Tải bản đầy đủ (.pdf) (64 trang)

Tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, những vấn đề đặt ra cho các khu kinh tế , khu kinh tế cửa khẩu ở Việt Nam docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.2 MB, 64 trang )


1



2

MỤC LỤC
Phát triển Khu kinh tế biển trong bối cảnh tái cơ cấu nền Kinh tế - Góc nhìn từ
tam nông 3
Đặc khu Kinh tế Sán Đầu Trung Quốc: Bài học Kinh nghiệm 7
Đánh giá mô hình Khu kinh tế ven biển: Thực tiễn ở Việt Nam và kinh nghiệm
Quốc tế: 14
Phương hướng hoàn thiện chính sách pháp luật về Khu kinh tế 40
Thực trạng phát triển và cơ chế chính sách đối với Khu kinh tế cửa khẩu biên giới
50
Phát triển Khu kinh tế cửa khẩu để thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển Kinh tế - Xã
hội địa phương 56
Khu kinh tế mở Chu Lai và sự mở ra một thời kỳ phát triển các Khu kinh tế ở Việt
Nam 60


















3

PHÁT TRIỂN KHU KINH TẾ BIỂN TRONG BỐI CẢNH
TÁI CƠ CẤU NỀN KINH TẾ - GÓC NHÌN TỪ TAM NÔNG

TS. Nguyễn Đức Kiên
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội

Nghị quyết 02 NQ/TW ngày 04/02/2007 của Hội nghị Trung ương 4 khóa
X về Chiến lược biển Việt Nam đến 2020 đã xác định “Phấn đấu để kinh tế biển
và ven biển có đóng góp 53 – 55% GDP cả nước và 55 – 60% kim ngạch xuất
khẩu…”. Với mục tiêu đặt ra như vậy, Nghị quyết đã chỉ ra một số nhiệm vụ
trọng tâm phải giải quyết như nâng cao đời sống ven biển, đưa thu nhập bình quân
đầu người cao gấp 2 lần trung bình cả nước, xây dựng một số thương cảng có tầm
cỡ khu vực, hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh, xây dựng một số khu kinh
tế mạnh ở ven biển…
1. Quá trình hình thành và phát triển của khu công nghiệp, khu chế
xuất…
Về chủ trương, quan điểm của Đảng, Nhà nước ta trong việc thực hiện đột
phá trong lĩnh vực công nghiệp để phát triển kinh tế đất nước là nhất quán. Thực
tế từ những năm 1980 đến nay đã chứng minh rõ sự phát triển này.
- Sau năm năm đổi mới, với chính sách bình thường hóa quan hệ với Trung
Quốc, chúng ta đã từng bước tiến hành mở cửa và khôi phục tất cả các cửa khẩu
đã có với Trung Quốc và nhân rộng ra toàn tuyến biên giới trên bộ với Lào và

Campuchia. Việc hình thành các khu kinh tế biên mậu ở vùng xa trung tâm cả
nước, nơi có đông đồng bào dân tộc sinh sống, cơ sở hạ tầng yếu kém, trình độ
phát triển xã hội còn lạc hậu, mức sống của đồng bào vào loại thấp nhất cả nước
đã phát huy tác dụng to lớn trong khu vực và các tỉnh có đường biên giới. Mô
hình khu kinh tế cửa khẩu trong những năm 80 của thế kỷ trước chủ yếu dựa vào
nội lực, lấy thương mại tiểu ngạch làm trọng tâm phát triển, lợi nhuận thu được
giai đoạn trước khi có Luật Ngân sách Nhà nước được chủ yếu để lại địa phương
để đầu tư cơ sở hạ tầng. Điển hình của mô hình này có thể nêu lên là: Tân Thanh
(Lạng Sơn), Móng Cái (Quảng Ninh), Cầu Treo (Hà Tĩnh), Lao Bảo (Quảng Trị),
Mộc Bài (Tây Ninh) và gần đây là Bờ Y (Kon Tum).
Vào giữa thập kỷ 90, tại các tỉnh đồng bằng phía Bắc và Nam Bộ đã hình
thành các khu công nghiệp, khu chế xuất. Các khu này lấy đầu tư sản xuất hàng
hóa là chủ yếu, các hoạt động thương mại chiếm tỉ trọng rất nhỏ, không đáng kể.
Về quy mô đây là những khu chiếm nhiều diện tích đất đai, có thể là từ đất nông
nghiệp hay các loại đất sản xuất khác. Đặc điểm của các khu kinh tế, khu công

