Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

ĐỀ TÀI : NHO GIÁO VỀ CON NGƯỜI VÀ CÁC MỐI QUAN HỆ CON NGƯỜI TRONG XÃ HỘI potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (323.4 KB, 29 trang )

Sachdientu.edu.vn
1
LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm trước đây ,nội dung đào tạo lý luận trong các trường
đại học hầu như chỉ bó hẹp trong các bộ môn khoa học Mac-Lênin ,chưa coi
trọng việc nghiên cứu các trào lưu khác và tiếp nhận những thành tựu khoa
học của thế giới.Hậu quả là phần lớn sinh viên thiếu sự hiểu biết rông rãi về
kho tàng tri thức của loài người dẫn đến phát triển về nhận thức bị hạn chế chỉ
biết nhận thưc về chủ nhĩa Mac-Lênin một cách cứng nhắc không biết kết hợp
với những tri thức của nhân loại nhăm vận dụng linh hoạt trong thực tế.
Vì thế trong những năm gần đây công tác nghiên cứu và giảng dạy môn
triết hoc đang co những sự đổi mới.
Nho giáo là một học thuyết triết họcvà chính trị-xã hội lơn nhất tron
glịch sử triết học Trung Hoa cổ đại .Mặc dù ra đời rất sớm nhưng học thuyết
Nho giáo đã sớm phát hiện ra vấn đề con người, bàn nhiều về con người , đặc
biệt đề cập khá sâu đén quan niện về con người và đào tạo con người . Đây là
một trong những nội dung chủ yếu của học thuyết Nho giáo.
Nho giáo dã du nhập và tồn tại ở Việt Nam gần 2000 năm , đã có tắc
dụng to lớn đối với xã hội và con người nước ta trong lich sử, đồng thời cũng
để lại những ảnh hưởng khá sâu đạm đen xã hội và con người Việt Nam hiện
nay.Vì vậy nghiên cứu quan niệm về con người và đào tạo con người của Nho
giáo có ý nghĩa cấp thiết trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo con người trong
giai đoạn hiện nay.
Tình hình nghiên cứu đề tài:
Xung quanh vấn đề con người và đào tạo con người trong Nho giáo đã
đươc trình bày trong một số cuốn sách như:”Lịch sử tư tưởng Trung Quốc”,’L
ịch sử triết học Trung Quốc”,”Lịch sử tư tưởng Viẹt Nam”,” Đại cương triết
học Trung Quốc-Nho giáo”,”Nho giáo xưa và nay”, “Nho gáo Việt Nam”…
Sachdientu.edu.vn
2
Tuy nhiên trong các tài liệu trên các tác giả chủ yếu có tính giới thiệu


những quan niệm chung về Nho giáo ít có tài liệu đi sâu về con người và đào
tạo con người và đánh giá một cách đầy đủ và khách quan về những ảnh
hưởng tích cực cũng như hạn chế của chúng với Việt Nam.













Sachdientu.edu.vn
3
CHƯƠNG I: QUAN NIỆM CỦA NHO GIÁO VỀ CON NGƯỜI VÀ CÁC
MỐI QUAN HỆ CỦA CON NGƯỜI TRONG XÃ HỘI
1. Quan niệm của Nho giáo về con người
1.1. Nguyên nhân làm cho Nho giáo chú trọng đến con người
Sở dĩ Nho giáo chú trọng dến con người là donhững nguyên nhân sau:
a. Nguyên nhân thời đại:
Trong lịch sử Trung Hoa cổ đại Xuan Thu và chiến quốc là hai giai
đoạn của một thời kỳ lịch sử lâu dài bắt đầu từ sự suy tàn của nhà Chu từ năm
781 đén năm 221 trước công nguyên. Đây cũng là thời kỳ suy tàn của chế độ
chiếm hữu nô lệ Trung Hoa cổ đại.
Từ khi nhà Chu suy tàn ,ngôi Thiên tử không còn vững bền ,chỉ là hình
thức ,các nước chư hầu tranh giành nhau quyền lợi,chiến tranh sảy ra liên

miên giữa các nước chư hầu kéo dài suốt thời kì Xuan Thu và chiến quốc.Có
thể nói trong lịch sử Trung hoa chua có thời kì nào chiến tranh sảy ra liên
miên kéo dài như thời kỳ này.Thời kỳ “vương đạo suy đồi”,”bá đạo nổi
lên”khắp nơi;nớưc lớn đánh nước nhỏ nước mạnh đánh nước yếu,nước nào
cũng muốn ngoi lên giữ địa vị thiên tử.
Theo ghi chép đê lại từ thời Xuân Thu,quy mô các cuộc chiến tranh
ngày càng mở rộng,số cuộc chiến tranh ngày càng tăng lên.Chiến tranh Tần –
Tấn sảy ra 18 lần,Tấn -Sở 3 lần đại chiến ,Nô-Sở đánh lẫn nhau 23 lần,Tề-Lỗ
34 lần ,Tống-Trịnh giao tranh 39 lần số lượng chiến tranh thật là khủng khiếp.
Các cuộc chiến tranh kéo dài gần năm thế kỷ ấy đã gây bao thảm cảnh
lầm than đói khổ,cảnh chém giết chia ly , đau thương cho mọi nhà ,mọi người
;làm cho kỷ cương phép nước không còn ,lòng người ly tấn.
Chính nguyên nhân thời đại đó đã làm cho nhiều nhà tư tưởng xuất
hiện.Ai nấy đèu muốn đưa ra được đ,học đường lối học thuyết của mình nhằm
cứu vãn tình hình xã hội.Trong nước xuất hiện nhữnh trung tâm như “Tắc hạ”
Sachdientu.edu.vn
4
của nước Tề,những tụ điểm tập hợp nhiều kẻ sĩ như nhà “Mạnh Thường
Quân”.Lịch sử gọi thời kỳ này là thời kỳ “bách gia chu tử”(trăm nhà trăm
thầy),”bách gia tranh minh”(trăm nhà tranh tiếng).
Chính trong quá trình tranh minh đó đã sản sinh ra những nhà tư tưởng
vĩ đại hình thành nên những hệ thống triết học khá hoàn chỉnh như: Mặc
gia,Pháp gia , Đạo gia,Nho gia
Trong đó nổi bật là Nho gia một phái tập chung giải quyết nhiều vấn đề
về con người.
b. Nguyên nhân truyền thống:
Nếu như triết học phương Tây tập chung giải quyết vấn đề cơ bản của
triết học,vấn đè thế giớ quan thì triết học Trung Hoa cổ đại từ trước thời Xuân
Thu,chiến quốc dã chú ý đến vấn đề con người và đào tạo con người;nhiều tác
phẩm tiêu biểu củathời kỳ này đã đề cập đến .Nó trở thành truyền thống trong

