Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

Luận văn:Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu của Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (383.83 KB, 36 trang )



1


Luận văn
Phương hướng và biện pháp thúc đẩy
xuất khẩu của Việt Nam trong tiến trình
hội nhập AFTA


2
LỜI MỞ ĐẦU
Trong thời gian hiện nay, tình hình kinh tế chính trị thế giới diễn biến
khá phức tạp và nhanh chóng. Sự phát triển của phân công lao động quốc tế
cùng với những thành tựu mới của cách mạng khoa học-công nghệ đưa tới sự
biến đổi sâu sắc về kinh tế của mỗi quốc gia. Đặc biệt là trong lĩnh vực kinh
tế, khoa học - công nghệ với xu hướng toàn cầu hoá và khu vực hoá ngày
càng mạnh mẽ thì không một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển được
trong sự co cụm khép kín đối với thế giới bên ngoài mà phải có liên kết kinh
tế.
Theo xu hướng này thì trên thế giới xuất hiện ngày càng nhiều các
hình thức liên kết kinh tế quốc tế ở các cấp độ khác nhau. Chính vì vậy mà
ngày 28/7/1995 Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của hiệp hội
các quốc gia Đông Nam A (Asean) và ngày 1/1/1996 Việt Nam trở thành
thành viên của khu vực mậu dịch tự do Asean(ATFA). Có thể nói việc tham
gia AFTA là bước đầu tiên khởi động đối với quá trình hội nhập kinh tế khu
vực và toàn cầu của nền kinh tế Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp
Việt Nam nói riêng .
Tuy nhiên Việt Nam mới chỉ đang trong quá trình hội nhập vào AFTA
cho nên những cơ hội mới, những lợi ích đạt được cũng như những thách


thức đối với nền kinh tế Việt Nam cần phải được xem xét nghiên cứu trong
phạm vi khuôn khổ và phương pháp luận rộng rãi và thống nhất. Việc phân
tích những ảnh hưởng này cần được bắt đầu bằng việc xem xét bản chất của
các tổ chức thương mại khu vực nói chung cũng như các đặc điểm vị trí
tương đối của các nước thành viên trong khối. Vì những lý do trên và sự
mong muốn được học hỏi thêm những kinh nghiệm quý báu trong thực tiễn
em đã chọn đề tài: "Phương hướng và biện pháp thúc đẩy xuất khẩu của
Việt Nam trong tiến trình hội nhập AFTA".


3




PHẦN I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KHU VỰC
MẬU DỊCH TỰ DO ASEAN - AFTA

1. Quá trình hình thành và phát triển của khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - AFTA.
ASEAN (Asscociation of Southeast Asian Nation), hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á được thành lập từ năm 1976 với mục đích hợp tác toàn
diện trên mọi lĩnh vực kinh tế - chính trị, khoa học, xã hội. Đến nay, ASEAN
đã phát triển lớn mạnh với 10 thành: Brunei, Indonesia, Malaysia, Phillipin,
Singapore, Thái lan, Việt Nam, Campuchia, Lào và Mianmar. Tuy vậy là
một khu vực kinh tế phát triển vào loại năng động nhất thế giới, vấn đề hợp
tác kinh tế trong khu vực lại được ra đời khá muộn, năm 1992, 25 năm sau
khi thành lập ASEAN.
Từ năm 1976, vấn đề hợp tác kinh tế ASEAN đã được chú trọng với
kế hoạch hợp tác kinh tế mà lĩnh vực ưu tiên là cung ứng và sản xuất các

hàng hoá cơ bản, các xí nghiệp công nghiệp lớn, các thoả thuận thương mại
ưu đãi và các quan hệ kinh tế đối ngoại. Tuy đã có nhiều nỗ lực để thúc đẩy
hợp tác kinh tế trong ASEAN nhưng kết quả của những nỗ lực đó không đạt
được các mục tiêu mong đợi. Chỉ đến năm 1992, khi các nước thành viên
ASEAN ký kết một hiệp định về khu vực mậu dich tự do AFTA hợp tác kinh
tế giưã các nước ASEAN mới thực sự được đưa lên một tầm mức mới.
Trước khi AFTA ra đời, hợp tác kinh tế ASEAN đã trải qua nhiều kế
hoạch hợp tác kinh tế khác nhau đó là.
 Thoả thuận thương mại ưu đãi (PTA)
 Các dự án công nghiệp ASEAN (AIP)


4
 Kế hoạch kết hợp công nghiệp ASEAN (AIC) và kế hoạch kết hợp
từng lĩnh vực (BBC)
 Liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV)
Các kế hoạch hợp tác kinh tế trên tuy đã thể hện cố gắng nhưng chỉ tác
động đến một phần nhỏ trong thương mại nội bộ khối ASEAN và không đủ
khả năng ảnh hưởng đến đầu tư trong khối. Có nhiều lý do khác nhau dẫn
đến sự không thành công này. Đó là sự yếu kém trong hoạch định kế hoạch,
quản lý kém hiệu quả, trong nhiều trường hợp hoạt động của chính tổ chức
phụ thuộc vào ý trí của Chính phủ chứ không phải vào nhu cầu khách quan
của thị trường.
Tuy nhiên các hoạt động hợp tác kinh tế của ASEAN đã có khuynh
hướng tiến đến hiệu quả hơn từ AIP đến AIJV. Khu vực tư nhân đã được chú
trọng hơn, quy luật thị trường dần được tuân thủ, các thủ tục liên quan được
đơn giản hoá và một số trường hợp các thủ tục rườm rà đã được loại bỏ, mức
ưu đãi (MOP) được tăng cường. Tuy không đạt được kết quản mong đợi
nhưng các kế hoạch hợp tác kinh tế này thực sự là những bài học quý báu
cho việc hợp tác kinh tế giữa các nước đang phát triển. AFTA đã ra đời trên

cơ sở đúc rút kinh nghiệm từ những kế hoạch hợp tác kinh tế trước AFTA.
2. Mục tiêu chính của AFTA.
Việc thành lập AFTA năm 1992 là một mốc quan trọng trong lịch sử
tự do hoá thương mại nội bộ ASEAN, đánh dấu sự phát triển về chất trong
hợp tác thương mại: một tổ chức hợp tác kinh tế khu vực. AFTA được đưa ra
nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế sau:
 Tự do hoá thương mại ASEAN bằng việc loại bỏ các hàng rào thuế
quan trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi thuế
quan.
 Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc đưa ra
một khối thị trường thống nhất.


