Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Đề tài : Đặc điểm và mối quan hệ giữa chuẩn mực đạo đức và chuẩn mực pháp luật? ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.75 KB, 15 trang )

MỞ ĐẦU
Đạo đức là lĩnh vực thuộc đời sống tinh thần của xã hội , nảy sinh từ thực tiễn các quan
hệ xã hội giữa con người với nhau , nó bao gồm toàn bộ các quan điểm,quan niệm về
thiện, ác, tố,xấu , lương tâm trách nhiệm , hạnh phúc , công bằng,…cùng với các quy tắc
đánh giá, điều chỉnh các hành vi ứng xử giữa cá nhân với cá nhân , cá nhân với xã hội
trong xã hội. Mối quan hệ giữa chuẩn mực đạo đức và pháp luật được nhiều nhà nghiên
cứu tìm hiều và có những kết luận lí thú về mối quan hệ này.Vậy, thế nào là chuẩn mực
đạo đức, pháp luật? Đặc điểm và mối quan hệ của chúng như thế nào ? Để hiểu rõ hơn về
vấn đề này em chọn đề tài
NỘI DUNG
I.khái niệm
1.Khái niệm đạo đức và pháp luật
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành hoặc thừa nhận để điều
chỉnh xã hội, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội và được đảm bảo thực hiện
bằng sức mạnh cưỡng chế.
Đạo đức là hệ thống các quy tắc xử sự một cách chuẩn mực được hình thành trong các
quan hệ con người với nhau qua các thời kì.
2.Khái niệm chuẩn mực đạo đức
Chuẩn mực đạo đức là hệ thống các quy tắc ,yêu cầu ,đòi hỏi đối với hành vi xã hội
của con người ,trong đó xác lập những quan điểm,quan niệm chung về công bằng và bất
công ,về cái thiện và cái ác ,về lương tâm ,danh dự ,trách nhiệm và những phạm trù khác
thuộc đời sống đạo đức tinh thần của xã hội.
1
II.Các đặc điểm của chuẩn mực đạo đức
Chuẩn mực đạo đức là loại chuẩn mực xã hội bất thành văn ,nghĩa là các quy tắc
,yêu cầu của nó không được ghi chép thành văn bản dưới dạng một “bộ luật đạo đức” nào
cả ,mà nó tồn tại dưới hình thức những giá trị đạo đức ,những bài học về luân thường đạo
lí ,phép đối nhân xử thế giữa con người với nhau trong xã hội.Chuẩn mực đạo đức
thường được củng cố ,giữ gìn và phát huy vai trò ,hiệu lực của nó thông qua con đường
giáo dục truyền miệng ,thông qua quá trình xã hội hóa cá nhân ,được củng cố ,tiếp thu và
lưu truyền từ đời này sang đời khác ,từ thế hệ này sang thế hệ khác.Trong lịch sử xã


hội ,chuẩn mực đạo đức được hình thành từ rất sớm trong xã hội nguyên thủy ,khi mà các
hiện tượng nhà nước và pháp luật còn chưa xuất hiện. Trong xã hội này ,cùng với các tập
quán ,chuẩn mực đạo đức là nhân tố chủ yếu chi phối và điều chỉnh hành vi của con
người.
Ví dụ như việc ta đi đường nhìn thấy một bà cụ muốn qua đường nhưng trên đường có
quá nhiều xe ,bà đứng mãi mà không qua được.Ta nhìn thấy như vậy chẳng lẽ lại ngoảnh
mặt quay đi.Tất nhiên là sẽ chẳng có bất kì điều luật nào quy định nhìn thấy cảnh tượng
như vậy ta phải quay lại đỡ bà cụ qua đường và cũng chẳng có tòa án nào xử vụ việc nếu
không đỡ bà cụ qua đường ta sẽ nhận một mức án ngồi tù hay bị phạt tiền cả.Có chăng
tòa án ở đây chỉ là tòa án lương tâm và hình phạt mà ta nhận lấy chính là sự cắn dứt
lương tâm mà thôi.Chuẩn mực đạo đức là một loại chuẩn mực bất thành văn nhưng nó lại
có tác động to lớn đến việc con người sẽ hành xử như thế nào trong một vài trường hợp
cụ thể như trong hoàn cảnh như trên chẳng hạn.