triết học Tung Hoa cổ đại.
“Hồng phạm cửu trù “là học thuyết triết học ra đời sớn nhất của tiết học
Trung Hoa cổ đại,khoảng trên 2200 năm trước công nguyên .Nó nói lên đương
lối trị nước an dân của một đáng quân vương trong đó nhóm trù nhân sinh nêu
lên vai trò quân trọng của nhà vua và mối quanhệ vua-dân.Nêu lên tính cách
của người đúng đầu đất nước,vua phải kiểm điểm công việc mình làm trước
trời đất và trước dân.
Đặc biệt trù thứ 8 nêu lên những công việc vua cần làm trong đó có việc
tổ chức giáo dục trông coi vấn đề trồng người.
Một học thuyết ra đời sớm như vậy mà đã nêu lên sự cần thiết phải tổ
chức một bộ máy chăm lo đến việc giáo dục đào tạo con người cho xã hội
,chứng tỏ nó rất quan tâm đến vấn đề con người và xã hội.
”Kinh dịch” cũng là một tác phẩm ra đời từ rất sớm nêu lên mối quan hệ
giữa con người với thế giới xung quanh.Kinh dịch đặt căn bản ở tượng và số
Sachdientu.edu.vn
5
.Ngay con số chẳng những chỉ nhằm vào hiện tượng tự nhiên mà nhằm cả vào
vận mạng con người,của hậu duệ con người.Những biến cố quan trọng trong
lịch sử và cả vận mang của quốc gia cũng dược nó đề cập đến.
Tác phẩm kinh dịch cho thấy con người vận dụng bát quái vào việc xét
đoán lành dữ đối với con người đối với mỗi triều đại.Nguyên lý bát quái đã
sớm được vận dụng trong các lĩnh vực liên quan đến đời sống của con người
như y học, giáo dục con người quân sự ,hôn nhân gia đình ,pháp luật.Chẳng
hạn trong thẩm vấn , để khỏi oan người tốt bỏ qua kẻ xấu có câu:”kẻ có tội ,lời
nói và hành động sẽ trái với thực tế,kẻ nói sai sự thật thường sợ người khác
vạch trần.Cho nên khi nói năng lời chúng tỏ ra lo lắng .Ngược lại người nói
thật thì lương thiện ít lời”người lành lời ít”.,cách xét đoán người qua bề ngoài
qua ngôn ngữ này rất có giá trị.Như vậy Kinh Dịch cũngbàn đén con người
c. Nguyên nhân học thuật :
Trong thời kỳ Xuân Thu-Chiến Quốc các học thuyết triết học đều đề

cập đến vấn đề con người và đào tạo con người.Mỗi trường phái đều có cách
lý giải của mình và đưa ra những chủ trương nhằm giáo dục con người , đưa
lại sự ổn định cho xã hội.
Phái Mặc gia mà đại biểu là Mặc Định thì cho rằng mọi hành vi của
conngười mọi biến hoá của thế giớ tự nhiên đều do sự chi phối của ý trời. Ý
trời muốn người ta cùng thương yêu nhau ,làm hại nhauvà trời đem cái ý
muốn “pháp độ “ấy giao cho thánh nhân trị thiên hạ gọi là Thượng đồng (trên
dưới như nhau) hoặc gọi là cái nghĩa đồng nhất của thiên hạ Đây là cơ sở cho
thuyết “kiêm ái “của ông.
Một phái của đạo gia mà Dương Chu là tiêu biểu thì bàn nhiều đến lợi
ích cá nhân và làm thế nào để đạt tới lợi ích cá nhân tạo nên chủ trương “vị
ngã”.Dương Chunêu lên thuyết “Toàn sinh”(bảo toàn sinh mạng là quan trọng
nhất).Muốn vậy phải hạn chế dục vọng ,coi thường lợi ích của ngoại giới ,giữa
Sachdientu.edu.vn
6
người với người phải giữ hoà khílàm sao “Ngươi không phạm đến ta và ta
không phạm đến ngươi”.
Trang Tử lại cho rằng lợi ích tối cao của con người khong phải sống lâu
hay không sống lâu mà là thoả mãn dục vọng,do vậy họ chủ trương tiêu dao
hưởng thụ .
Lão Tử cho rằng con người phải lam theo quy luậtcủa tự nhiên và xã
hội thì theo “nhân đạo “và “thiên đạo”. Ông phủ nhận chế độ phân chia trên
dưới ,sang hèn,trơ lại xã hội trước khi xuất hiện nhà nước mơ ươc “nước nhỏ
dân ít” mọi người vui vẻ ăn ngon mặc đẹp,conngười trở lại trạng thái chất
phác tự nhiên,”vô danh”.
Phái pháp gia có nguồn gốc từ Tuân Tử cho rằng con người ai cũng có
dục vọng.Hamlợi và dục vọng là nguồn gốc gây nên tội ác cho nên xã hội phải
được tổ chức thành khuôn mẫu và dùng cái chuẩn mực pháp lý để giáo hoá
con người , đưa con người về với cái thiện.
So với các học thuyết đương thời Nho giáo có vị trí lớn hơn cả.Nho

giáo là học thuyết do Khổng Tử đề xướng ,sau dố được Mạnh Tử và các nhà
nho tiêu biểu kế thừa và phát triển.Là học thuyết bàn đến vấn đề con người và
đào tạo con người nhiều nhất rộng nhất và có ảnh hưởng sâu sắc nhất trong
lịch sử triết học Trung Hoa cổ đại.
Trước những cảnh ngộ của con người trong xã hội mà các nhà tưởng
Nho giáo trước hết là Khổng Tửmuốn chủ trương lập lại pháp chế ,kỷ cương
của nhà Chu với nội dung mới cho phù hợp. Ông lập ra học thuyết, mở trường
dạy học đi chu du khắp nơi tring nước tranh luận với các phái khác để tuyên
truyền tư tưởng của mình . Ông xây dựng một học thuyết có hệ thống về nhân,
nghĩa ,lễ, tín, trí mà dạy con người lấy cương thường mà hạn chế nhân dục đẻ
giữ trật tự trong xã hội .
Sachdientu.edu.vn
7
Theo Khổng Tử và Mạnh tử sở dĩ có cảnh tranh giành ,kiện tụng chiến
tranh chém giết lẫn nhau là do không ai chịu yên phận yên mệnh của mình nên
cứu đời tốt nhất theo ý họ lẫn xác định phận vị,làm cho mỗi người biết phận vị
của mình biết nhường nhịn nhau phải “chính danh “ như thế sẽ hoà mục “sẽ có
trật tự ổn định.
Khổng Tử ,Mạnh Tử và nhiều nhà nho tiêu biểu khác đã cố xây dưng
hình mẫu người lý tưởng có đủ nhân đức nhằm ổn định xã hội.
Tất cả nguyên nhân xã hội ở trên đều do con người gây nên,vì vậy khi
bàn đế côn người các nhà nho dã bàn đến bản chất của con người.
1.2. Nho giáo quan niệm về bản chất con người
Khi nghiên cứu đến con người các nhà nho không thể không đề câp đến
bẩ chất của con người.Về vấn đề này các nhà Nho có nhiều ý kiến khác
nhau,có khi trao đổi tranh luân một cách gay gắt vói nhau.
Khổng Tử cho rằng bản tính phú bản của con người là có khác nhau .Sự
khác nhau của bản tính con người một phần là do thiên phú bẩm một phần lớn
là do hoàn cảnh xã hội ,do phong tục tập quán quy định .Con người tốt hay
xấu thiện hay ác là do sống trong xã hội mà nênchinh vì vậy mà tính con