5
 Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế
đang thay đổi, đặc biệt là việc phát triển của các thoả thuận thương
mại khu vực (Regional trade arrangement - RTA) trên thế giới.


6
3. Công cụ thực hiện AFTA( CEPT).
Để thực hiện thành công khu vực mậu dịch tự do ASEAN, Hội nghị
Bộ trưởng kinh tế các nước ASEAN (ASEAN Economic Minister - AEM) đã
quyết định ký kết Hiệp định về thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung
(Common Effective Preferential Tariff - CEPT) năm 1992. CEPT là một
thoả thuận giữa các thành viên ASEAN trong việc giảm thuế quan trong
thương mại nội bộ ASEAN xuống còn 0-5% đồng thời loại bỏ tất cả các hạn
chế về định lượng và các rào cản phi thuế quan trong vòng 10 năm bắt đầu từ
1/1/1993 và hoàn thành vào 1/1/2003. CEPT gồm 10 điều khoản ký vào ngày
28/1/1992. Theo quyết định theo hiệp định CEPT việc cắt giảm thuế quan

trong nội bộ ASEAN đòi hỏi các thành viên phải xác định được 4 loại danh
mục:
3.1 Danh mục cắt giảm thuế quan I.L (Inclusion List) bao gồm các
hàng hoá sẽ cắt giảm thuế quan xuống 0-5% trong khoảng thời gian 10 năm.
Các hàng rào cản phi thuế quan khác đối với danh mục này sẽ được bãi bỏ
sau khi các quốc gia thành viên hoàn thành việc cắt giảm danh mục. I.L được
chia làm hai lộ trình
 Lộ trình cắt giảm bình thường (Normal track): cắt giảm thuế quan
đối với hàng hoá có mức thuế thấp hơn 20% xuống còn từ 0-5%
vào ngày 1/1/2001. Còn mặt hàng có mức thuế lớn hơn 20% sẽ cắt
giảm xuống nhỏ hơn 20% vào ngày 1/1/2001 và giảm xuống còn từ
0-5% vào ngày 1/1/2003. Lộ trình này được quy định cho ASEAN6
 Lộ trình cắt giảm nhanh (Fast track): đối với những mặt hàng có
mức thuế nhỏ hơn 20% giảm xuống còn từ 0-5% vào ngày
1/1/1998 và đối với mặt hàng mức thuế lớn hơn 20% giảm xuống
nhỏ hơn 20 vào ngày 1/1/2000 và giảm xuống còn từ 0-5% vào
năm 2002.
3.2 Danh mục loại trừ tạm thời TEL (Temporary Exclution List) bao
gồm các mặt hàng chưa tham gia ngay vào cắt giảm thuế quan vì tính cạnh


7
tranh còn yếu, vì tầm quan trọng chiến lược hoặc là vì các mục tiêu khác của
quốc gia. Tuy nhiên các mặt hàng này sẽ được đưa vào lộ trình cắt giảm bình
thường thuộc danh mục I.L mỗi năm 20% và bắt đầu từ năm 1996. Đảm bảo
ngày 1/1/2000 tất cả các mặt hàng thuộc danh mục lưu trữ tạm thời sẽ được
chuyển vào danh mục thuế quan theo quyết định của Hội nghị Bộ trưởng
kinh tế ASEAN lần thứ 26 (AEM).
3.3 Danh mục loại trừ hoàn toàn PEL (Permanent Exclution List) gồm
các hàng hoá không tham gia vào lộ trình cắt giảm vì các lý do an ninh quốc

phòng, bảo vệ sức khoẻ môi trường đạo đức xã hội và bảo vệ các giá trị nghệ
thuật lịch sử, khảo cổ học.
3.4 Danh mục của hàng hoá nông sản chưa qua chế biến S.L (Senstive
list) những hàng hoá nông nghiệp chưa qua chế biến tạm thời chưa được cắt
giảm theo CEPT năm 1992. Danh mục này sẽ được đưa vào cắt giảm vào
năm 2010.
Ngoài ra CEPT còn đưa ra một số biện pháp hỗ trợ AFTA bao gồm:
- Hợp tác trong lĩnh vực hải quan thông qua xây dựng một biểu thuế
quan thống nhất, áp dụng thống nhất hệ thống trị giá hải quan (Custom
valuction). Lập luồng xanh để thông quan nhanh hàng hoá trong khuôn khổ
CEPT và thống nhất thủ tục tờ khai hải quan chung cho các nước thành viên
đồng thời xuất bản sách hướng dẫn thủ tục hải quan.
- Áp dụng thống nhất tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá và công nhận
tiêu chuẩn chất lượng hàng hoá.
- Việc cắt giảm thuế quan chỉ được áp dụng trong phạm vi thương mại
nội bộ ASEAN với hàm lượng nội địa ASEAN ít nhất là 40%.
Công thức tính hàm lượng nội địa như sau
Error!
A: Giá trị nguyên vật liệu, bộ phận, các sản phẩm là đầu vào nhập
khẩu từ nước không phải là thành viên ASEAN


8
B: Giá trị nguyên vật liệu, bộ phận, các sản phẩm là đầu vào không
xác định xuất xứ.
4. Ảnh hưởng của AFTA đến các nước thành viên
AFTA có những ảnh hưởng khác nhau lên các nước thành viên khác
nhau vì các nước này có trình độ phát triển không giống nhau. Các nước như
Singapore và Malaisia, với trình độ phát triển của nền kinh tế cao hơn sẽ
thấy tự tin hơn các nước khác khi thực hiện AFTA. Cũng chính hai nước này