Chuẩn mực đạo đức mang tính giai cấp ,mặc dù tính giai cấp của nó không thể hiện
mạnh mẽ ,rõ nét như tính giai cấp của chuẩn mực pháp luật.Tính giai cấp của chuẩn mực
đạo đức thể hiện ở chỗ nó được sinh ra cũng là nhằm củng cố ,bảo vệ hay phục vụ cho
các nhu cầu ,lợi ích vật chất ,tinh thần của giai cấp này hay giai cấp khác trong một xã
2
hội nhất định. Ph.Angghen khẳng định : “Xét cho đến cùng ,mọi học thuyết về đạo đức
đã có từ trước đến nay đều là sản phẩm của tình hình kinh tế của xã hội lúc bấy giờ.Và vì
cho đến nay xã hội đã vận động trong những sự đối lập giai cấp ,cho nên đạo đức cũng
luôn là đạo đức của giai cấp :hoặc là nó biện hộ cho sự thống trị và lợi ích của giai cấp
thống trị ,hoặc là khi giai cấp thống trị đã trở nên khá mạnh thì nó tiêu biểu cho sự nổi
dậy chống lại sự thống trị nói trên và tiêu biểu cho lợi ích tương lai của những người bị
áp bức”.
Chuẩn mực đạo đức được đảm bảo tôn trọng và thực hiện trong thực tế xã hội là nhờ
vào hai nhóm các yếu tố :các yếu tố chủ quan và các yếu tố khách quan.
Các yếu tố chủ quan là các yếu tố tồn tại ,thường trực trong ý thức ,quan điểm của mỗi
cá nhân ,chi phối và điều khiển hành vi đạo đức của họ ,bao gồm:
* Những thói quen ,nếp sống trong sinh hoạt hàng ngày của mỗi người ,chúng được lặp đi

lặp lại nhiều lần trong quá trình xã hội hóa cá nhân ,trở thành cái thường trực trong mỗi
người và điều khiển hành vi đạo đức của họ một cách tức thời ,gần như mang tính “tự
động”.
Ví dụ như việc không ai và cũng không có pháp luật nào quy định việc con người trong
cuộc sống ,trong công việc luôn phải làm việc đúng giờ ,làm việc thật cẩn thận ,tỉ mỉ ,kĩ
càng nhưng sự thật là trong cuộc sống vẫn luôn có những con người quy củ với những
quy định đã trở thành thói quen ,nếp sống sinh hoạt của bản thân.Bác Hồ của chúng ta là
một tấm gương điển hình về làm việc quy củ và đúng giờ.Đây chính là tác động của
chuẩn mực đạo đức lên hành vi của con người .
* Sự tự nguyện ,tự giác của mỗi con người trong việc thực hiện hành vi đạo đức phù hợp
với các quy tắc của chuẩn mực đạo đức .Nếu như pháp luật được tuân thủ và thực hiện
chủ yếu nhờ vào sức mạnh cưỡng bức của các chế tài thì chuẩn mực đạo đức chủ yếu dựa
vào sự tự nguyện ,tự giác của mỗi cá nhân.
3
Ví dụ như việc ta đi trên đường làng ta nhìn thấy người già người lớn tuổi ta luôn chào
hỏi họ một cách lễ phép.Đâu có quy phạm pháp luật nào quy định việc ta phải chaof
những người lớn tuổi ta gặp trên đường nhưng ta vẫn luôn làm việc này với một trạng
thái rất vui vẻ không chút gò bó hay khó chịu.Đó chình là do ta thực hiện hành vi đó bằng
sự tự nguyện ,tự giác,không cần ai nhắc nhở mà cũng không cần đến sự cưỡng chế của
pháp luật.
* Sức mạnh nội tâm ,chịu sự chi phối bởi lương tâm của mỗi người ,Lương tâm thường
được ví như một thứ “tòa án” đặc biệt ,chuyên phán xét các hành vi sai trái ,vi phạm
chuẩn mực đạo đức. Một hành vi vi phạm chuẩn mực đạo đức có thể không bị pháp luật
trừng phạt ,nhưng nó lại bị lương tâm “cắn rứt”.Đây là một cơ chế đặc biệt của việc thực
hiện chuẩn mực đạo đức.