người dối với ông : ở mọi người lúc dầu vốn gần giống nhau về sau mới xa
nhau. Ông cho rằng “tính tương cận dã ,tập tương viễn dã”tức là bản tính thì
gần nhau do tập tục đi đến xa nhau.
Như vậy Khổng Tử cho rằng bản tính con người vốn gần giống nhau
nhưng do điều kiện hoàn cảnh ,lối sống tập quán khác nhau mà di dén khác
nhau. Điều đó có một điểm nào đó giống với triết học Mác-Lênin sau này là
đời sống xã hội ,tồn tại xã hội quyết định ý thức tư tưởng của con người .
Khổng Tử nói chữ tính ở đây không phỉ là tính nết tốt,xấu mà tính ở đây là
phần thiên lý trời phú cho có đủ nhân ,nghĩa, lễ ,trí ,thiện ,đức trong con
người.
Sachdientu.edu.vn
8
Tuy nhiên ơ chỗ khác Khổng Tử lại mắc phải sai lầm hạn chế do ông
xuất thân trong gia đình ở tầng lớp quý tộc cho dù chỉ là quý tộc nhỏ bị sa sút
nên ông đứng trên lập trường của giai cấp quý tộc. Ông cho rằng người
thượng trí ỏ trong hoàn cảnh xấu nào cũng không thay đổi nhân tính như cùng
chung chạ với bọn ác ,bọn người xấu ,còn kẻ hạ ngu thì ở trong môi trường tốt
lành cũng khó thay đổi tính cách truỵ lạc dẫu gần người hiền đức cũng chẳng
được cải hoá.
Sau Khổng Tử nhiều nhà nho cũng bàn đến bản tính con người. Trong
đó Mạnh Tử là nhà nho bàn nhiều đến bản tính con người . Ông nêu lên thuyết
tính thiện-Bản tính con ngưòi là thiện. Ông nhấn mạnh bản chất con người là
thiện,tính thiện vốn có ở con người , đã là con người đêu mang tính thiện.
Mạnh Tử nhận định sở dĩ con người mất di tính thiện cố hữu mà bị cuốn vào
con đường ác là do”vật đục “che lấp ,cái vật đục là tính vốn không có chỉ là do
hoàn cảnh bên ngoài tác động vào.
Mạnh Tử quan niệm tính thiện là lương tâm tiên thiên mà con người
phải tồn dưỡng thì mới thành người được.Bởi vây ông rất chú trọng đến việc
giáo hoá coi giáo dục là bộ phận trọng yếu của chính trị . Ông cho rằng nếu để
tính thiện bị mai một sẽ gần với cầm thú.

Nếu Mạnh Tử đưa ra thuyết tính thiện thì Tuân Tử một nhà nho cuối
thời chiến quốc lại chủ trương thuyết” tính ác”. Ông cho rằng tình và dục là
tự nhiên ai cũng có không thể bớt đi bỏ đi hay làm hại được,con người ai
chăng muốn ăn ngon thấy cái đẹp,muốn ngửi hương thơm,nghe những âm
thanh hay. Ông cho rằng con người ai cũng có lòng ham lợi ,ai cũng có dục
vọng .Ham lợi và dục vọng là nguồn gốc gây nên tội ác.
Từ chỗ cho tính nười là ác ,Tuân Tử nêu lên cái chủ đích sự giáo dục
cần phải uốn nắn cái tính lại cho trở về bản tính thiện . Ông nói :”Tính là cái ta
không thể làm ra được ,nhưng có thể hoá đi được.Tính không phải tự nhiên ta
Sachdientu.edu.vn
9
có được ,nhưng có thể làm cho có được.Chú ý làm lụng tập thành thói quen dể
hoá cai tính”
Ông thấy rằng cần thiết phải giáo dục ,uốn nắn con người hạn chế tính
ác để đi đến tính thiện.Như vậy Tuân Tử cho tính người là ác và ông chủ
trương phải có lễ nghĩa ,khuôn phép hình phạt để giáo huấn ngăn ngừa.
Bàn về tính của con người ,Cáo Tử nhà tư tưởng cùng thời với Mạnh Tử
cho rằng bản tính con người chẳng phải thiện ác ,cũng có thể làm điều thiện,
cũng có thể làm điều ác.Cáo Tử cho răng miếng ngon ai cũng muốn ,gái đẹp ai
cũng thích . Đó là cái tính của con người .Ngoài những bản năng tự nhiên đó
ra cò có hành vi:Nhân là thứ ở bên trong mình ,nghĩa là thứ ở bên ngoài
,không thể lẫn lộn nhau .
Cáo Tử coi nhân tính như tờ giấy trắng muốn viết đen thì đen viết đỏ thì
đỏ. Ông nói đén bản chất xã hội của con người.Con người sống trong xã hội
chịu tác động của hoàn cảnh xã hội.Chính hoàn cảnh xã hội là môi trường
đểcon người trở thành tốt xấu về sau.
Như vậy khi bàn đến con người các nhà nho đã đưa ra những quan niệm
khác nhau về tính người.Tuy nêu lên bản tính con người khác nhau nhưng các
nhà nho đều có điểm thống nhất chung cân phải giáo dục con người dến tính
thiện.

Để hiểu rõ con gười trong xã hội ta cần xem các nhà nho giải quyết các
mối quan hệ của con người trong xã hội như thế nào.
2. Quan miệm về các mối quan hệ của con người trong xã hội
2.1. Quan niệm của nho giáo về các mối quan hệ của con người trong xã
hội
Nói về không thể không nói dến các mối quan hệ của con người
trong xã hội. Các nhà nho là nhưng người sớm nhất bàn nhiều các mối quan hệ
của con người trong xã hội.con người ta sống trong xã hội vốn có rất nhiều
Sachdientu.edu.vn
10
mối quan hệ song nhà nho chỉ chú ý đến quan hệ chính trị, đạo đức.Sở dĩ các
nhà nho chỉ chú ý tới quan hệ chính trị, đạo đức bởi vì xã hội thời Xuân Thu
chiến quốc là xã hội loạn lạc chiến tranh kéo dài liên miên gây bao cảnh chia
ly đau thương lầm than đói khổ,trật tự của nhà Chu không còn như trước đạo
đức bị suy vì.Khổng Tử phải than rằng;”vua không phải đạo vua,tôi không
phải đạo tôi,cha không phải đạo cha ,con không phải đạo con”. Ông muốn xây
dựng một xã hội “vua ra vua,bề tôi ra bề tôi,cha ra cha ,con ra con”Vì vậy khi
xem xét mỗi quan hệ giữa người với người trong xã hội Nhogiáo chỉ chỉ chú ý
đến các mối quan hệ chính trị đạo đức mà không chú ý đến các mối quan hệ
khác như quan hệ sản xuất quan hệ nghề nghiệp.
Những nội dung ,kiến thức mà Nho giáo truyền đạt cũng chỉ tập chung
vào chính trị và đạo đức.Còn những kiến thức khác thuộc về các ngành khoa
học tự nhiên như Toán học ,Thiên văn, Địa lý …ít được đề cập.Khổng Tử
nói:”Chỉ có kẻ tiểu nhân mới quan tâm đến việc làm ruộng ,làm vườn”.
Vì vậy của Khổng Mạnh là học thuyết chính trị xã hộiNội dungcơ bản
đường lối Khổng Mạnh là “đức trị” “lấy dân làm gốc”.
Vấn đề đạo đức là vấn đề cơ bản,vấn đề trung tâm xuyên suốt học
thuyết nho giáo.Khổng Tử không tách rời dậo đức và chính trịQua tác phẩm
Luân ngữ cho thây Khổng Tử và các nhà nho đương thời là học trò ông luôn
lấy đạo đức là gốc cuả mọi quan hệ chính trị .Khổng Tử cho răng nếu ông vua