sẽ được lợi nhiều nhất từ AFTA. Những ảnh hưởng tới cấu trúc kinh tế, ảnh
hưởng tới tính hấp dẫn với các luồng đầu tư trực tiếp của nước ngoài và ảnh
hưởng tới khả năng tham gia vào thương mại quốc tế.
4.1. Về cấu trúc kinh tế.
Về nguyên tắc, mỗi nước thành viên đều phải tiến hành những sự điều
chỉnh cần thiết để đối phó với mức độ cạnh tranh cao hơn từ các nước thành
viên khác trong khu vực. Mỗi nước thành viên phải tận dụng triệt để các lợi
thế tương đối của mình. Có lẽ tất cả các nước thành viên đều sẽ phải tổ chức
lại nền kinh tế của mình. Họ sẽ buộc phải từ bỏ sản xuất một số mặt hàng
nào đó để đi vào chuyên môn hoá một số mặt hàng khác. Có thể dự báo các
dịch chuyển sau đây trong hoạt động công nghiệp của các nước ASEAN.
Đối với Indonesia, sẽ có sự tăng mạnh trong sản xuất các mặt hàng
cần nhiều lao động và cần nhiều tài nguyên như dệt, may mặc, đồ gỗ, giấy và
các sản phẩm giấy.
Đối với Malaisia, sản xuất trong các lĩnh vực cần tương đối nhiều lao
động như đồ gỗ, quần áo có thể tăng lên. Sẽ có sự giảm đáng kể các sản
phẩm cơ khí, chế tạo có hàm lượng vốn cao. Giảm mạnh nhất có thể xảy ra
trong các ngành thực phẩm, giấy và sản phẩm giấy, đồ thuỷ tinh, các sản
phẩm phi kim loại.
Đối với Philippines, sự tăng lên mạnh nhất thuộc về các ngành sản
xuất cần nhiều vốn như các sản phẩm chế tạo phi kim loại, các máy điện và
không điện. Sẽ giảm chút ít các sản phẩm gỗ và công nghiệp hoá học. Ảnh


9
hưởng đối với Philippines có thể nhỏ vì nước này không buôn bán nhiều với
các nước ASEAN khác.
Đối với Singapore, các sản phẩm cần nhiều vốn, kỹ thuật sẽ tăng lên
trong khi các ngành công nghiệp đòi hỏi sử dụng nhiều lao động sẽ giảm
đáng kể.

Thái Lan có thể tăng đáng kể các sản phẩm của công nghiệp thực
phẩm, tăng chút ít các sản phẩm điện, đồ da, sản phẩm kim loại và phi kim
loại và có thể giảm các sản phẩm đồ gỗ, các máy móc không phải là máy
điện, các sản phẩm của công nghiệp hoá chất.
Sự thay đổi trong cơ cấu sản xuất nói trên sẽ tạo ra những khó khăn
ngắn hạn, có thể rất gay gắt cho các nước thành viên kém phát triển. Những
khó khăn có thể là nạn thất nghiệp cơ cấu tăng lên và nguồn thu của chính
phủ giảm sút. Đổi lại, tất cả các nước thành viên sẽ cùng chia sẻ các lợi ích
lâu dài là các nguồn lực sản xuất được sử dụng hiệu quả hơn, nền kinh tế trở
lên năng động hơn. Người tiêu dùng tại tất cả các nước thành viên sẽ có thể
mua hàng với giá rẻ hơn. Tuy vậy, có một sự thống nhất giữa các nhà nghiên
cứu rằng, ảnh hưởng về cơ cấu của AFTA lên các nước thành viên là không
đáng kể vì trao đổi thương mại trong nội bộ ASEAN chỉ chiếm khoảng 20%
tổng số trao đổi thương mại của ASEAN.
Bảng 1. Các danh mục của CEPT tính đến thời điểm 2001
của các nước ASEAN
ASEAN 6

I.L TEL PEL SL

Brunei 6284 0 202 6 6492
Indonexia 7190 21 68 4 7283
Malaysia 9654 218 53 83 10.008
Philippines 5622 6 16 50 5694
Singapore 5821 0 38 0 5859
Thái Lan 9104 0 0 7 9111


10


ASEAN6
%
43.675
98,26%
1245
0.55
377
0.85
150
0.34
44.447
100


I.L

TEL

PEL

SL


Campuchia

3115

3523

134


50

6822

Lao 1673 1716 74 88 3551
Myanma 2984 2419 48 21 5472
Việt Nam 4233 757 196 51 5237

ASEAN mới
%
12.005
59,94
8.415
39,92
452
2,14
210
1
21.082
100

4.2. Về đầu tư trực tiếp.
FDI là một yếu tố quan trọng trong phát triển kinh tế của các nước
ASEAN. Việc thành lập AFTA sẽ tăng tính hấp dẫn của ASEAN nói chung
đối với FDI. Nguyên nhân chính ở đây là AFTA sẽ tạo ra thị trường rộng lớn
cho các nhà sản xuất, cho phép họ tận dụng các ưu thế của kinh tế theo quy
mô. AFTA cũng sẽ tạo điều kiện để các nhà sản xuất tối ưu hoá chu trình sản
xuất của họ bằng việc phân công lao động giữa các thành viên AFTA. Một
mảng sản xuất quốc tế bên trong ASEAN bao gồm các đơn vị sản xuất đặt tại

các vị trí khác nhau dựa vào sự gần gũi về địa lý và khác nhau về giá thành
sẽ là kết quả của sự phối hợp trong AFTA. Thương mại nội bộ một ngành
công nghiệp sẽ tăng lên. Đây sẽ là cơ hội cho một số ngành công nghiệp
công nghệ cao phát triển ở Việt Nam bất chấp một số dự báo bi quan dựa
trên cách nhìn tĩnh rằng các ngành công nghệ sẽ bị thiệt hại vì chúng phần
lớn cần nhiều vốn trong khi ta lại thiếu vốn và công nghệ tiên tiến. Tuy
nhiên, để tạo dựng thành công một mảng sản xuất nội bộ, các nước ASEAN
còn phải nỗ lực nhiều do trình độ quản lý còn yếu kém và còn thiếu kinh
nghiệm trong việc phối hợp giữa các quốc gia với nhau.