Ví dụ như việc ta đi trên đường nhìn thấy một người ăn xin ,đói ,rách rưới mà ta lại
không chút cảm thương sao?Không có quy phạm pháp luật nào buộc ta khi gặp những
trường hợp như thế ,ta phải đưa cho họ bao nhiêu tiền hay cho họ một thứ gì khác.Ta
cũng có thể xua tay đuổi họ đi chỗ khác vì nhìn họ “kinh” quá nhưng có lẽ ta sẽ không
làm như thế đâu vì trong mỗi người còn có lương tâm mà.Đến kẻ giết người không ghê

tay như Lê Văn Luyện hắn cũng phải động lòng khi nhìn thấy cháu bé 18 tháng tuổi đang
gào khóc trước hành động của hắn,có lẽ lúc đó nếu đứa bé nín khóc thì đã làm hắn thức
tỉnh.Nhưng ngay sau đó hắn cũng đã rất hối hận về hành vi ác thú của hắn.Pháp luật cũng
không quy định sau khi bị bắt về hành vi của mình những tên tội phạm sẽ có chút cắn dứt
lương tâm nhưng vì trong mỗi người đều còn chút lương tâm và chịu sự chi phối của
lương tâm.
Các yếu tố khách quan là những yếu tố tồn tại bên ngoài ý thức của con người ,nhưng
lại luôn giữ vai trò chi phối ,điều chỉnh hành vi đạo đức của họ ;hoặc ít nhất cũng tác
động đến việc tuân thủ chuẩn mực đạo đức ,chúng bao gồm :
4
* Sự tác động ,ảnh hưởng của các thuần phong mĩ tục trong xã hội ,hành vi hợp đạo đức
của những người xung quanh tới ý thức và hành vi đạo đức của mỗi cá nhân .Đây là biểu
hiện của quá trình tâm lí bắt chước .Tâm lí bắt chước có tác dụng tích cực trong việc thúc
đẩy cá nhân thực hiện các hành vi đạo đức đã được định hình đúng đắn ,đã trở nên rõ
ràng ,phù hợp với chuẩn mực đạo đức xã hội.
Ví dụ như việc đứng dậy chào giáo viên khi giáo viên bước vào lớp hay chào giáo viên
khi học viên gặp trên đường .Hành động đứng dậy chào của học viên có thể là do họ
ngoan ngoãn,lễ phép với giáo viên nhưng không hẳn ai cũng thích đứng lên chào trong
khi họ đang được ngồi thật thoải mái hay như những cơn buồn ngủ đang kéo đến và họ
chỉ muốn nàm dài ra bàn để ngủ thì ngay lúc đó giáo viên bước vào lớp.Liệu răng họ có
vui vé khi đứng lên chào?Có những trường hợp người bên cạnh huých vào tay họ ý nói
đứng lên chào giáo viên đi thì họ mới đứng lên hay họ nhìn xung quanh thấy những
người xung quanh đứng dậy thì họ cũng đứng lên cho đỡ “lạc loài”vậy.Đây chính là tâm
lí bắt chước đã tác động đến hành vi của con người và dường như trong nhiều trường hợp
nó lại có tác dụng tích cực.
* Sức mạnh của dư luận xã hội trong việc định hướng và điều chỉnh hành vi đạo đức của
con người.Dư luận xã hội là một cơ chế đặc biệt điều chỉnh hành vi đạo đức của con
người .Nó được coi là “búa rừu” của xã hội, một thứ “luật bất thành văn”,tác động lên
hành vi đạo đức của con người bằng cách biểu dương ,khen ngợi những hành vi đạo đức
đúng đắn ,tạo áp lực ,gây sức ép chống các biểu hiện tiêu cực ,phê phán và lên án các

hành vi sai trái ,vô đạo đức .
Ví dụ như việc dư luận lên án rất nhiều về việc các nữ ca sĩ bước lên sân khấu nghệ thuật
với những bộ đồ mặc trên người “không cốt để che thân”.Những lời bình luận không mấy
thiện cảm của dư luận cũng khiến những con người được bình luận có chút xấu hổ và sửa
chữa hành vi của mình.Như ca sĩ Minh Hằng, Thủy Tiên, sau nhiều lời bình luận về
5
kiểu ăn mặc của các chị trên sân khấu có vẻ về sau này họ đã sửa chữa cho phù hợp với
đạo đức nghề nghiệp và thuần phong mĩ tục của người Việt.Dư luận xã hội có tác động
vô cùng to lớn đến hành vi ,cách xử sự của con người trong xã hội và nó có ảnh hưởng
lâu dài về mặt thời gian.Người xưa có câu : “ngàn năm bia đá vẫn mòn,ngàn năm bia
miệng vẫn còn trơ trơ”
Chuẩn mực đạo đức được sinh ra từ sự mâu thuẫn được quy định về mặt vật chất giữa
các lợi ích chung và lợi ích riêng ,từ sự thể hiện cái hiện có và cái cần có ,nó thể hiện
năng lực của con người đối với sự tự hoàn thiện và phát triển năng lực ,nhân cách của
mình.