có đức biết đem cái đức của mình toả sáng trong thiên hạ thì với đức độ ấy
người dân lại hướng về ông vua.khi bàn về đường lối trị nước Khổng tử cũng
thiên về đường lối “đức trị”luôn nhấn mạnh dùng đức trị nước. Ông nói:”Nếu
nhà cầm quyền chuyên quyền dùng pháp chế,cấm lệnh mà dắt dẫn dân chúng ;
chuyên dùng hình phạt mà trị dânthì dân sợ mà chẳng phạm phép đó thôi chứ
họ chẳng biết hổ người.Vậy nmuốn dắt dẫn dân chúng nhà câm quyền phải
Sachdientu.edu.vn
11
dùng lễ tiết ,thì chẳng những dân biêt hổ người ,họ lại còn cảm hoá mà trở nên
tốt lành”.
Trong quan hệ với dân,trong việc trị dân ,Khổng Tử mong nhà cầm
quyền không nên dùng Pháp luật,hình phạt ép dân làm cho dân sợ mà tự nhà
càm quyền phải thỉ ân bổ đức mà đem đức hạnh mà chỉ bảo cho dân ,tự nhà
cầm quyền phải giữ gìn lễ nghĩa đem đến lễ nghi mà giảng giải cho dan.Tự
nhiên dân biết hổ thẹn ,biết cảm mến hướng về đường phải.
Mạnh Tử kế tục tư tưởng của Khổng Tử và nêu lên “ngũ luân”. Ông con
người hải có nhân.Người có nhân là người biết ăn ở theo nhân luân(tức ngũ
luân). Đólà năm mối quan hêax hội cơ bảngiữa người với người trong xã
hội.Năm mối quan hệ đó là :Vua-tôi,cha-con,vợ chồng,anh-em,bạn bè.Về năm
mối quan hệ các nhà nho cho rằng :”Quân thần hữu nghĩa,phụ tử hữu thân
,phu phụ hữu biệt,trưởng ấu hữu tự ,bằng hữu hữu tín”tức là Vua tôi phải sống
theo nghĩa ,cha con phải có tình thân ái ruột thịt,vợ chồng phải có sự khác
biệt,anh em phải có thứ tự trên dưới,bạn bè phải có tín”.
Mối quan hệ trong ngũ luân thời Khổng Mạnh là mối quan hệ có tính
chất hai chiều,bề trên có trách nhiệm với bề dưới ,bề dưới có nghĩa vụ với bề
trên.Mọi người đều cố trách nhiệm và nghĩa vụ lẫn nhau, đó là mối quan hệ
đẹp mà các nhà nho đã dày công xây dựng.Ngoài năm mối quan hệ này các
nhà nho còn bàn đến các mối quan hệ khác như quan hệ quân dân, thầy trò
,nam nữ…Nhưng ta chỉ đivào năm mối quan hệ chính để tìm hiểu xem các
nhà nho thông qua các mối quan hệ đó đã giáo dục và xây dựng con người

trong xã hội như thế nào.
Trước hết mối quanhệ vua tôi là mối quan hệ quan trọng nhất,nó gắn
với vân mệnh đất nước , được các nhà nho chú ý bàn nhiều nhất.Thời kỳ
Khổng Mạnh quan hệ vua-tôi là quan hệ có đi có lạivì sự nghiệp chung trị
nước an dân.Khổng Tử đặt ra vấn đề “vua ra vua” ” tôi ra tôi”.
Sachdientu.edu.vn
12
Vua là người trụ cột của đất nước phải xứng đáng đạo làm vua.Vua phải
lấy nhân nghĩa đối xử với bề tôi.bbề tôi với vua phải trung.”Vua nhân tôi
trung” “Vua lấy lễ mà sai khiến tôi,tôi đem lòng trung mà phụng sự vua”.Vua
là tấm gương sáng để bề tôi và người dân noi theo.Mạnh Tử cũng cho rằng
thánh nhân phải là người mẫu mực để người đời ăn ở theo nhân luân.
Về phận bề tôi các nhà nho yêu cầu bề tôi đối với vua phải hết lòng
trung thành đem nhân nghĩa hết lòng thờ vua giúp nước.Bề tôi phải lam cho
vua tin dùng nếu vua không tin dùng thì lui vểơ ẩn để giữ trọn khí tiết và lòng
trung của mình.Bề tôi có trách nhiệm khuyên can để nhà vua sửa tính sửa nết
,bề tôi nói phải vua nghe theo.Khổng Tử nói:”Làm quan trung với bậc quốc
trưởng ,muốn đem hết lòng giúp nước há khong đem ý kiến sáng suốt của
mình mà bày tỏ với bậc quốc trưởng ,há không can gián người sao”.
Mạnh Tử đặt điều kiện có đi có lại trong mối quan hệ vua tôi.Nếu vua
yêu quý bề tôi thì bề tôicũng yêu quý vua nếu vua coi thường bề tôi thì bề tôi
cũng không tôn trọng vua .
Như vậy quan hệ vua tôi thời Khổng Mạnh thật là đầy đặn ,có đi có lại,
có nghĩa có tình,mối quan hệ hai chiều làm nền tảng cho các mối quan hệ khác
trong xã hội .Sau mối quan hệ vua tôi là mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái.
Đây là mmối quanhệ máu mủ ruột thịt gần gũi nhất trong gia đình.
Về phía cha,cha(mẹ) sinh ra con cái phải hết lòng yêu thương nuôi dạy
con cái,cha mẹ săn sóc cho con cái , cho con cái đi học để khi con cái trưởng
thành có thể giúp ích cho đời.Cha mẹ có trách nhiệm dựng vợ gả chồng cho
con cái .