11
FDI có thể chia thành hai nhóm chính: đầu tư trên cơ sở tìm kiếm thị
trường và đầu tư trên cơ sở tận dụng lợi thế tương đối. Đầu tư trên cơ sở tìm
kiếm thị trường là nhằm tìm kiếm những thị trường mới. Loại đầu tư này
thường phổ biến tại các nước theo chiến lược phát triển thay thế nhập khẩu
(ISI). Các nước này thường tận dụng các hàng rào thuế quan cao để bảo hộ
thị trường trong nước. Để chiếm lĩnh thị trường của các nước đó và tránh
hàng rào thuế quan, các công ty nước ngoài buộc phải đầu tư trực tiếp để sản
xuất bên trong các nước này. Đầu tư trên cơ sở tận dụng các lợi thế tương
đối nhằm tranh thủ các lợi thế tương đối của các nước nhận đầu tư. Loại đầu
tư này thường phổ biến tại các nước theo chiến lược phát triển hướng vào
xuất khẩu (ESI). Các nước này theo đuổi một nền kinh tế mở với hàng rào
thuế quan thấp nên điểm hấp dẫn chính của họ với đầu tư nước ngoài là các
lợi thế tương đối mà họ cung cấp cho các nhà đầu tư. Tiềm năng lớn nhất của
AFTA trong việc thu hút đầu tư nước ngoài là thuộc về loại đầu tư này.
AFTA sẽ có những ảnh hưởng tích cực trong việc thu hút đầu tư nước
ngoài, nhưng điều đó không có nghĩa rằng ảnh hưởng tích cực sẽ như nhau
tại tất cả các nước thành viên. Những nước có cơ sở hạ tầng tốt hơn, chất
lượng lao động cao hơn và thể chế kinh tế thuận lợi hơn sẽ thu hút được

nhiều đầu tư nước ngoài hơn. Vì thế, cuộc cạnh tranh thu hút đầu tư nước
ngoài giữa các nước thành viên sẽ không kém phần quyết liệt.
4.3. Về khả năng tham gia vào thương mại quốc tế
Như đã nói ở trên, nguyên nhân chính của thành công về kinh tế của
các nước ASEAN là chính sách phát triển hướng ra bên ngoài. Vì lý do đó,
các nước ASEAN không thể chở thành nước theo chủ nghĩa bảo hộ. Các
nước này muốn dùng AFTA để "tăng cường sức mạnh cạnh tranh của
ASEAN, như một cứ điểm sản xuất để thâm nhập vào thị trường thế giới"
(Ban thư ký của ASEAN, 1993). Cùng với sự tăng lên của chủ nghĩa khu
vực, mối đe doạ của sự chia cắt nền kinh tế thế giới là niềm hy vọng rằng
AFTA có thể bảo vệ tốt hơn các quyền lơị của ASEAN cũng như khuyếch
trương tiếng nói của nó trên các diễn đàn quốc tế. Tóm lại, AFTA sẽ được


12
xem như một công cụ để các nước ASEAN hoà nhập với thế giới. "Tự do
thương mại trong AFTA sẽ là sự luyện tập ở cấp độ khu vực trước khi
ASEAN tham gia vào hệ thống thương mại đa biên ở cấp độ toàn cầu.


13
Bảng 2. Tổng thương mại các nước ASEAN (1999-2000)
Đơn vị: USD
Nước
Nhập khẩu Xuất khẩu
1999 2000
Thay đổi
1999 2000
Thay đổi
Giá trị % Giá trị %

Brunei 2.304,7 2.169,1 (171,5)

(7,3) 1.720,4 1.067,6 (652,7) (37,9)
Indonesia 48.665,5 62.124 13.458,6

27,7 24.003,3 33.514,8 9.511,5 39,6
Malaysia 84.287,9 1.193,8 13.866,6

16,5 63.677,8 79.647,5 15.696,6

25,1
Myanma 738,0 38.078,2

455,8 61,8 1.883 2.219,4 336,4 17,9
Philippines 35.036,9 138.352,5

3.041,4

8,7 30.742,5 31.387,4 644,9 2,1
Singapore 114.625,1 69.254,1

23.727,3

20,7 110.998 134.680,1 23.682,2

21,3
Thái Lan 56.110,9 14.308 13.143,2

23,4 48.318 61.905,8 13.587,8


28,1
Việt Nam 11.541 423.634,2

2.767 24,0 11.742 15.635 3.893 33,0
Tổng 353.346 70.288,2

19,9 293.085 360.057,6 66.972,6

22,8

Bảng 3. Thương mại nội bộ ASEAN (1999 - 2000)
Nước
Nhập khẩu Xuất khẩu
1999 2000
Thay đổi
1999 2000
Thay đổi
Giá trị % Giá trị %
Brunei 375,1 639,5 264,4 70,5 895,6 534,4 (361,3) (40,3)
Indonesia 8.278,3 10.883,7

2.605,4

31,5 4.783,6 6.781,2 1.997,6 41,8
Malaysia 21.885 24.408,6

2.523,6

11,5 12.412,8 15.934,8 3.522 28,4
Myanma 236,8 393,5 156,7 66,2 1.038,6 1.113,3 74,7 7,2

Philippines 4.989,1 5.982,6 993,4 19,9 4.461 4.955,4 494,4 11,1
Singapore 29.269,3 37.784 8.514,6

29,1 26.241 33.291,3 7.050,3 26,9
Thái Lan 9.901,9 15.099,7

5.197,8

52,5 7.987,4 10.475,9 2.488,5 31,2
Việt Nam 2.516,3 2.613 96,7 3,8 3.290,9 4.519,4 1.228,5 37,3


14
Tổng 77.451,8 97.804,6

20.352,8

26,3 61.110,9 77.605,7 16.494,8

27
PHẦN 2. NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC THAM GIA AFTA
ĐẾN THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

I. Nền kinh tế Việt Nam trước khi tham gia AFTA.
Từ những năm đầu của thập niên 90 sau khi khối SEV giải tán và Việt
Nam thực hiện công cuộc đổi mới với chính sách mở cửa và đa phương hoá
các quan hệ kinh tế đối ngoại, quan hệ thương mại của Việt Nam với các
nước thành viên ASEAN ngày càng được cải thiện và phát triển. Các nước
thành viên ASEAN trở thành những bạn hàng quan trọng trong buôn bán
ngoại thương của Việt Nam.