4

nghiệp này là mật độ cơ sở sản xuất tập trung cao, các yêu cầu về cơ sở hạ tầng,
người lao động rất lớn. Chính trong quá trình xây dựng và đưa vào sử dụng, các
mâu thuẫn về đền bù giải phóng mặt bằng, cải cách thủ tục chính đã trở thành sức
ép, tạo động lực đổi mới hơn nữa hệ thống cơ chế chính sách hiện hành của chúng
ta. Có thể kể ra các thành công trong giai đoạn này như: Khu chế xuất Tân Thuận
(Thành phố Hồ Chí Minh), Khu công nghiệp Amata (Biên Hòa), Khu Nomura
(Hải Phòng), Khu công nghiệp Singapore (Bình Dương), Khu công nghiệp Sóng
Thần…
Ở giai đoạn 3 (tạm gọi là như vậy ) từ năm 2003 đến nay chúng ta tiếp tục
thành lập 15 khu kinh tế ven biển trải dài từ Quảng Ninh đến Kiên Giang. Đặc
điểm của phát triển giại đoạn này là gắn với biển và được bố trí dựa trên quy
hoạch phát triển tổng thể kinh tế, xã hội tới năm 2020 có tính đến năm 2030. Cự

ly giữa các khu kinh tế biển khoảng 200 km với diện tích bình quân khoảng
45000-50000 ha/khu. Vị trí các khu kinh tế ven biển nhìn chung có hạ tầng giao
thông kém, nguồn lực lao động tại chỗ không có khả năng đáp ứng được yêu cầu
của người sử dụng.
2. Một số nhận xét về quá trình phát triển ở Việt Nam.
- Các khu kinh tế cửa khẩu, khu CN, khu kinh tế biển đều xuất phát từ các
quy hoạch đã được thủ tướng chính phủ phê duyệt.
- Vị trí của các khu chưa thể hiện được lợi thế so sánh toàn diện trong quá
trình phát triển: hạ tầng nguồn nhân lực, vốn đầu tư ban đầu cũng như định hướng
phát triển trong tương lai.
- Các chính sách thu hút đầu tư chủ yếu từ nguồn vốn ngân sách Nhà Nước
và miễn giảm thuế TNDN, tiền sử dụng đất,…
- Việc xây dựng các khu kinh tế, khu công nghiệp ở thời điểm hiện nay đã
mất tính hấp dẫn với nhiều nhà đầu tư do các nước trong khu vực cũng đang áp
dụng các chính sách ưu đãi tương tự như Việt Nam nhưng môi trường đầu tư của
họ thông thoáng hơn.
- Quy hoạch phát triển các khu không cân đối với nguồn lực tài chính để
thực hiện nên việc đầu tư ban đầu bị kéo dài.
3. Một số đề xuất trong triển khai giai đoạn 2011-2020
- Đổi mới và thống nhất định hướng phát triển: tập trung nguồn lực hạn hẹp
của Nhà Nước để đầu tư phát triển khu vực ven biển trước. Khi có hiệu quả và lợi
nhuận thì đầu tư ngược lại vùng núi, biên giới để nâng dần đời sống đồng bào,
hạn chế khoảng cách giàu nghèo để đảm bảo ổn định xã hội.

5

- Trên cơ sở định hướng chiến lược như vậy phải chọn 2 - 3 khu kinh tế
biển để đầu tư dứt điểm trong giai đoạn 2012-2015. Tiêu chí để chọn các khu này
phải gắn với quá trình tái cơ cấu nền kinh tế.
- Ở phía Bắc chọn khu vực Hải Phòng là trung tâm phát triển kinh tế biển