Còn Mạnh Tử cũng dẫn trong kinh lễ dạy rằng:” Đàn ông khi làm lễ đội
mũ thì cha dạy cho;con gái khi làm lễ gả chồng thì mẹ gả cho,mẹ đưa con gái
ra cửa răn con gái rằng:”Mày đi về nhà chồng mày phải kính ,phải răn ,chớ
Sachdientu.edu.vn
13
trái miệng chồng”Xêm lời mẹ dặn con gái thấy cho thấy bổn phận của cha mẹ
với con cái ngay cả dến lúc trưởng thành.
Về phía con cái ,các nhà nho cho rằng con cái với cha mẹ phải giũ trò
đạo hiếu.Khi bàn về đạo hiếu Khổng Tử mới dề cập đén con cái phải lễ phép
với cha mẹ đi theo chí hướng của cha.Mạnh Tử và Tăng Tử đã phất triển tư
tưởng của Khổng Tử và bàn về đạo hiếu đầy đủ hơn sâu sắc hơn.
Mạnh Tử nói :” Đạo hiếu là suốt đời thờ cha mẹ “ “ cỉ có phung dững
cha mẹ là quan trọng nhất.Tăng Tử và một số nhà nho khác quy nội dung của
hiếu về 3 điều:
_Tôn kính cha mẹ ,vâng lời cha mẹ ,nghe theo lờo cha mẹ ,theo chí
hướng của cha mẹ.
_Phụng dwngx cha mẹ suốt đời .
_khi cha mẹ qua đời phải chôn cất chu đáo,thờ cúng cha mẹ cho có lễ.
Các nhà nho còn nêu lên những diều bất hiếu.Mạnh Tử nói :Bất hiếu có
năm tình huống sau;lười biếng chẳng muốn lam điều gì ,không đoái hoài dến
cuụoc sống của cha mẹ.Ham thích cờ bạc không đoái hoài đến cha mẹ.Ham
muốn tiền hoặc quá yêu quý vợ con ,quên chăm sóc cha mẹ.Ham thích hưởng
lạc nhục dục để cha mẹ tủi nhục ,hổ thẹn.Quá ham mê võ lực đánh nhau tàn
bạo chém giết người thiện lương khiến cha mẹ nguy khốn.
Mạnh Tử nêu lên tội bất hiếu : một là cha mẹ lam điều bất nghĩa mà
mình không biết can vgăn, để cha mẹ măc phải tiếng xấu .Hai là nhà nghèo mà
mình chẳng chịu ra với đời kiếm chút lộc nuôi cha mẹ.Ba là chẳng chịu lấy vợ
đẻ đén nỗi không có conlàm tuyệt mất sự tế tự vói tổ tiên.
Các nhà nho giáo rất chú trọng giáo dục về đạo hiếu mong muốn con
cái trở thành những người conhiếu thảo trong gia đình làm tất cả những gì để

đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹlam cho cha mẹ yên vui với
tuổi già hãnh diện với bà con hàng xóm với xã hội.
Sachdientu.edu.vn
14
Tuy trong nội dung giáo dục lòng hiếu thảo còn những điều thái quá
rườm rà nhưngviêc giáo dục lòng hiếu thảo của con cái vói cha mẹvà mối
quan hệ cha con nói chung của Nho giáo đã khá thành công vì nó dễ đi vào
lòng người dễ được xã hội chấp nhận.Nó là mối quan hệ hai chiều có đi có
lai,trách nhiệm di liền với nghĩa vụ phù hợp với tình người đạo lý làm
người.Nó có tác dụng tích cực trong việc nâng cao trách nhiệm cũng như
nghĩa vụ trong mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái.
Ở Việt Nam ảnh hưởng của mối quan hệ ấy trong từng gia đình ,ngoài
xã hộicũng khá sâu sắc nó góp phẫnây dựngtruyền thống đạo đức của con
người trong xã hội. Ông cha ta có câu:
Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
Ở mối quan hệ vợ chồng ta thấy các nhà nho cho rằng trong gia
đình người chồng giữ vai trò chủ yếu cò người vợ là thứ yếu phụ thuộc hoàn
tòn vào chồng.từ sau đời Đổng Trọng Thưmối quan hệ bất bình đăng giữa vợ
chồng càng tăng,mối quan hệ vợ chồng chỉ cò một chiều.Vợ hoàn toàn phụ
thuộc vào chồng.Người vợ còn chịu sự ràng buộc bởi tam tòng tứ đức:” Ở nhà
theo cha ,lấy chồng theo chồng ,chồng chết theo con”.Tứ đức là “công
,dung,ngôn hạnh”Tức là người phụ nữ phải giỏi việc nội chợ ,phải có nhan
sắc ,lời nói dịu dàng lễ phép,biết giữ gìn đức hạnh trinh tiết.
Về mối quan hệ anh em các nhà nho dều yêu cầu anh em trong một nhà
phải cư xử với nhau có trên có dưới trước sau hoà thuận ,tô trọng quyền anh
trưởng trong gia đình.Anh em trong nhà phải có thứ tự trên dưới .Anh nói em
nghe, anh có quyền thay thế cha điều hành mọi công viêc trong gia đình khi

Sachdientu.edu.vn
15
cha mấtcò em phải vâng lời anh nghe theo anh chỉ bảocó như vậy gia dình anh
em mới hoà thuận vui vẻ.
Trong khi xây dựng các mối quan hệ khác trong ngũ luân các nhà nho
cũng chú ý xây dựng mối quan hệ bạn bè(bằng hữu).Mối quan hệ này lấy chữ
tín lam trọng:”Bằng hữu hữu tín”.chữ tín làm bạn bèvượt qua khó khăn
thơưng yêu giúp đỡ lẫn nhau.chũ tín làm chotìng bạn mãi bền vững .Khi nói
về kẻ sĩ Khổng Tử nói:”Phải cư sử với người thiết tha hết tình và giữ niềm
hoà duyệt”.Tình bạn với quan niệm của nhà nho được xây dựng không dụa
trên tiền tài danh vọng,giàu sang phú quý mà là nghĩa là tình.Họ kết bạn với
nhau, động viên nhau giúp đỡ nhau vượt qua khó khăn hoạ nạn.
Ngoài quan hệ ngũ luân các nhà nho cò đề cập đến quan hệ quân dân
.Qua đó cho các bậc vua chúa thấy được tầm quan trọng và vai trò to lớn của
dân.Nên vua phải biétchăm lo đến dân ăn ở cho được lòng dân.
Trên đây là các mối quan hệ cơ bản giữa người với người mà các nhà
nho dày công xây dựng.các mối quan hệ ấy đều liên quan ràng buộc tác đọng
ảnh hưởng qua lại lẫn nhau.các nhà nho giáo nhằm giáo dục con người có đức
nhân,mọi người đều thấm nhuần và làm theo những điều nhân nghĩa .Các mối
quan hệ này ở thòi Khổng Mạnh là mối quan hệ đầy đặn cò có ính chất hai
chiều có đi có lạimang tính nhân bản sâu sắc ,có tác dụng tích cực trong viêc
giáo dục và dào tạo nhân cách của con ngườ trong xã hội.
Đến Đổng Trọng Thư thời hán đã cải tạo khái quát hoá các quan niệm
của tiên nho thành ra “tam cương””ngũ thường”là những quy tắc khắt khe
cứng nhắc có tính chất duy tâm.Các mối quan hệ giờ đây chỉ có tính chất một
chiều,bề dưới phải có trách nhiệm với bề trên và không có điều ngược lại.Nó
phục vụ đắc lực cho chế độ phong kiến trung ương tập quyền.Chính vì vậy mà
từ nhà Hán trở đi nó trở thành tư tưởng thống trị xã hội Trung Hoa về sau.Nó
cũng ảnh hưởng sâu rông đến Việt Nam dư
ới 2000 năm lịch sử:

Sachdientu.edu.vn
16
“Trai thi trung hiếu làm đầu
Gái thì tiết hạnh là câu răn mình”
“Hai chữ cương thường giằng cả nước
Một câu trung hiếu dựng nên nhà”
(Nguyễn Đình
Chiểu)
2.2. Tính chất và vai trò của quan niệm trên
Quan niệm trên phục vụ cho chế độ phong kiến tôn pháp.
Từ đời vua nhà Chu chế độ lập thái tử đã dựoc áp dung trong hoàmg gia
,trong các gia đình quan lại và cả trong thứ dân.Trong gia đình người dân
luôn luôn con trưởng được hưởng gia tài ,giữ nhiệm vụ hương khoi , địa vị cao
nhất trong nhà nhưng trách nhiệm cũng lớn nhất.
Những quan niệm của Nho giáo về các mối quan hệ giữa con người với
con người trong xã hội nhằm phục vụ cho chế độ phong kiến tôn pháp.
Những quan niệm trên có tính chất tích cực trong giai đoan đầu trong
lúc xã hội rối ren , đạo đức trật tự kỉ cương xã hội bị đảo lộn thì những quan
niệm của Nho giáo về luân thường đạo lý có tác dụng tích cực với xã hội.
Đăc biệt từ những tư tưởng và quan niệm trên các nhà nho đã giáo dục xây
dựng lứp người kẻ sĩ đông đảo .Tuy còn có những mặt khiếm khuyết han chế
song là những mẫu người lý tưởng có đủ nhân nghĩa hiếu trung
Đó là những người tích cực tuyên truyền đạo lý phong kiến,bảo vệ chế
độ phong kiến. Những quan niệm trên có tác dụng tích cực duy trì các mối
quan hệ con người trong xã hội,bảo vệ lợi ích chế dộ phong kiến tô pháp nên
nho giáo trở thành tư tưởng thống trịvà tồn tại trõngãhội Trung Hoa suốt hơn
2000 năm.
Sachdientu.edu.vn
17
CHƯƠNG II: VẤN ĐỀ ĐÀO TẠO CON NGƯỜI CỦA NHO GIÁO

1. Đối tượng đào tạo
Học thuyết Nho giáo là học thuyết chính trị xã hội chỉ tâp chung giáo
dục con ngưòi về đức nhân song đối tương dào tạo lại rất rộng. Đói tượng
chung mà Nho giáo đào tạo là những người nào muốn học đều được
dạy.Khổng Tử là người đàu tiên mở trường nhận dạy thanh niên mọi giới
thành công. Ông tuyên bố :”Hữu giáo vô loai”tức là bất kẻ loại nào không
phân biệt hạng người ,gia thế ai cũng dạy hết nghĩa dù là con quý tộc hay bình
dânKhổng Tử cũng coi ngang hàng. Ông không phân biệt kẻ giàu người nghèo
,kẻ nào xin học muốn dâng lễ gì ông cũng nhận dù chỉ là mười cái nem Khi
nhận vào học ông không phân biệt người thiện kẻ ác .
Như vậy đối tượng đào tạo của Nho giáo rất rộng không phân biệt đẳng
cấp giàu nghèo,người thiện kẻ ác,nếu muốn học thì đều được dạy.Việc mở
rông đối tượng đaò tạo trước hết phục vụ yêu cầu giáo dục của các nhà nho là
giáo dục “đức nhân”, giáo dục con người trong xã hội thành con người có đức
nhân.
Khổng Tử là người đặt viên gạch dầu tiên cho việc bình dân hoá giáo
dục,xoá bỏ đẳng cấp trong đào tạo giáo dục con người của xã hội Trung Hoa
cổ đại.Tuy vây đối tượng chủ yếu Khổng Tử cũng như Nho giáo nói chung tập
chung đó là:
_Con em thộc giai cấp thống trị để có người tiếp tục phục vụ sự nghiệp
cuả cha anh họ.
_Con em tầng lớp khác nhưng có điều kiện hoc tập và nguyện trở thành
người phục vụ cho giai cấp thống trị.
_Ngoài ra Nho giáo con dạy cho dân nhằm mục dích dễ sai khiến.
Sở dĩ các nhà nho tập chung đào tạo con em giai cấp thốnh trịvì trong
lịch sử bất kỳ giai cấp thống trị nào cũng phải đào tạo con em mình phục vụ
Sachdientu.edu.vn
18
cho giai cấp mình.Trong tình hình xã hội thời Xuân Thu luôn rối ren loan lạc
việc này cang bức thiết.

Khổng Tử đề cao việc học tâp,có học tạp mới lam nổi cong việc mới
có thể trị dân trị nước.Có học mới biết phán đoán khỏi sai lầm không bị “che
láp”
Khổng Tử chú trọng việc giáo dân nhất trong số các triết gia thời tiên
Tần, ông đã bỏ gần hết cuọc đời vào việc đó.Mặc Tử cũng chủ trương dạy dân
đấy nhưng các Thượng thiên đồng , ông chỉ bảo mọi người dân đều học những
gì thiêntử cho là thiện nhất là đạo kiếm ái ,yêu mọi người như chính mình lam
lợi lẫn cho nhau để cái gì thiên tử khen dân cũng khen cái gì thiên tử chê dân
cũng chê;nhờ vậy nước mới được trị Mặc tử không công nhận công dụng giáo
hoá của lễ nhạc.Pháp gia chỉ dạy dân biết pháp luật để không phạm pháp.Cò
Lão Tử cho rằng giáo dục làm dân sinh ra tinh khôn ham muốn nhiêu hơn gây
hại lớn.
Duy có Khổng Tử là cho nhiệm vụ dạy dân ngang với nuôi dân do:
_Dạy dân là một cách yên ân mình muốn tự lập phải thành lập cho
người;mình muốn thành công phải giúp người thành công .
_Dân đươcgiáo hoá dễ sai khiến cai trị ,công việc chính hình sẽ nhẹ đi
rất nhiều.
Mục đích của Nho giáo là dạy người cho đến bậc nhân nhưng trước hết
phải giáo dục cho nhân dânnhững diều luân thường đạo lý.
2. Mục tiêu đào tạo con người của Nho giáo
Muc tiêu đào tạo con người của Nho giáo là xây dựng những mẫu người
lý tưỏng của xã hội đó là kẻ sĩ ,kẻ trượng phu ,người quuan tử.
2.1. Kẻ sĩ
Người đi học nho là kẻ sĩ .Con dường vào đời của kẻ sỹ là phải học.Học
giỏi thì đi thi, thi đậu thì lam quan không phải học chỉ đẻ biết.
Sachdientu.edu.vn
19
Khổng Tử là người rất chú trọng đến việc học tập . Ônói rằng muốn
xứng đáng là kẻ trị dân trước hết phải tu thân ,muốn tu thân thì phải học.
Con đường vào dời của kẻ sĩ trước hết phải học .Học ở đây là học đạo