Thương mại giữa Việt Nam và các nước ASEAN trong mấy năm vừa
qua đã phát triển với tốc độ tăng trưởng cao mặc dù mức tăng trưởng trong
thời kỳ này còn đột biến và thất thường. Thời kỳ 1991 - 1996, thương mại
Việt Nam - ASEAN có mức tăng trưởng bình quân là 26%, chiếm hơn 25%
tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam; thời kỳ 1992 - 1994 kim ngạch
xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore tăng 50% (200 triệu USD), sang các
nước ASEAN tăng 67% (630 triệu USD), kim ngạch xuất khẩu sang
HongKong giảm 35% (100 triệu USD). Bắt đầu tư năm 1993, HongKong đã
giảm mạnh vị trí đầu cung trung chuyển hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam,
và phần nào vị trí này đã chuyển sang Singapore.
Trong những năm qua hàng nhập khẩu từ các nước ASEAN vào thị
trường Việt Nam tuy vẫn còn mang tính chất thâm nhập thị trường nhưng có
nhiều mặt hàng đã bán rẻ, tạo lập được tập quán tiêu dùng, trước hết phải kể
tới xe máy nhập từ Thái Lan, hàng điện, điện tử và điện lạnh nhập từ
Singapore, Malaisia, phân bón từ Indonesia
Trong thương mại với các nước ASEAN, việc xuất khẩu và nhập khẩu
thường hay tập trung vào một nhóm các mặt hàng nhất định, chiếm một tỷ
trọng rất lớn trong kim ngạch. Chẳng hạn trong năm 1994 chỉ hai mặt hàng


15
là sợi (20 triệu USD) và urê (10 triệu USD) đã chiếm gần 50% kim ngạch
nhập khẩu từ Malaysia, cũng trong năm 1994, xe máy nhập thẳng từ Thái
Lan là 92 triệu USD trong tổng kim ngạch là 226 triệu USD, chiếm 41%, nếu
tính của 91 triệu USD được nhập qua đường Lào thì chiếm khoảng 58%
tổng giá trị nhập khẩu từ Thái Lan. Năm 1994 gạo chiếm 34 triệu USD
(55%) trong tổng kim ngạch 64 triệu USD xuất khẩu của Việt Nam sang
Malaysia.
Mặc dù thương mại Việt Nam và các nước ASEAN đã tăng trưởng với
một tốc độ lớn trong thời gian vừa qua, tuy nhiên các mối quan hệ thương

mại và giao lưu hàng hoá mới chỉ đang trong quá trình hình thành và đối với
rất nhiều các mặt hàng, những mối quan hệ này còn rất mỏng manh và dễ bị
phá vỡ.
Khi tham gia thực hiện khu vực mậu dịch tự do ASEAN, đánh giá sự
thuận lợi hay khó khăn khi thực hiện và đánh giá các ảnh hưởng không chỉ là
tình hình buôn bán ngoại thương của Việt Nam đối với những nước trong
khu vực, mà bên cạnh đó và quan trọng hơn rất nhiều, sẽ là các yếu tố cơ bản
của nền kinh tế, như cơ sở hạ tầng, các điều kiện về nguồn lực, các yếu tố về
chính sách
II. Những cơ hội và thách thức của nền thương mại Việt Nam khi tham
gia AFTA.
1. Thách thức.
Qua phân tích cụ thể những lợi thế so sánh của Việt Nam và các nước,
chúng ta có thể thấy được những khó khăn của Việt Nam khi tham gia vào tổ
chức liên kết kinh tế khu vực. Trước hết đó là sự khác biệt về thể chế và cơ
chế quản lý kinh tế. Nước ta đang trong giai đoạn chuyển đổi từ nền kinh tế
kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường. Các quan hệ thị trường
trong nền kinh tế Việt Nam thực sự chưa trưởng thành (cái quán tính của
cung cách quan liêu, bao cấp trong quản lý còn nặng nề). Điều này thể hiện


16
mức độ sẵn sàng đón nhận tiến trình AFTA chưa cao xét về mặt cơ chế quản
lý.
Quan trọng hơn nữa khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế giữa
Việt Nam và các nước ASEAN (về thu nhập bình quân trên đầu người, dự
trữ ngoại tệ, tỷ lệ lạm phát, vốn đầu tư, trình độ công nghệ ) cho thấy sự
cách biệt quá lớn bất lợi cho Việt Nam cũng là mối lo ngại cho quá trình hội
nhập này. Trình độ công nghệ sản xuất hiện nay ở ta, đặc biệt trong các
ngành chủ chốt như công nghiệp chế tạo, chế biến, còn ở mức yếu kém thì

liệu có đủ sức cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường hay chỉ là nơi tiêu thụ hàng
hoá của các nước ASEAN thậm chí nhiều doanh nghiệp bị phá sản, thất
nghiệp theo đó tăng
Do cơ cấu ngành hàng xuất nhập khẩu của Việt Nam và phần lớn các
nước ASEAN tương đối giống nhau, vì vậy có thể gây ra sự cạnh tranh nội
bộ khu vực trong việc thu hút đầu tư, tìm kiếm thị trường và công nghệ (ở
mức độ khác nhau). Ngoài ra cò phải kể đến sự cạnh tranh của cả khối với
Trung Quốc trong cả thương mại và đầu tư nước ngoài.
Một trong những khó khăn và có lẽ đây là khó khăn lớn nhất mà Việt
Nam sẽ phải đương đầu trong quá trình hội nhập là nhân tố về con người do
trình độ, kể cả cán bộ quản lý kinh tế và các doanh nhân còn chưa đáp ứng
được với nhu cầu đặt ra của tình hình mới.
Nếu chỉ xét riêng về thực trạng của các doanh nghiệp Việt Nam trong
môi trường cạnh tranh thì phần lớn các doanh nghiệp còn rất non trẻ, thiếu
vốn kinh doanh cũng như trình độ quản lý, tín nhiệm và bề dày kinh nghiệm.
Phần lớn các doanh nghiệp đều mới bước vào thương trường nên có nhiều
hạn chế, thể hiện ở các mặt như: kinh doanh trên diện mặt hàng rộng nhưng
thiếu chuyên ngành; mạng lưới tiêu thụ còn mong manh; các doanh nghiệp
còn chưa quan tâm và ít thành công trong việc xây dựng khối các khách hàng
tin cậy và lâu bền; thiếu thông tin và thiếu hiểu biết về thị trường và khách
hàng; Thiếu các hoạt động xúc tiến thương mại dưới nhiều hình thức như
thông tin thương mại, hỗ trợ triển lãm quảng cáo, tư vấn về thị trường, môi


