biệt là về thời gian của nó thường rất dài đa số là 10
năm và 5 năm, thứ 3: Rủi ro về lãi suất vì TPCP hiện có lãi suất cố định do đó
có sự hoán đổi lãi suất cố định sang lãi suất thả nổi.
Như vậy ta có thể thấy trong thời gian qua khối lượng và gía trị giao dịch

trên 2 trung tâm chứng khoán Hà Nội và TP.HCM đã tăng rõ rệt cả về số lượng
và gía trị giao dịch. Lược cung hàng hoá đã phần nào đáp ứng được cầu, hàng
hoá đa dạng cả về số lượng và chất lượng đặc biệt là việc IPO của một số đại
gia: Đạm Phú Mỹ, Bảo Việt,… làm cho thị trường tăng tính linh hoạt, tính
thanh khoản được nâng cao. Giai đoạn đầu năm 2007 thị trường được dẫn dắt
bởi các nhà đâu tư nước ngoài, nhưng đến thời điểm hiện nay các nhà đầu tư
trong nước đã tham gia tích cực vào thị trường, có nhiều phiên nhà đầu tư nước
ngoài tham gia giao dịch chỉ chiếm 10,5% đây là điêu hết sức bất ngờ, tâm lý
đầu tư bầy đàn đã giảm sau nhiều phiên điều chỉnh của thị trường.
Hiện nay cả nước hàng ngàn doanh nghiệp, nhưng con số hiện nay cho
thấy trên thị trường chỉ có 219 Cổ phiếu được niêm yết trên thị trường thì đó
quả là con số quá ít so với tiềm năng và quy mô của toàn thị trường. Vậy đâu là
nguyên nhân của tình trạng này, ta phải làm gì để tăng cường hàng hoá nhiều
hơn nữa cho thị trường chứng khoán Việt Nam? Để giải quyết tình trạng này ta
cần phải giải quyết các vấn đề:
II. Nguyên nhân
1. Nền kinh sôi động.
Nền kinh tế và thị trường chứng khoán có quan hệ mật thiết với nhau, thị
trường chứng khoán là kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế ngược
lại. Thị trường chứng khoán muốn phát triển thì không thể thiếu một nền kinh tế
tăng trưởng vững chắc. Bởi nền kinh tế có tác động to lớn tới thị trường chứng
khoán như: người tham gia đầu tư, chủ thể niêm yết, cung cấp nguồn hàng hoá
cho thị trường chứng khoán …
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ


Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16
23
Một nền kinh tế khó khăn sẽ tạo ra sự khó khăn cho hoạt động thị trường
chứng khoán nói chung và sự khan hiếm hàng hoá nói riêng và thị trường chứng

khoán Việt Nam cũng đang vấp phải khó khăn đó.
Trong những năm 1998, 1999, 2000 nền kinh tế vẫn còn chịu hậu quả của
cuộc khủng hoảng tài chính ở Châu Á. Điều này đã tác động rất lớn đến thị
trường chứng khoán ở Việt Nam, tốc độ tăng trưởng kinh tế bị chững lại trong
giai đoạn 1998-2000. Sang giai đoạn 2001-2006 cùng với sự ra đời của thị
trường chứng khoán Việt Nam nền kinh tế đã có những khởi sắc rất tích cực.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế duy trì ở mức ổn định trung bình là 7,7%. Lượng
vốn hoá đầu tư vào thị trường chứng khoán đến tháng 8/2007 là 4,8 tỷ USD
điều này đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế
Bảng 2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế

Năm 1998 1999 2000 2001- 2006
Tốc độ tăng
trưởng

5,8%

4,8%

6,7%

7,7%

Qua đó ta cũng nhận thấy, sự khó khăn của nền kinh tế trong giai đoạn
1998-2000 đã tác động rất lớn đến thị trường hàng hoá. Mức cung hàng hoá
luôn lớn hơn cầu dẫn tới đọng hàng hoá, điều này dẫn đến hoạt động sản xuất
kinh doanh của các công ty rất khó khăn, thị trường chứng khoán ra đời nhưng
không thể phát triển được trong thời gian dài. Sự tăng trưởng những tháng đầu
năm 2001- 2006 là rất tốt nhưng tâm lý e ngại niêm yết của các công ty, nàh
nước chưa có chính sách rõ ràng để phát triển dẫn đên lượng cung tính từ thời

điểm28/7/200 đến tháng 12 năm 2006 có 61 cổ phiếu niêm yết và đặc biệt là sau
khi Việt Nam tổ chức thành công hội nghị APEC và là thành viên của WTO thì
lượng hàng hóa không ngừng tăng lên đến thời điểm hiện tại toàn thị trường có
tới 219 cổ phiếu, chứng chỉ quỹ niêm yết
2. Nguyên nhân từ các doanh nghiệp cổ phần
2.1. Các doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết chưa sẵn sàng tham gia
thị trường:
Hiện nay theo quy định của nhà nước thì công ty được niêm yết phải thoả
mãn ít nhất hai điều kiện sau :
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ


Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16
24
- Vốn pháp định trên 10 tỷ VNĐ.
- Hai năm liên tục làm ăn có lãi, không có lỗ luỹ kế tính đên năm chào
bán
- có phương án phát hành và sử dụng vốn.
Với điều kiện đó hiện nay chúng ta có rất nhiều Công ty đủ điều kiện
niêm yết và tạo ra một thị trường hàng hoá phong phú và sôi động tuy nhiên
những doanh nghiệp đó vẫn đứng ngoài sân chơi
Vậy nguyên nhân tại đâu? Đó chính là sự ngần ngại chưa muốn tham gia
vào thị trường. Sự ngần ngại đó bao gồm cả yếu tố chủ quan và khách quan của
doanh nghiệp.
* Nguyên nhân khách quan:
- Doanh nghiệp chưa muốn tham gia vào thị trường chứng khoán bởi
trong điều khiện môi trường kinh tế vĩ mô còn nhiêù khó khăn, môi trường đầu
tư kém hấp dẫn, khả năng hoạt động có hiệu quả của hầu hết các doanh nghiệp
đều bị hạn chế . Đối với phần lớn các doanh nghiệp hiện nay là làm sao tạo ra
đầu ra hiệu quả của đồng vốn của mình hơn là huy động tăng nguồn vốn và mở

rộng sản xuất.Còn với những các doanh nghiệp làm ăn tốt thì nếu cần vốn để
mở rộng sản xuất thì việc huy động nguồn vốn không hề khó khăn (như vay vốn
của hệ thống Ngân hàng) bởi nguồn vốn đó có lãi xuất thấp (ổn định) trong khi
thu hút vốn qua thị trường chứng khoán lại có lãi xuất cao hơn .
* Nguyên nhân chủ quan:
- Một vấn đề khác không ít các công ty nhà doanh nghiệp lo ngại là nếu
doanh nghiệp tham gia thị trường chứng khoán thì doanh nghiệp dễ bị thao
túng. Khi doanh nghiệp thực hiện niêm yết thì cổ phiếu của công ty sẽ được
mua bán rộng rãi trên thị trường, các cổ đông của công ty liên tục thay đổi và
khi đó rất khó quản lý.Một nhà đàu tư có ý đồ có thể mua gom số cổ phiếu của
công ty đến khi đủ số lượng cần thiết thì có nhẩy vào điều hành doanh nghiệp.
- Khó khăn khác là các doanh nghiệp Việt Nam ,các nhà kinh tế Việt
Nam thường làm việc với cách làm ăn mà sổ sách thông tin mập mờ,cách thức
làm ăn còn theo lề nếp cũ . Do vậy khi tham gia thị trường chứng khoán thì họ
phải chấp nhận thay đổi và chấp nhận nguyên tắc (công khai thông tin) có nghĩa
các công ty niêm yết phải có nghĩa vụ công bố thông tin định kỳ, tức thời hay
theo yêu cầu một cách chính xác, trung thực và đầy đủ cho các nhà đầu tư .Các
Đề án: Lý thuết tài chính tiền tệ


Phạm Thanh Tuấn – TCBN – K16
25
tổ chức phát hành phải có nghĩa vụ nộp báo cáo tài chính xác nhận của cơ quan
Kiểm toán độc lập được chấp thuận, báo cáo hoạt động sản xuất kinh doanh và
các loại báo cáo khác khi tham gia thị trường thì doanh nghiệp phải chấp nhận
(công khai thông tin) .Doanh nghiệp có sẵn sàng chấp nhận vấn đề đó không khi
mà họ quen với các quy định hiện hành
Tóm lại : Những doanh nghiệp đủ điều kiện niêm yết tuy rằng lợi ích
tham gia là chưa rõ ràng ,nhu cầu chưa cấp bách bản thân thị trường mới đi vào
hoạt động trong khi đó tham gia thị trường thì gặp không ít khó khăn. Do vậy

họ có tâm lý dè dặt và tạm làm “ khán giả trên khán đài”
3. Tiến trình cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước diễn ra quá chậm :
Sau khi nền kinh tế chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của
nhà nước thì một vấn đề đặt ra và được thực hiện ngay khi đó lá cổ phần hoá
các doanh nghiệp Nhà nước. Đa số các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ,
kém hiệu quả, đặc biệt từ năm 1996 chuẩn bị cho thị trường chứng khoán ra đời
thì tốc độ cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước được đẩy mạnh và thực tế
cũng đã cung cấp cho thị trường chứng khoán 4 loại hàng hoá : REE, SAM,
LAF, TMS . Tiến trình cổ phần hoá mặc dù đạt được những kết quả đáng khích
lệ nhưng con rất nhiều hạn chế. Cho đến nay, cả nước mới có trên 4000 doanh
nghiệp được cổ phần hoá, trong khi đó còn hàng nghìn doanh nghiệp khác chưa
tiến hành cổ phần, đặc biệt là các doanh nghiệp thuộc tổng công ty 90-91 . Quá
trình cổ phần hoá diễn ra chậm là do bới các nguyên nhân cơ bản sau:
- Tâm lý của Giám đốc… không muốn cổ phần hoá vì sau khi cổ phần
hoá họ còn được giữu “chiếc ghế” đó hay không!
- Các doanh nghiệp chậm chễ cổ phần hoá nhằm hưởng ưu đãi của Nhà
nước cho việc cổ phần hoá.
- Trong khi cổ phần hoá thì gặp nhiều khó khăn như thanh toán các khoản
nợ của công ty, định giá tài sản …
- Các văn bản pháp luật có khi chưa sát thực tế dẫn đến khó cho việc vận
dụng.
- Trong mỗi ngành các doanh nghiệp có sự khác nhau do vậy cổ phần hoá
doanh nghiệp nó mang tính khó khăn đặc thù của từng nghành…
4. Môi trường pháp lý:

×