học cách lam người ,học để trở thành người nhân đức.Kẻ sĩ là người luônluôn
trau dồiđức hạnh ,bỏ lợi mà làm điều nghĩa,dám sông pha trước nguy nan để
cứu người.
Mạnh Tử cũng nói kẻ sĩ phải luôn giữ lấy nghĩa,lam tròn bổn phận của
mình.Trong mọi cử chỉ hành đọng của mình phải biết sĩ hỗ đặng tránh những
việc trái lễ nghĩa.Khi đi xứ đến các nước khác đùng làm nhụccái mạng lệnh
nhà vua giao phó cho mìnhnhư vậy có thể gọi là kẻ sĩ.kẻ sĩ với bạn bè phải tha
thiết hết tình ,vớianh em thì giũ miềm hoaf duyệt.
Nho giáo chia kẻ sĩ ra làm nhiều hạng .Khổng Tử chia làm bốn hạng là:
_Hạng thứ nhất :Trong mọi cử chỉ hành động của mình phải biết hổ
thẹn trước những hành vi xấu của mình, đi khắp nơi đùng làm nhục cái mạng
lệnh của vua.
_Hạng thứ hai:Họ hàng khắp xóm đều khen là lễ nghĩa
_Hạng thứ ba :Lời nói quả quyết ,hơi cố chấp hẹp hòi nhưng chấp nhận
được
_Hạng thứ tư: Độ lượng nhỏ nhen không đáng nói tới
Còn Tuân Tử cho rằng kẻ sĩ có năm hạng:kẻ thông sĩ ,kẻ công sĩ ,kẻ
trục sĩ,kẻ xác sĩ và kẻ tiểu nhân.
2.2. Kẻ đại trượng phu
Là những con người buất khuất ,cứng rắn ;là một trong những mục
tiêuđào tạo con người thiết thực phục vụ cho giai cáp thống trị.Khổng Tử chưa
bàn nhiều đến kẻ trượng phu song cung dã nêu len tính cách về con người
này.Khổng Tử nói đến ngưòi dũng thì có đủ ,có sức lực,gan dạ đối phó với
nghịch cảnh nên chẳng sợ bậy.
Sachdientu.edu.vn
20
Mạnh Tử nêu lên người đại trượng phu với những tính cách cao thượng
đó là làm theo điều nhân điều lễ điều nghĩa Đó là cỗ ở rộng nhất ,cỗ đáng
đứng nhất con đường sáng nhất trong thiên hạ .Dù bất kì hoàn cảnh nào cũng
tu thân,làm điều thiệh không lùi bước trước uy lực tiền tài nghèo khó.

Tuân Tử đề cao đức tháo của người trượng phu.Con người hiên ngang
sống như thế,chết như thế vẫn giữ khí tiết giữ lòng trung trước quân thù.Nói
về dũng Tuân Tử nêu lên ba loại dũng là thượng dungz ,trung dũng ,hạ dũng.
Nói về người trượng phu ,các nhà nho tuy có cách nói khác nhau song
mục tiêu chung là xây dựng co người kiên cường bất khuất.
Mẫu người cao quý lý tưởng mà các nhà nhođều tập chung xây dựng đó
là người quân tử.
2.3. Người quân tử
Có thể nói đạo của Khổng Tử là đạo của người quân tử.Mục tiêugiáo
dục con người của Nho giáo là đào tạo con người có đức nhân mà người quân
tử là mẫu người lý tưởngnhất ,cao quý nhất của xã hội phong kiến.Quân tử vố
có hai nghĩa là “quân tủ cầm quyền “ và “nho quân tử”.Quân tử cầm quyền là
người lam chính trị làm quan có địa vị tôn quýkhông lam việc nhỏ nhặt chỉ
lam việc lớn.
Nho quân tử là người học rộng mà có khí tiết ,người học đạo thánh hiền
mà ăn ở theo bậc thánh hiền.Người quân tử có thể làm quan hay không làm
quan nhưng phải là người ham mê học tập,học rộng hiểu sâu đạo thánh hiền
,có phẩm chất tôn quý trong bất kỳ hoàn cảnh nào,trong bât kì tàng lớp giai
cấp nào.
Người quân tử trước hết phải là người ham mê học đạo hơn cả sự sống
của mình,có học đạo mới hiểu dược đạo thánh hiền mới trở thành người đức
nhân. Đối với người quân tử học đạo quan trọng song quan trọng hơn hết là
hành đạo tu thân sửa mình.
Sachdientu.edu.vn
21
Như vậy người quuân tử là người hoan thiện hoan mỹ và chỉ có phẩm
chất cao quý mới là người quân tử.Người quân tử trước hết phải có nhânlà
người quân tủ trong ý nghĩ lời nói việc lảmtong bất kì đâu trong bất kì hoan
cảnh nào cũng không xa rời điều nhân
Quân tử là người trọng nghĩa luônhành động theo đúng đạo lýlam

người.Nghĩa làtiêu chuẩn quan trọng của người quân tửlà gốc của đạo làm
người.
Quân tử là người trọng lễ thì giao tiếp và hành đạo mới đúng theo đạo
được.
Quân tử là người giàu trí
Trí là sự nhận thức hiểu biết sâu rộng. Có trí là không bị lầm lạc, không
bị mê hoặc không bị nghi lầm. Người có trí mới có thể phân biệt đúng sai,
điều hay lẽ phải mới có sự cư xử và hành động đúng theo đạo người quân tử.
Quân tử là người có đứng dũng
Quân tử là mẫu người cao quý nhất của xã hội. Người quân tử không
chỉ là người có nhân, nghĩa, lễ, trí mà còn có cũng. Dúng là một phẩm chất
không thể thiếu được của người quân tử.
Người có dũng là người có sức mạnh, gan dạ, quả cảm dám đương đầu
với những khó khăn hiểm nghèo. Mục tiêu giáo dục đào tạo của Nho giáo là
xây dựng thành những con người đức nhân. Muốn có đức nhân phải có trí,
song chỉ có trí vẫn chưa đầy đủ mà phải có dũng. Có dũng mới có thể hành
động để thành người có nhân có nghĩa.
Quân tử có đức tín cao
Đức tín là một phẩm chất của con người quân tử. Trong mối quan hệ
con người với con người, tín được thể hiện trong việc giữ lời hứa, lời giao
ước, trước sau như một. Lời nói với việc làm thống nhất với nhau, từ đấy gây
được niềm tin cho con người. Đức tin là một phẩm chất rất quan trọng của con
Sachdientu.edu.vn
22
người. Con người có tiền tài, địa vị, danh vọng, có cuộc sống giàu sang phú
quý song không giữ được chữ tín thì người đời khinh rẻ, coi thường. Ngược
lại dù trong cuộc sống nghèo khó bần hàn, song giữ được chữ tín thì người đời
lại rất coi trọng.
3. Nội dung và phương thức đào tạo con người của Nho giáo.
3.1. Nội dung đào tạo con người của Nho giáo.