17
trường đầu tư, tìm đối tác kinh doanh Ngoài ra, tác động không thuận lợi
đến các doanh nghiệp còn có những vấn đề về môi trường vĩ mô thiếu ổn
định với một hệ thống các thủ tục hành chính phức tạp và không rõ ràng. Thủ
tục lập doanh nghiệp, lập chi nhánh, đại diện, mạng lưới kinh doanh trong
tỉnh, ngoài tỉnh, ngoài nước nói chung có tác dụng kìm hãm hơn là khuyến

khích kinh doanh.
Tóm lại, có thể thật sự hội nhập được với khu vực, chúng ta phải vượt
lên những trì trệ của chính mình, đạt được sự ổn định về chính trị, kinh tế, xã
hội đi kèm với sự tăng trưởng về kinh tế. Sự tăng trưởng cùng nhịp độ với
các nước trong khu vực sẽ là cơ sở đảm bảo về lâu dài để có sự liên kết giữa
Việt Nam với các nước thành viên ASEAN được bền chặt trên cơ sở hai bên
cùng có lợi.
Bên cạnh những khó khăn rất lớn, chúng ta cũng có những thuận lợi
nhất định khi hội nhập với ASEAN. Việt Nam và các nước ASEAN là những
nước láng giềng đã có truyền thống giao lưu kinh tế, văn hoá và tương đối
hiểu biết lẫn nhau. Bên cạnh đó, đường lối đổi mới của Việt Nam đang tiến
tới để hội nhập trong sự thống nhất của khu vực. Liên kết kinh tế giữa Việt
Nam và ASEAN là xu thế tất yếu của mỗi nước trong quá trình hội nhập với
nền kinh tế khu vực và toàn cầu, bởi lẽ nó phù hợp với lợi ích của mỗi quốc
gia.
2. Cơ hội.
Tham gia hợp tác kinh tế, thương mại với khu vực, Việt Nam có thể
thu được một số cơ hội và thuận lợi sau đây:
Thứ nhất, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của ASEAN là sự
kiện đánh dấu bước phát triển của Việt Nam trong quan hệ quốc tế để hội
nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới. Có Việt Nam trong ASEAN sẽ góp
phần quan trọng tạo ra sự thống nhất mới trong ASEAN, từ đó tạo ra nhiều
lợi ích cho Việt Nam và các nước thành viên. Trọng tâm của hợp tác kinh tế
trong ASEAN những năm gần đây là hợp tác phát triển thương mại, trong đó


18
cốt lõi là việc hình thành AFTA, thực hiện chương trình ưu đãi thuế quan có
hiệu lực chung CEPT, hình thành nên một thị trường thống nhất cho mọi
nước thành viên. Việc tham gia vào chương trình này là điều kiện thuận lợi

cho Việt Nam tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế và thương mại, thúc đẩy
nhanh chóng quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Khi các nước
cắt giảm dần thuế thì hàng hoá Việt Nam sẽ có cơ hội tốt hơn để xâm nhập
vào thị trường khu vực và thế giới.
Thứ hai, Việt Nam có điều kiện để mở rộng thị trường ưu đãi của
AFTA. Kinh nghiệm các nước trong khối cho thấy rằng, gia nhập ASEAN,
Việt Nam có đủ điều kiện để mở rộng thị trường sang các nước trong và
ngoài khu vực. Hiện nay, khoảng 30% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam
là từ các nước thuộc ASEAN. Các mặt hàng được Nhà nước ưu tiên nhập
khẩu như máy móc, thiết bị và nguyên vật liệu phục vụ cho nhu cầu sản xuất
công nghiệp khi tham gia vào AFTA, CEPT thì các mặt hàng này sẽ giảm
thuế nhập khẩu tới 5%. Như vậy, khi đó luồng hàng nhập khẩu sẽ được mở
rộng nhanh chóng. Hơn nữa, do cơ cấu danh mục hàng hoá tham gia CEPT
bao gồm cả nông sản thô và nông sản chế biến nên nếu Việt Nam tăng cường
sản xuất hàng nông sản thì sự cắt giảm về thuế sẽ trở thành yếu tố kích thích
các doanh nghiệp mở rộng sản xuất mặt hàng này để xuất khẩu sang ASEAN
và các nước ngoài khu vực. Đây cũng là cơ hội để Việt Nam tăng dung
lượng cung hàng hoá của mình trên thị trường và tham gia cạnh tranh trên thị
trường thế giới .
Thứ ba, tham gia hợp tác kinh tế, thương mại với khu vực, Việt Nam
có điều kiện thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá hướng vào
xuất khẩu.
Thứ tư, có điều kiện để thu hút được nhiều vốn đầu tư từ những nước
thừa vốn và đang có sự chuyển dịch cơ cấu mạnh sang các ngành có hàm
lượng kỹ thuật cao, sử dụng ít nhân công trong khu vực như Singapore,
Malaysia, Thái Lan


19
Thứ năm, có điều kiện để tiếp thu công nghệ và đào tạo kỹ thuật cao ở

các ngành cần nhiều lao động mà các nước đó đang cần chuyển giao. Sử
dụng vốn và kỹ thuật cao của các nước trong khu vực để khai thác khoáng
sản và xây dựng cơ sở hạ tầng
Thứ sáu, tận dụng ưu thế về lao động rẻ và có hàm lượng chất xám cao
để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang các nước trong khu vực.
Thứ bảy, một trong những quy định về sản phẩm được hưởng quy chế
Hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GPS) của Mỹ là "trị giá nguyên liệu cho
phép nhập để sản xuất hàng hoá đó phải dưới 65% toàn bộ giá trị của sản
phẩm đó khi vào lãnh thổ hải quan Mỹ" và "giá trị một sản phẩm được chế
tạo ở hai hoặc trên hai nước là hội viên của một hiệp hội kinh tế, liên minh
thuế quan, khu mậu dịch tự do thì được coi là sản phẩm của một nước". Vì
vậy, việc Việt Nam tham gia AFTA sẽ tạo điều kiện cho Việt Nam vẫn có
thể nhập nguyên liệu của các nước ASEAN khác để sản xuất và sản phẩm đó
vẫn được GPS.
3. Tình hình thực hiện AFTA của Việt Nam cho đến nay.
Sau khi trở thành thành viên của ASEAN vào cuối năm 1995, Việt
Nam cam kết bắt đầu tham gia thực hiện AFTA từ 01/01/1996 và sẽ kết thúc
vào 01/01/2006 với mục tiêu cuối cùng là cắt giảm thuế xuất nhập khẩu của
tất cả các mặt hàng thực hiện AFTA xuống 0-5%.
Hàng năm Chính phủ Việt Nam đều ban hành Nghị định công bố danh
mục thực hiện AFTA cho năm đó. Năm 1997, chính phủ Việt Nam cũng đã
phê duyệt Lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể thực hiện AFTA giai đoạn
1996 - 2006 của Việt Nam để làm căn cư điều chỉnh cơ cấu trong nước và
định hướng cho các doanh nghiệp trong việc xây dựng kế hoạch sản xuất -
kinh doanh phù hợp
Đánh giá tác động của việc gia nhập AFTA của Việt Nam trong 5 năm
vừa qua (1996 - 2000) mặc dù chúng ta đã từng bước thực hiện việc cắt giảm
thuế quan cho 4200 dòng thuế tuy nhiên vẫn chưa cho thấy có những thay