III.Các đặc trưng cơ bản của pháp luật .
1.Tính quy định xã hội của pháp luật
Dưới góc độ xã hội học pháp luật,tính quy định xã hội của pháp luật là một đặc trưng
cơ bản của hiện tượng pháp luật.đặc trưng này nói lên rằng,pháp luật trước hết được xem
xét như một hiện tượng xã hội,nảy sinh từ các tiền đề có tính chất xã hội,phản ánh các
quan hệ kinh tế,chính trị,văn hóa,xã hội của xã hội ở những giai đoạn lịch sử nhất định
,đặc biệt là quan hệ kinh tế.Trong mối quan hệ với kinh tế,pháp luật phụ thuộc vào kinh
tế,thể hiện ở chỗ nội dung của pháp luật là do các quan hệ kinh tế-xã hội quyết định ;chế
độ kinh tế là cơ sở,nền tảng của pháp luật.Pháp luật luôn phản ánh sự phát triển của chế
độ kinh tế,nên nó không thể cao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển của chế độ kinh
tế.Một khi chế độ kinh tế thay đổi thì sớm hay muộn sẽ kéo theo sự thay đỏi của pháp
luật.Bên cạnh đó,pháp luật có sự tác động trở lại đối với sự tác động của kinh tế.Sự tác
động đó mang tính tích cực khi pháp luật có nội dung tiến bộ,thể hiện ý chí của giai cấp
thống trị là lực lượng tiến bộ trong xã hội,phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh
tế.Ngược lại,sự tác động mang tính tiêu cực khi pháp luật mang nội dung thoái bộ,lạc

6
hậu,thể hiện ý chí của giai cấp thống trị đã lỗi thời,muốn dùng pháp luật để duy trì các
quan hệ kinh tế không còn phù hợp.
Nội dung của pháp luật được quy định bởi tình hình,đặc điểm,các điều kiện về kinh
tế,chính trị xã hội của quốc gia ở từng thời kì phát triển.Trong xã hội luôn luôn tồn tại
nhiều mối quan hệ xã hội với tính chất đa dạng và phức tạp;vì vậy,mục đích xã hội của
pháp luật là hướng tới điều chỉnh các quan hệ xã hội.Tuy nhiên,pháp luật không thể điều
chỉnh tất cả các quan hệ xã hội,mà chỉ có thể điều chỉnh những quan hệ xã hội cơ bản,có
tính phổ biến,điển hình,thông qua đó,tác động tới các quan hệ xã hội khác,định hướng
cho các quan hệ đó phát triển theo những mục đích mà nhà nước đã xác đinh.Mọi sự thay
đổi của pháp luật,suy cho cùng,đều xuất phát từ sự thay đổi của các quan hệ xã hội và
chịu sự quyết định bởi chính thực tiễn xã hội.Điều đó nói lên bản chất xã hội của pháp
luật
2.Tính chuẩn mực của pháp luật
Dưới góc độ nhìn của nhiều nhà xã hội học pháp luật thì pháp luật thường được tiếp
cận nghiên cứu với tư cách một loại chuẩn mực xã hội. Vì vậy ,tính chuẩn mực của pháp
luật là một chủ đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm .Pháp luật là hẹ thống các quy tắc
xử sự ,đó là những “khuôn mẫu” , “mực thước” được xác định một cách tương đối cụ
thể ,rõ rang trong chừng mực có thể. Tính chuẩn mực của pháp luật nói lên giới hạn cần
thiết mà nhà nước quy định để mọi chủ thể có thể xử sự một cách tự do trong khuôn khổ
cho phép ,thường biểu hiện dưới dạng “cái có thể”, “cái được phép” , “cái không được
phép” và cái bắt buộc thực hiện”….Vượt khỏi giới hạn ,phạm vi đó là vi phạm pháp
luật .Không thể có chuẩn mực pháp luật chung chung ,trừu tượng ,mà nó phải được thể
hiện ra thành các quy tắc điều chỉnh hành vi ;bởi vậy .nếu không đặt ra các quy phạm
pháp luật thì sẽ không có căn cứ pháp lí để đánh giá hành vi nào là hợp pháp và hành vi
náo bất hợp pháp.