với điểm nhấn là cụm cảng nước sâu Lạch Huyện và toàn bộ các địa phương Hà
Nội, Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên là khu vực hậu cần.
- Ở phía Nam chọn Bà Rịa- Vũng Tàu làm điểm đột phá với khu vực này
chọn CN dầu khí làm mũi nhọn, cùng với các cảng của thành phố Hồ Chí Minh sẽ
là cửa ngõ của cả vùng Đông Nam Bộ, vùng động lực phát triển kinh tế của cả
nước.
- Khu vực miền Trung sẽ chọn khu Dung Quất, Chu Lai làm cửa ngõ đột
phá với cửa ngõ nối quốc tế là cảng Đà Nẵng.
- Trong quá trình tái cơ cấu nền kinh tế cả nước chúng ta dự báo ngành CN
dệt may- da giày sẽ còn có vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế, xã hội
nước ta. Thực tế mấy năm gần đây xu hướng dịch chuyển cơ cấu sản xuất cũng
diễn ra tại các khu vực CN trọng điểm của cả nước chứ không chỉ diễn ra giữa các
nước có trình độ sản xuất khác nhau. Tại Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh hay
vùng phụ cận các doanh nghiệp dệt may không thể đầu tư mở rộng sản xuất vì
diện tích đất cũng hạn chế, các địa phương không còn áp dụng chính sách ưu đãi
như cách đây 10 năm, mặt khác sức ép về xã hội đối với các thành phố này từ
người lao động nhập cư làm việc trong ngành là rất lớn. Các doanh nghiệp phải
chuyển về đầu tư ở các vùng sản xuất nông nghiệp đang chiếm ưu thế, tương đối
thuận lợi về giao thông và đặc biệt có đội ngũ lao động dồi dào, thu nhập bình
quân từ nông nghiệp thấp, khi tham gia sản xuất công nghiệp không phải “ ly
hương”. Đây chính là điểm mạnh của các tỉnh thuần nông hiện nay so với các tỉnh
và thành phố đã phát triển công nghiệp với tỉ trọng lớn.
- Về phía nhà nước cần ưu tiên làm cơ sở hạ tầng ngoài “hàng rào” và áp
dụng phương thức công tư hợp tác (PPP) để kêu gọi vốn đầu tư cho khu kinh tế
biển, khu CN….Điều đặc biệt là quan niệm về khu KT biển không phải là khép
kín mà là một không gian kinh tế- xã hội hoàn chỉnh, không có các “chiến dịch”
giải phóng mặt bằng hàng vạn ha đất trồng lúa sang làm đất công nghiệp. Vấn đề
là phải hình thành phương thức giao đất làm khu công nghiệp, khu chế xuất ở
những vùng sản xuất nông nghiệp 2 vụ không hiệu quả, căn cứ vào chính sách
pháp luật đất đai của Nhà Nước để người nông dân góp đất như là một cổ phần để

đầu tư xây dựng khu CN. Cùng với sự định hướng, hỗ trợ của Nhà Nước những
người nông dân được hưởng lợi từ việc sản xuất, kinh doanh của khu CN trên
mảnh đất của mình, thực hiện đúng chủ trương “ly nông bất ly hương”.

6

- Trên cơ sở lợi nhuận thu được từ sản xuất CN, Nhà Nước phải chủ động
quy hoạch phát triển nông thôn mới về đất ở, đất sinh hoạt công cộng, giao
thông,…để người dân chủ động đầu tư xây dựng quê hương mình đạt tiêu chuẩn
nông thôn mới. Điều quan trọng là phát triển CN, khu kinh tế biển nhưng không
làm tăng khoảng cách giàu nghèo và tạo nên mất ổn định xã hội.
































7

ĐẶC KHU KINH TẾ SÁN ĐẦU TRUNG QUỐC:
BÀI HỌC KINH NGHIỆM

TS. Nguyễn Đức Kiên
Phó Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội

1. Giới thiệu sơ lược về Khu kinh tế Sán Đầu
Sán Đầu là một trong các Đặc khu kinh tế được thành lập sớm nhất của
Trung Quốc với diện tích tự nhiên 2.064 km2, dân số 4,8 triệu người (số liệu
2000). Khu kinh tế Sán Đầu có vị trí địa lý thuận lợi để phát triển kinh tế đối
ngoại: từ Sán Đầu đi Hồng Công là 187 hải lý và đi Đài Loan có cự ly 180 hải lý.
Là cửa ngỏ của tam giác kinh tế Châu Giang nổi tiếng của Trung Quốc với 2 mô
hình đặc thù về kinh tế - chính trị là Hồng Công và Ma Cao. Hiện nay có hơn 3
triệu người Hoa kiều sinh sống và làm việc trên 40 nước và vùng lãnh thổ trên thế
giới có quê hương là Sán Đầu. Trong số gần 5 triệu cư dân đang sống và làm việc
tại Sán Đầu có hơn 2 triệu người có họ hàng, người thân đang sống tại hải ngoại.