20
đổi đáng kể đối với thị trường xuất khẩu và nhập khẩu của Việt Nam. Tỷ
trọng hoạt động thương mại giữa Việt Nam với các nước thành viên ASEAN
hầu như thay đổi rất nhỏ cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu cũng không biến
động lớn do những nguyên nhân sau:
Giai đoạn 1996 - 2000 mới bắt đầu đưa vào cắt giảm những mặt hàng
mà ta có lợi thế về xuất khẩu hoặc có nhu cầu nhập khẩu mà trong nước chưa
có khả năng sản xuất được. Những mặt hàng này có mức thuế xuất nhập
khẩu thấp, chủ yếu dưới 20% và phần lớn là những nhóm hàng có mức thuế
suất 0-5% do vậy việc thực hiện cắt giảm thuế suất theo AFTA hầu như diễn
ra trong thời gian này. Do vậy, chưa thể có những tác động lớn đến hoạt
động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Mặt khác, những mặt hàng quan trọng, được bảo hộ cao, chiếm gần
50% kim ngạch thương mại của Việt Nam (như rượu bia, xăng dầu, ô tô xe
máy, phân bón, hoá chất ) đang thuộc danh mục loại trừ hoàn toàn (GE) và
danh mục loại trừ tạm thời (TEL), không phải thực hiện các nghĩa vụ cắt
giảm thuế quan cũng như loại bỏ hàng rào phi thuế quan.
- Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam so với các nước ASEAN
có điểm tương đồng khá rõ nét, cụ thể là nếu Việt Nam có lợi thế xuất khẩu
các mặt hàng nông sản, nguyên liệu thô và một số sản phẩm công nghiệp nhẹ
thì các nước ASEAN cũng có lợi thế này và chính là đối thủ cạnh tranh thị
trường xuất khẩu với Việt Nam.
- Thực tế thời gian qua cho thấy ASEAN chưa phải là thị trường xuất
khẩu tiềm năng đối với các mặt hàng truyền thống của Việt Nam, mà hội
nhập ASEAN chỉ là một bước tập dượt chuẩn bị cho doanh nghiệp bước vào
một thị trường rộng lớn hơn.
Bảng 4. Số liệu nhập khẩu của Việt Nam từ các nước ASEAN
Nước
1999 2000
Kim ngạch

(USD)
Tăng trư
ởng
(%)
T
ỷ trọng
(%)
Kim ngạch
(USD)
Tăng trư
ởng
(%)
Tỷ trọng
(%)


21
ASEAN 3.288.976.936

-12 100 4.519.376.938

37,4 100
Brunei 4.244 0
Campuchia 12.825.397 -70 1 37.480.637 192,2 0,8
Indonesia 285.240.078 11 9 348.736.843 22,3 7,7
Lào 195.030.573 35 6 111.595.682 -42,8 2,5
Malayxia 308.978.205 24 9 284.913.294 24,6 8,5
Myanma 1.224.849 0 1,4
Philippines 46.137.172 -32 1 63.298.901 37,2
Singapore 1.883.271.915


-18 57 2.760.416.388

46,6 61,1
Thái Lan 556.264.503 -17 17 812.935.193 46,1 18,0



22
Bảng 5. Các mặt hàng chủ yếu của Việt Nam xuất khẩu sang ASEAN
Nước
1999 2000
Kim ngạch
(USD)
Tăng trư
ởng
(%)
T
ỷ trọng
(%)
Kim ngạch
(USD)
Tăng trư
ởng
(%)
Tỷ trọng
(%)
ASEAN 2.463.463.175

4,85 100 2.612.950.932


6,07 100
Brunei 539.853 0,02
Campuchia 91.124.963 21,25 3,70 132.722.481 45,65 5,08
Indonesia 421.019.222 33,17 17,09 248.008.414 -41,09 9,49
Lào 164.253.795 124,11 6,67 66.396.913 -59,58 2,54
Malayxia 256.853.800 123,46 10,43 413.478.688 60,98 15,82
Myanma 1.521.014 1,18 0,06
Philippines 393.318.055 0,17 15,97 477.709.281 21,46 18,28
Singapore 822.098.751 -23,89 33,37 885.733.050 7,74 33,90
Thái Lan 312.73.722 5,79 12.69 388.902.105 24,36 14,88
MẶT HÀNG

Kim ngạch
(USD)
Tăng trư
ởng
(%)
Tỷ trọng
(%)
Kim ngạch
(USD)
Tăng trư
ởng
(%)
Tỷ trọng
(%)
Dầu thô 570.878.170 55,77 23,17 927.664.357 62,50 35,50
Gạo 569.558.361 1,30 23,12 230.158.847 -59,59 8,81
LK vitính 393.030.878 15,95 525.642.282 33,74 20,12