7
Chuẩn mực pháp luật khác với các loại chuẩn mực xã hội khác ở một điểm cơ bản là nó
mang tính cưỡng chế cuả nhà nước .Các chuẩn mực xã hội ,khi được nhà nước thưa
nhận ,sử dụng và bảo đảm bằng khả năng cưỡng bức ,sẽ trở thành chuẩn mực pháp

luật.Nếu nhà nước và cac cơ quan của nó không còn thừa nhận và thực hiện ,áp dụng các
chuẩn mực đó nữa ,tức là dưới góc độ lợi ích nhà nước nó trở nên vô vị thì lúc đó nó sẽ
mất đi tính chất của một chuẩn mực pháp luật.Tuy không còn là một chuẩn mực pháp
luật,nhưng nếu về mặt thực tiễn chuẩn mực đó vẫn sống, vẫn chi phối hành vi xã hội của
con người thì tính chất chuẩn mực của nó lại mang tính chất phong tục ,tập quán đạo đức
hay thẩm mĩ chứ không phải là pháp luật nữa .Chuẩn mực pháp luật thành văn đã hàm
chứa trong nó các quy tắc xử sự mà trong phần lớn các trường hợp đã được thể hiện và
thực hiện trong hành vi thực tế của con người.
Chuẩn mực pháp luật được thực hiện chừng nào nó còn phù hợp với các quan hệ xã hội
và các lợi ích của giai cấp thống trị nảy sinh từ các quan hệ xã hội này.Chuẩn mực pháp
luật nào không còn phản ánh đúng các quan hệ xã hội nữa thì nhà nước ta phải thay đổi
nó về mặt hình thức hoạc tước đi cảu nó sức mạnh.Rõ rang ở đây không nói đến sự vi
phạm các yêu cầu của chuẩn mực pháp luật trong tiến trình thực hiện nó ,mà nói đến quá
trình hình thành những quan hệ xã hội thực tế ,trong quá trình đó thể hiện ra một nội dug
chuẩn hóa mới xuất hiện (có thể mới chỉ trong thực tế áp dụng pháp luật được công bố
chính thức ).Nếu chuẩn mực pháp luạt thể hiện nhu cầu xã hội thì đứng đằng sau nó là
chình quyền nhà nước với nhiemj vụ bảo vệ các quan hệ xã hội thống trị ,phù hợp với các
quan hệ xã hội ấy ,chuẩn mực tạo thành hành vi phù hợp với pháp luật ,tức là cưỡng bức
tuân theo nó, Sự thực hiện phổ biến tương ứng với các quan hệ xã hội thống trị đồng thời
cũng là tính chuẩn mực. Các cơ quan thực hiện ,áp dụng pháp luật thường quy định nội
dung của một chuẩn mực pháp luật nhất định bằng con đường giải thích tương ứng với
các quan hệ mới ,trog khi các quan hệ mới về cơ bản lại được phản ánh cả trong lập pháp
một cách thích hợp.Như vậy ,tính hiệu lực của chuẩn mực pháp luật dựa trên không chỉ ý
8
chí mà cả trên thực tế xã hội ,không chỉ trong sự xuất hiên chuẩn mực pháp luật ,mà cẩ
trong việc tiếp tục thực hiện chuẩn mực pháp luật đó nữa.
3.Tính ý chí của pháp luật
pháp luật không phaỉ là kết quả của sự tự phát hay cảm tính ,mà bao giờ cũng là hiện
tượng ý chí .Pháp luật thể hiện các quan hệ xã hội và ý chí giai cấp có gốc rễ từ trong các
quan hệ xã hội được thể hiện ra trong hệ thống các chuẩn mực pháp luật.Xét về bản

chất ,ý chí của pháp luật là ý chí của giai cấp cầm quyền trong xã hội ,được thể hiện rõ ở
mục đích xây dựng pháp luật ,nội dung xây dựng pháp luật và dự kiến hiệu ứng của pháp
luật khi triển khai vào thực tế.Tính ý chí nói lên mối quan hệ khăng khít giữa nhà nước và
pháp luật.Là 2 thành tố của kiến trúc thượng tầng ,cả hai hiện tượng nhà nước và pháp
luật cùng có chung nguồn gốc phát sinh ,phát triển.Nhà nước là một tổ chức đặc biệt của
quyền lực chính trị ,nhưng quyền lực đó chỉ có thể được triển khai và phát huy có hiệu
lực trên cơ sở các quy định của pháp luật.chính vì vậy ,nhà nước không thể tồn tại và phát
huy quyền lực nếu thiếu pháp luật và ngược lại ,pháp luật chỉ phát sinh ,tồn tại và có hiệu
lực khi nó dựa trên cơ sở sức mạnh của quyền lực nhà nước .Vì vậy ,không thể nói pháp
luật đứng trên nhà nước hay nhà nước đứng trên pháp luật.