Đối tượng đậôt của Nho giáo thì rộng nhưng nội dung đào tạo ở lĩnh
vực chính trị, đạo đức mà tập trung ở “Tam Cương” và “Ngũ thường” (Nhân -
Lễ - Nghĩa - Trí - Tín).
Các lĩnh vực khác như các ngành khoa học tự nhiên, các kiến thức về
sản xuất vật chất, kinh tế-xã hội, vui chơi giải trí đều không được chú ý.
Có làn ông Phàn Trì xin Khổng Tử dạy nghề làm ruộng, Khổng Tử đáp
rằng: “Ta chẳng như lão nông phu rành việc cày cấy”. Ông Phàn Trì lại xin
dạy cách trồng cây. Khổng Tử đáp rằng: “Ta chẳng như lão làm vườn quen
nghề trồng trọt”. Khi Phàn Trì ra rồi Khổng Tử trách rằng: “Gã phàn Tu (Phàn
Trì) chí khí nhỏ hẹp lắm thay”
Nội dung đào tạo hạn hẹp của Nho Giáo được thể hiện qua một số tác
phẩm kinh điển chỉ giới hạn trong lĩnh vực chính trị và đạo đức cụ thể với các
sách sau:
Tứ thư gồm: Luận ngữ, Mạnh Tử, Đại học, Trung Dung.
- Luận ngữ là cuốn sách của phái Tăng Tử cùng các môn đệ ghi lại các
lời giảng của Khổng Tử cùng những lời đàm đạo của ông với học trò. Nội
dung chủ yếu là bàn về đường lối chính trị “lấy nhân làm gốc”.
-Mạnh Tử là cuốn sách do học trò của ông ghi chép lại những lời dạy
của ông đối với họ. Nội dung chủ yếu giáo dục về ngũ luân: Mối quan hệ vua
tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bè bạn. Về ngũ thường: Nhân, nghĩa, lễ, trí,
tín. Trong đó tập trung giáo dục con người về đức nhân.
Sachdientu.edu.vn
23
-Đại học: cuốn sách nhận thức luận bàn về mối quan hệ giữa sự học của
người quân tử với thành ý (ý chí) chánh tam (lý tưởng), tu nhân (nhân cách) tề
gia - trị quốc - bình thiên hạ (nhiệm vụ).
-Trung dung: cuốn sách dạy cách ứng xử của người quan tử sao cho
thuận thiên, thuận địa, thuận nhân tâm.
Nguc kinh gồm có:
-Kinh dịch: là sách giải thích bản chất thế giới từ quan điểm ngũ hành,

âm dương, bát quái.
-Kinh thư: Là bộ sử biên niên tử đời vua Nghiêu đến Tần Mục Công
(2350-620 TCN) ghi chép những lời dạy bảo của vua chúa.
-Kinh thi: Là bộ sưu tập truyền thuyết, ca dao, dân ca (văn học) từ thời
thượng cổ đến đời vua Bình Vương nhà Chu.
-Kinh lễ: Gồm có chu lễ, lễ nghi, lễ kỷ, trong đó đặc biệt là chu lễ mang
tính chất triết học trình bày tổ chức hành chính, chính trị, trật tự xã hội nhà
Chu.
-Kinh Xuân Thu: Là bộ biên niên sử. Tư tưởng của Khổng Tử trong đó
thể hiện quan điểm của ông về đường lối chính trị của các triều đại lịch sử.
Tất cả các sách trên đều được các nhà nho đã vào giảng dạy trong các
trường lớp của mình. Nội dung chủ yếu của các sách cũng chỉ đề cập đến
chính trị, đạo đức. Việc dạy và học của Nho giáo bắt đầu từ lục nghệ (sáu
ngành) từ lễ, nhạc, xạ (bắn cung), ngự (đánh xe ngựa), thư (viết), sổ (tính
toán) đến đức hạnh chính trị, ngôn ngữ và văn học.
3.2. Phương thức đào tạo con người của Nho giáo.
Phương hướng giáo dục con người của Nho giáo là “hiếu cổ”.
Trong lịch sử Trung Hoa cổ đại, nhà chu là triều đại tồn tại dài nhất
(900 năm từ 1222-221 TCN). Đây là triều đại phát triển rực rỡ nhất, trật tự kỷ
Sachdientu.edu.vn
24
cương tốt nhất trong lịch sử Trung Hoa cổ đại. Có thể nói nhà Chu là triều đại
mẫu mực làm cho nhiều nhà tư tưởng thời kỳ cổ đại ngưỡng mộ.
Khổng Tử muốn theo Chu tức là muốn giữ chế độ của chu công, muốn
làm được sự nghiệp của chu công, phục hồi lại cái “văn, vẻ tực rỡ của đầu đời
nàh Chu. Ông theo đuổi mục đích đó suốt đời. Khổng Tử có cuốn sách chu lễ
trình bày tổ chức - Hành chính - chính trị - trật tự xã hội, nghi lễ nhà Chu cũng
chính là ca ngợi chế độ nhà Chu, ca ngợi đạo đức nhà Chu, do đó tinh thần
giáo dục của nho giáo là “hiếu cố” cũng là mong muốn học tập làm theo
nhnwgx gì tốt đẹp, mẫu mực của đời xưa, người xưa”. Khổng tử hướng về vua

Nghiêu, vua Thuấn, Vũ Thang, Văn Vương, Võ Vương và Chu Công.
Phương pháp giáo dục của nho giáo là tuỳ đối tượng mà giáo dục.
Khổng Tử dạy mỗi người một khác, tuỳ tư cách, trí tuệ, từng người mà
giảng “Người bậc trung trở lên thì mới đem những điều cao xa ra nói, người ở
dưới bậc trung thì không nên”. Ông lại tìm sở đoản của mỗi môn sinh mà sửa
chữa, sở trường mà bồi bổ cho.
Phương pháp đào tạo giáo dục của nho giáo còn ở chỗ học gắn với hành
hàng ngày.
Học trong đạo của Khổng Tử có nghĩa là học đạo để sửa mình cho nên
phần thực hành quan trọng nhất. Hiểu thế nào là nhân, lễ, nghĩa, trí, tín mà
không thực hành thì cái hiểu đó là hoàn toàn vô dụng. Trái lại nếu thực hành
mỗi ngày mỗi tấn tới thì vui vô cùng.
Điều quan trọng trong phương pháp giáo dục của Nho giáo là nêu
gương trong công tác giáo dục.
Sachdientu.edu.vn
25
KẾT LUẬN
1. Đánh giá chung:
Thời kỳ Xuân Thu chiến quốc là thời kỳ Nhà Chu suy tàn, giai cấp
thống trị tranh giành quyền lực chiến tranh lâu dài gây bao cảnh đau
thương cho con người, trật tự, kỷ cương đạo đức xã hội bị đảo lộn.
Trong bối cảnh ấy Nho giáo đã tìm đến vấn đề con người, đưa ra những
giải pháp giáo dục con người nhằm thiết lập lại trật tự kỷ cương của xã
hội.
Để có đường lối giáo dục con người, các nhà nho đã bàn đến bản tính
con người, ý kiến của các nhà nho về bản tính con người là không giống nhau.
Song dù có những quan niệm khác nhau, nhưng các nhà nho đều thống
nhất chung là cần phải giáo dục con người cho có tính thiện để thành người
đức nhân.
2. Những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực trong quan niệm về

con người và đào tạo con người của nho giáo đối với Việt Nam.
Những quan niệm về con người và đào tạo con người của Nho giáo
cũng đã có những ảnh hưởng lớn đối với Việt Nam.
Khi Nho giáo truyền bá vào Việt Nam, những nội dung giáo dục của
Nho giáo cũng được truyền vào nổi bật là việc giáo dục đạo đức nhân cách:
Về nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín v.v phù hợp với truyền thống con người Việt
Nam và được xã hội chấp nhận. Nó đã thấm sâu vào tư tưởng, tình cảm truyền
thống con người Việt Nam thể hiện tình thương yêu đùm bọc nhau “Lá lành
đùm lá rách: “thương người như thể thương thân” “giúp người là giúp mình”
v.v…
Việc kết hợp giáo dục đạo đức và pháp luật, việc tu thân tự sửa mình,
gương mẫu làm điều nhân nghĩa v.v… có ý nghĩa to lớn trong giáo dục con
người hiện nay.

×