Cà phê 96.236.825 -17,33 3,91 58.581.909 39,13 2,24
Hạt tiêu 85.814.885 3,48 57.051.078 -33,52 2,18
Hải Sản 74.447.274 30,28 3,02 74.481.483 0,05 2,85
Dệt may 68.128.898 57,84 2,77 54.758.805 -19,62 2,10
LK điện tử 45.222.995 1,84 521.558.419 1.053,3 19,96
Cao su 38.546.353 164,42 1,56 20.698.177 -46,30 0,79
Giày dép 18.194.001 112,12 0,74 20.673.016 13,63
Rau quả 21.110.204 146,85 0,86 4.717.108 -77,65 0,18
Than đá 17.325.288 106,83 0,70 20.650.583 19,19 0,79
Nguồn: Vụ hợp tác đa biên - Bộ Thương mại
4. Lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể giai đoạn 2001 - 2006 để thực
hiện AFTA của Việt Nam.
Sau thời kỳ khủng hoảng tài chính tiền tệ, đặc biệt là năm 2000, vấn
đề thúc đẩy nhanh tự do hoá thương mại trong khu vực là một trong những


23
chủ đề đã được thảo luận tại nhiều cuộc họp ở cấp nguyên thủ quốc gia
ASEAN. Các nước thành viên đều cam kết sẽ đẩy nhanh hơn tiến trình cắt
giảm thuế quan và bỏ dần các biện pháp phi thuế. Tại Hội nghị hội đồng
AFTA lần thứ 13 tổ chức vào tháng 9/1999 tại Singapore thực hiện nghĩa vụ
của một nước thành viên, Việt Nam cam kết sẽ công bố Lịch trình cắt giảm
thuế quan tổng thể đến 2006 để thực hiện AFTA của mình. Để thực hiện cam
kết này, Lịch trình cắt giảm thuế quan tổng thể thực hiện AFTA giai đoạn
2001 - 2006 của Việt Nam đã được Thủ tướng chính phủ phê chuẩn về mặt
nguyên tắc tại công văn số 5408/VPCP-TCQT ngày 11/12/2000 của Văn
phòng chính phủ. Đồng thời căn cứ vào lộ trình này Thủ tướng chính phủ
đang xem xét để phê chuẩn nghị định ban hành Danh mục cắt giảm thuế
quan thực hiện AFTA năm 2001.
Theo lịch trình này từ năm 2001 đến 2006, Việt Nam sẽ thực hiện

giảm thuế quan cho 6210 dòng thuế nhập khẩu trong tổng số 6400 dòng thuế
hiện hành, cụ thể như sau:
+ Tiếp tục thực hiện cắt giảm thuế cho 4200 dòng thuế đã đưa voà
thực hiện CEPT từ năm 2000 trở về trước.
+ Khoảng 1940 dòng thuế còn lại sẽ thực hiện cắt giảm trong 3 năm
2001 - 2003 theo lộ trình như sau:
 Năm 2001: khoảng 720 dòng thuế
 Năm 2001: khoảng 510 dòng thuế
 Năm 2003: khoảng 710 dòng thuế
Việc giảm thuế sẽ được thực hiện theo các nguyên tắc sau:
+ Toàn bộ các mặt hàng còn lại trong danh mục lại trừ tạm thời (TEL)
sẽ phải thực hiện giảm thuế trong 3 năm 2001. 2002 và 2003.
+ Mức thuế xuất nhập khẩu của toàn bộ mặt hàng trong danh mục
giảm thuế không được cao hơn 20% kể từ thời điểm 01/01/2001 trở đi


24
+ Tất cả các biện pháp hạn chế định lượng sẽ phải bỏ ngay khi mặt
hàng được chuyển vào cắt giảm để thực hiện AFTA.
Như vậy có nghĩa là đến năm 2006 có khoảng 95 mặt hàng nhập khẩu
từ ASEAN vào Việt Nam sẽ chỉ còn ở mức thuế xuất 0-5% và không bị áp
dụng các biện pháp phi thuế quan.
- Trên cơ sở Lịch trình tổng thể đã được chính phủ thông qua về mặt
nguyên tắc như trên, Bộ Tài chính đã dự thảo nghị định ban hành Danh mục
thực hiện AFTA năm 2001 với lộ trình cắt giảm thuế quan của khoảng trên
5000 dòng thuế, trong đó có:
+ Khoảng 64% số dòng thuế đạt thuế suất 0-5%
+ 35% số dòng thuế đạt thuế suất 0%.



25
PHẦN III. MỘT SỐ PHƯƠNG HƯỚNG VÀ BIỆN PHÁP PHÁT
TRIỂN THƯƠNG MẠI VIỆT NAM KHI THAM GIA AFTA.

I. Mục tiêu phát triển của Việt Nam trong những năm tới.
1. Các mục tiêu trước mắt
Thứ nhất, đảm bảo thực hiện các cam kết với các nước trong khu vực
mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Đây là mục tiêu quan trọng và cấp bách
hiện nay trong chính sách thương mại hội nhập của Việt Nam. Trước hết,
Việt Nam phải thực hiện cắt giảm thuế quan nhập khẩu ở mức 0-5% theo
lịch trình cắt giảm thuế bình thường và lịch trình cắt giảm thuế nhanh sao
cho việc cắt giảm thuế được hoàn tất vào năm 2006 theo cam kết chính thức
với các nước trong khu vực mậu dịch tự do ASEAN. Đồng thời cần chuẩn bị
phương án để loại bỏ các hàng rào phi thuế quan theo thoả thuận giữa các
nước, cải tổ bộ máy hải quan, thiết lập hệ thống luồng hải quan xanh, xây
dựng và áp dụng các mã số về thuế thích hợp, xây dựng bộ máy giám sát
việc thực hiện các cam kết với các nước trong AFTA Việc tham gia vào
AFTA cần chú ý hạn chế những yếu kém của nền kinh tế Việt Nam đặc biệt
là hạn chế của các ngành công nghiệp chế biến của Việt Nam so với các
nước trong AFTA.
Thứ hai, Tích cực chống các hiện tượng buôn bán lậu qua biên giới và
gian lận thương mại, xử lý nghiêm minh các vi phạm. Đây là biện pháp để
tăng cường quản lý xuất nhập khẩu nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia, bảo đảm
môi trường kinh doanh đối ngoại có tính pháp lý cao, có mức độ bảo hộ tốt
và hình thành nề nếp kinh doanh ổn định, có trật tự, tạo lòng tin đối với các
bạn hàng nước ngoài.
2. Các mục tiêu lâu dài.
Một là, phát triển hoạt động thương mại quốc tế nhằm đổi mới cơ cấu
kinh tế, gia tăng các ngành sản xuất có hàm lượng khoa học công nghệ và

×