Pháp luật không chỉ phản ánh bản chất giai cấp mà còn phản ánh các nhu cầu khách
quan ,phổ biến của các mối quan hệ xã hội.Vì vậy ,nhà nước không thể ban hành pháp
luật một cách tùy tiện ,chủ quan ,duy ý chí ,không tính đến những nhu cầu ,lợi ích của các
giai cấp ,tầng lớp xã hội.Khi những bộ phận nhất định của pháp luật trở nên lạc
hậu,không phù hợp với thực tiễn xã hội thì nhà nước phải tiến hành sửa đổi ,bổ sung hoăc
hủy bỏ để ban hành văn bản pháp luật mới.
4.Tính cưỡng chế của pháp luật.
Pháp luật do nhà nước xây dựng,ban hành và bảo đảm thực hiện.Điều đó có nghĩa là pháp
luật được hình thành và phát triển bằng con đường ngắn nhất.Với tư cách của mình ,nhà
9
nước là một tỏ chức hợp pháp,công khai và có quyền lực bao trùm toàn xã hội.Nhà nước
không chỉ xây dựng,ban hành pháp luật mà còn có cac biện pháp tác đọng nhằm đảm
bảo cho pháp luật được tôn trọng và thực hiện thông qua việc nhà nước thường xuyên
củng cố và hoàn thiện bộ máy công cụ thể hiện quyền lực nhà nước như quân đội,cảnh
sát,toàn án,nhà tù…Đặc trưng này chỉ có ở pháp luật không có ở các loại chuẩn mực xã
hôi khác.Pháp luật được thể hiện trong nhiều biến thể hành vi của con người nếu tính đến
bản chất giai cấp của nó.Trong thực tế phần lớn hành vi của con người phù hợp với chuẩn
mực pháp luật ,không cần đến sự đe dọa của sức mạnh cưỡng chế.Vì người ta thực hiện
các hành vi mà chẳng cần viện dẫn đến các nguyên tắc,quy định của pháp luật,nếu được
hỏi: “tại sao lại xử sụ như thế?”.Họ chỉ nói: “người khắc cũng làm như thế”.Ít có ngươi

trả lời : “pháp luật quy định phải làm như thế”
IV.Mối quan hệ giữa chuẩn mực đạo đức và pháp luật
Pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với đạo đức.Đạo đức là tập hợp các quan điểm ,quan
niệm của con người về cái thiện và cái ác,về sự công bằng và bất công ,về nghĩa vụ ,
danh dự và các phạm trù khác thuộc đời sống tinh thần của xã hội.Các quan điểm ,quan
niệm này rất khác nhau ,được quy định bởi những điều kiện của đời sống xã hội ,từ đó,
hình thành nên một hệ thống các quy tắc ửng xử của con người.Khi đạo đức đã trở thành
niềm tin nội tâm thì nó sẽ là cơ sở cho hành vi xã hội của con người.
Trong xã hội có giai cấp ,mỗi giai cấp ,tầng lớp xã hội khác nhau đều có quan niệm
đạo đức riêng của mình ; vì vậy , các quy phạm đạo đức tồn tại trong xã hội cũng có
nhiều loại và chúng có tác động qua lại với nhau. Giai cấp thống trị vì nắm quyền lực
trong tay nên có điều kiện và ưu thế nâng các quan điểm đạo đức của mình thành pháp
luật. Do đó ,pháp luật luôn phản ánh đạo đức của giai cấp cầm quyền.