2. Cơ chế tạo vốn của Sán Đầu
Do đặc thù những năm đầu thập kỷ 80 của thế kỷ trước, Trung Quốc bắt
đầu công nghiệp hóa trong tình hình thiếu vốn đầu tư nên việc quan trọng nhất là
tạo nguồn vốn đầu tư để phát triển. Có thể rút ra 3 cơ chế tạo vốn chính của khu
kinh tế Sán Đầu là:
- Bằng quyết định hành chính tuyên bố thành lập đặc khu kinh tế để tạo
điều kiện pháp lý nâng cao giá trị đất tại đặc khu. Đặc khu lấy nguồn vốn thu từ
đất đai không ngừng được làm tăng giá trị này và coi đấy là nguồn lực quan trọng
của thành phố, làm ra của cải.
- Thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài trên cơ sở lợi thế so sánh đặc thù là Sán
Đầu có nhiều Hoa kiều bên Hồng Công.
- Chính sách đặc biệt của Chính phủ Trung ương dành cho đặc khu kinh tế:
Trung ương cho chính sách đặc biệt là có thể nhập khẩu với thuế suất thấp hơn,
nhưng hàng hóa được hưởng thuế nhập khẩu thấp chỉ được sử dụng trong địa bàn
đặc khu kinh tế, gúp phần làm giảm giá thành. Ngoài ra, còn có một số cơ chế ưu đãi
thuế: thuế lợi tức doanh nghiệp trong đặc khu thấp hơn bên ngoài để thu hút vốn đầu
tư (thuế lợi tức đánh vào lợi nhuận doanh nghiệp, không phải thuế giá trị gia tăng).
3. Các biện pháp thu hút nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài

8

- Đẩy mạnh xây dựng môi trường đầu tư, môi trường cơ sở hạ tầng. Thành
phố đã xây dựng mạng lưới giao thông đồng bộ: đường biển, đường hàng không
và đường bộ. Cung cấp đủ yêu cầu điện năng, có hệ thống thông tin hiện đại.
Trong đó tập trung ưu tiên xây dựng Sán Đầu trở thành một thành phố cảng hiện
đại. Cảng Sán Đầu là cảng loại 1 cấp nhà nước, cũng là một trong 20 cảng vận
chuyển chính của Trung Quốc, có giao lưu đi lại với 240 cảng của 50 nước và khu
vực trên thế giới. Đường sắt Quảng Châu - Mai Châu - Sán Dầu có thể nối đường
sắt của cả nước và đã trở thành cửa ra biển từ Bắc Kinh. Sân bay mở 42 đường
bay trong và ngoài nước. Dịch vụ thông tin bưu chính xếp hàng đầu trong cả

nước.
- Tối ưu hoá môi trường đầu tư mềm, phục vụ tốt cho doanh nghiệp. Sán
Đầu đã thành lập Trung tâm phục vụ quản lý đầu tư xí nghiệp để cung cấp thông
tin và làm dịch vụ từ đầu đến cuối cho doanh nghiệp nước ngoài. Nhà đầu tư nước
ngoài muốn đầu tư vào Sán Đầu không phải qua nhiều cửa, chỉ cần liên hệ với
Trung tâm này.
Ngân hàng phát triển quốc gia đạt cấp tín dụng AA. Công nghiệp điện tử
của Sán Đầu xếp hàng thứ 9 trong 100 tỉnh, thành có giá trị điện tử của Trung
Quốc và được xếp vào trong 50 tỉnh, thành mạnh về lực lượng tổng hợp. Môi
trường cơ sở hạ tầng được xếp vào hàng 40 tỉnh, thành hàng đầu và cũng dành
nhiều danh hiệu thành phố môi trường tốt, du lịch tốt, thành phố y tế, vệ sinh sạch
sẽ.
Đẩy mạnh thực hiện phương châm: bên ngoài toàn diện, đa phương mạnh.
Nội dung công tác đa phương như sau:
i)- Lấy Hoa kiều để thu hút, khêu gợi tình cảm quê hương của những
người Hoa kiều góp phần xây dựng đất nước.
ii)- Lấy thương để nhập thương: lấy những thương gia đã đầu tư vào đây
về tuyên truyền thương gia mới vào, giới thiệu bạn của bạn.
iii)- Từ đối tác chuyển sang thành thương gia đầu tư: sau khi buôn bán tốt,
đầu tư sản xuất, xuất khẩu.
- Tiến hành những công việc cải cách môi trường đầu tư cả trong Khu kinh
tế và bên ngoài. Quảng bá, tuyên truyền đầu tư ở trong và ngoài nước, chẳng hạn
như tổ chức hội chợ, tuyên truyền.
Chế độ xét duyệt các dự án đầu tư phải thực hiện công khai. Điều kiện chỉ
cần trong đăng ký đầu tư xác định là dự án không cần chính quyền phân bổ tài
nguyên, không ảnh hưởng đến môi trường sinh thái thì có thể đăng ký được ngay.