Tuy nhiên ,do có sự tác động qua lại của nhiều lọai đạo đức của các giai cấp khác nhau
trong xã hội nên pháp luật không thể phản ánh ,lợi ích của các giai cấp khác nhau
10
đó.Trong khi xây dựng và thực hiện pháp luật dù muốn hay không giai cấp cầm quyền
phải đến yếu tố đạo đức nhằm tạo cho pháp luật một khả năng thích ứng ,khiến cho nó
dường như thể hiện ý chí chung của mọi tầng lớp trong xã hội.Có những quy phạm pháp
luật ,khi đã trở nên phổ biến trong xã hội thành yếu tố thường trực trong hành vi ứng xử
của con người sẽ trở thành quy phạm đạo đức.
Mặc dù chịu sự tác động của đạo đức và các quy phạm xã hội khác nhưng pháp luật
có tác động mạnh mẽ đến đạo đức .Pháp luật có thể loại bỏ các chuẩn mực đạo đức đã lỗi
thời ,caỉ tạo các chuẩn mực đạo đức ,góp phần tạo nên những chuẩn mực đạo đức mới
phù hợp hơn với tiến bộ xã hội .
Pháp luật chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định nhưng các quy phạm về đạo
đức có thể truyền từ đời này sang đời khác ,ăn sâu vào tiềm thức của con người .Ví dụ
như trong thời kì phong kiến người đàn ông có quyền được lấy nhiều vợ nhưng người
phụ nữ phải giữ tiết hạnh với một người đàn ông đó là chồng mình.Nhưng trong thời đại
ngày nay ,pháp luật quy định “chung thủy một vợ một chồng”.Hay ví dụ như việc “tôn sư

trọng đạo” – khi giáo viên bước vào lớp ,học sinh đứng dậy chào .Đây rõ ràng không phải
thuộc một quy phạm pháp luật nào điều chỉnh mà nó chính là cái tối thiểu trong đạo đức
cửa con người ,nó được truyền từ đời này sang đời khác và đã ăn sâu vào tiềm thức của
mỗi người .
Chuẩn mực đạo đức và pháp luật tuy khác nhau về phạm vi tác động ,cơ chế tác động
tới các quan hệ xã hội nhưng chúng có chung một mục đích điều tiết ,điều chỉnh hành vi
của con người trong xã hội .Mối quan hệ giữa chuẩn mực đạo đức và pháp luật là mối
quan hệ tác động qua lại ,hỗ trợ lẫn nhau và bổ sung cho nhau trong quá trình điều chỉnh
hành vi của con người .Trong mối quan hệ này ,chuẩn mực đạo đức có phạm vi điều
chỉnh các quan hệ xã hội rộng hơn ,còn pháp luật có phạm vi điều chỉnh sâu hơn .Trong
một số trường hợp ,định hướng đạo đức muốn được thực hiện một cách phổ biến trong xã
11
hội thì phải thông qua các quy phạm pháp luật để thể hiện .Điều đó cho thấy ,ở một số
khía cạnh nhất định pháp luật có ưu thế nổi trội hơn so với chuẩn mực đạo đức .Pháp luật
không chỉ là sự ghi nhận các chuẩn mực đạo đức,mà còn là công cụ ,phương tiện bảo vệ
chuẩn mực đạo đức một cách hữu hiệu bằng các biện pháp ,chế tài cụ thể .Pháp luật có
vai trò to lớn trong việc duy trì ,bảo vệ và phát triển các quy tắc đạo đức phù hợp,tiến bộ
trong xã hội.
Ví dụ như việc Bộ văn hóa và thông tin đưa ra luật xử phạt những người biểu diễn trên
sân khấu nếu mặc váy ngắn hơn 30cm đứng biểu diễn thì se bị xử phạt hành chính.Chuẩn
mực đạo đức trong trường hợp này ngoài sự ảnh hưởng của dư luận xã hội thì nó còn
được bảo vệ bởi chế tài pháp luật.
Ngược lại ,chuẩn mực đạo đức là nền tảng tinh thần để thực hiện các quy định của
pháp luật.Trong nhiều trường hợp ,các cá nhân trong xã hội thực hiện một hành vi pháp
luật hợp pháp không phải vì họ hiểu các quy định của pháp luật,mà hoàn toàn xuất phát
từ quy tắc đạo đức.Nhiều quy tắc, yêu cầu ,đòi hỏi của chuẩn mực đạo đức ,được nhà
nước sử dụng và nâng lên thành quy phạm pháp luật .khi xây dựng và ban hành pháp luật
nhà nước không thể không tính đến các quy tắc của chuẩn mực đạo đức .Chẳng hạn đối
với “tội không tố giác tội phạm”(điều 314 – bộ luật hình sự năm 1999), nếu tội phạm đó
không phải là tội phạm an ninh quốc gia hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng thì nhà

nước không truy cứu trách nhiệm hình sự đối với ông ,bà ,cha mẹ ,con cháu ,anh chị em
ruột ,chồng của người phạm tội vì về mặt đaọ đức và tâm lí ,không ai muốn người than
của mình dính lứu vào vòng tù tội .
Khủng hoảng xã hội thường biểu hiện ở các quan hệ đạo đức trong xã hội .Đến lượt
mình ,khủng hoảng đạo đức có thể tác động tiêu cực đến các mặt khác nhau của đời sống
xã hội, kể cả lĩnh vực kinh tế chẳng hạn nạn tham nhũng có thể tàn phá các quan hệ kinh
tế,từ chỗ là một vấn đề đạo đức (biểu hiện của thói tham lam vô độ,ích kỉ tột cùng ,là
12
hành vi vô đạo đức ),nó trở thành một vấn đễ xã hội (ảnh hưởng đến trật tự xã hội ,gây
nhức nhối ,bức xúc trong dư luận xã hội)- kinh tế (làm cạn kiệt công quỹ ,phương hại đến
ngân sách ,cản trở quá trình phát triển kinh tế) –pháp luật (gồm những tội phạm nghiêm
trọng và đặc biệt nghiêm trọng quy định trong bộ luật hình sự, như tội tham ô tài sản ,tội
nhận hối lộ … ).Một xã hội được coi là phát triển ổn định ,bền vững bao giờ cũng phải
đạt tới chỗ các giá trị chuẩn mực đạo đức ,pháp luật được tôn trọng và thực hiện một cách
rộng rãi ,phổ biến .
KẾT LUẬN
Ngày nay , khái niệm đạo đức còn được các nhà nghiên cức mở rộng hơn , không chỉ
trong phạm vi các quan hệ xã hội mà còn cả trong hành vi ứng xử của con người với tự
nhiên , như vấn đề về đạo đức sinh thái – cách ứng xử của con người với môi trường sống
tự nhiên xuất phát từ vấn nạn ô nhiễm môi trường hiện nay. Mỗi xã hội ,mỗi cộng đồng
người hay mỗi cá nhân có thể giải thích được về cái thiện ,cái ác theo những cách khác
nhau tùy theo quan niệm sống của mình , nhưng lịch sử tồn tại và phát triển của xã hội
loài người đã tạo nên những giá trị đạo đức có tính phổ biến ,chung cho tất cả mọi
người ,như công bằng ,dũng cảm , vị tha ,nhân từ ,….Đạo đức là cơ sở tồn tại và phát
triển của xã hội và là kết tinh của đời sống tinh thần của con người.
13
MỤC LỤC
NỘI DUNG SỐ TRANG
MỞ ĐẦU …………………………………. …………………………… 1
NỘI DUNG …………………………… 1 – 13

I khái niệm …………………………… 1
1.Khái niệm chuẩn mực đạo đức …………………………… 1
2.Khái niệm đạo đức và pháp luật …………………………… 1
II.Các đặc điểm của chuẩn mực đạo đức… ………………………… 2 - 6
III.Các đặc trưng cơ bản của pháp luật . … ……………………… 6 - 13
1.Tính quy định xã hội của pháp luật …………………………… 6 – 7
2.Tính chuẩn mực của pháp luật …………………………… 7 - 8
3.Tính ý chí của pháp luật …………………………… 8 - 9
4.Tính cưỡng chế của pháp luật. …………………………… 9 - 10
IV.Mối quan hệ giữa chuẩn mực … ………………………… 10 -13
đạo đức và pháp luật
KẾT LUẬN …………………………… 13
14

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
I.Sách giáo trinh xã hội học pháp luật (Tiến sĩ Ngọ Văn Nhân – nhà xuât bản tư
pháp)
1.Mối quan hệ giữa chuẩn mực đạo đức và pháp luật (trang 200 -202)
2.Khái niệm chuẩn mực đạo đức và các đặc điểm của chuẩn mực đạo đức (trang 196
-200)
3.Các đặc trưng cơ bản của pháp luật (trang 150 -157)
II.Các trang web đã sử dụng
1.Mối quan hệ giữa chuẩn mực đạo đức và pháp luật (www.watpat.com)
15

×