9

Có nghĩa là những dự án không cần đến đất, tài nguyên hoặc là không cần những

điều kiện khác, mà Chính phủ phải phân bổ, trong đó có đất nhưng không ảnh
hưởng đến môi trường thì tự do đăng ký.
Trong tỉnh Quảng Đông vốn đầu tư trong nước và vốn đầu tư nước ngoài
đều như nhau cả, chỉ xem xét về dự án đầu tư. Tuy nhiên, nước ngoài đầu tư thì
phải căn cứ theo quyết định của Quốc Vụ viện, phương hướng đầu tư của vốn và
Đặc khu tự quyết định.
- Người nước ngoài được mua nhà qua thị trường bất động sản, cả quyền sở
hữu đất có thời hạn (70 năm).
Ngoài đặc khu người nước ngoài cũng được mua, được bán lại nhà qua thị
trường, được thế chấp vay vốn ngân hàng (về lý thuyết có thể thế chấp ở ngân
hàng ngoài nước, nhưng thực tế ngân hàng không chịu vì thủ tục khó khăn.
- Khuyến khích mua và bán cổ phần xí nghiệp.
4. Về phân cấp quản lý
Đối với những dự án đầu tư lớn, ngoài những dự án trong chính sách ngành
nghề mà Nhà nước quy định phải báo cáo lên Trung ương và cấp tỉnh, địa phương
đều có quyền tự chủ quyết định.
Đối với các dự án đầu tư ở tỉnh, huyện, tuỳ theo mục đích đầu tư mà Nhà
nước quy định cái gì khuyến khích, cái gì không cho làm. Hơn nữa ngành, lĩnh
vực nào khuyến khích làm, hạn chế hoặc phải nâng lên với số vốn bao nhiêu
thường thay đổi theo yêu cầu của địa phương. Thời kỳ đầu những dự án 30 triệu
USD Đặc khu quyết định, bây giờ xem xét cơ cấu ngành nghề, công nghệ cao, có
tính cạnh tranh thì được tự quyết định. Đối với những dự án lớn, ví dụ 100 triệu
USD, cũng phải xem xét cụ thể dự án gì, ngành nghề gì. Đặc khu kinh tế có quyền
lớn hơn các thành phố khác. Có một số dự án dù vốn đầu tư thấp nhưng là ngành
mà Nhà nước hạn chế thì phải báo cáo. Theo quy định dự án khách sạn 5 sao phải
báo cáo lên Bắc Kinh, dự án sân gôn hạn chế, dứt khoát phải báo cáo. Muốn làm
dự án nhà máy điện phải báo cáo lên Trung ương vì phải theo quy hoạch chung,
tránh xây dựng trùng lắp. Một số ngành nghề làm ra nhiều tiền mà đổ xô vào là
không được. Như khách sạn 5 sao tỉnh bố trí sơ đồ chung. Còn ngành chế tạo, gia
công như quần áo, thực phẩm, không hạn chế do thị trường điều chỉnh. Sản xuất

xe ô tô phải báo cáo, xe máy không hạn chế nhưng phải xem giành được tư cách
sản xuất xe máy nhãn hiệu gì. Nói chung, dự án lĩnh vực mà địa phương phê
duyệt ngày càng ít đi.

10

Tiêu chí phân cấp cho đặc khu, tỉnh phân cấp cho đặc khu là căn cứ chính
sách do trung ương quy định, tức là phải nghĩ tới phân bổ tài nguyên; bố trí sức
sản xuất; sự phát triển của miền Đông, miền Tây.
Với tiêu chí phân cấp như vậy, tuỳ trường hợp, từng vấn đề cụ thể, phần lớn
không có phản ảnh gì. Hiện nay còn một số lĩnh vực ví dụ như vấn đề quản lý đất
đai đang có thắc mắc là để thành phố quản lý hay để cho cấp quận/huyện quản lý.
Cấp quận/huyện quản lý thì hiệu quả sử dụng đất sẽ cao hơn nhưng sẽ tăng sức ép
rất lớn cho quy hoạch chung của đô thị, của thành phố; bảo vệ môi trường cũng là
một vấn đề. Một mặt phải nghĩ tới hiệu quả kinh tế, mặt khác cũng phải nghĩ tới
hiệu quả xã hội. Phải cố gắng tìm ra điểm có thể giữ cân bằng giữa hiệu quả kinh
tế với phát triển bền vững. Đứng trên khía cạnh toàn cục, Thành ủy chủ trương
những gì mà có thể phân quyền được xuống dưới thì cứ mạnh dạn phân quyền. Ví
dụ như về vấn đề đất đai, miễn là những dự án xây dựng, khai thác đất đai của
quận/huyện không mâu thuẫn với quy hoạch chung của thành phố thì cho họ tự do
làm.
Khi được phân quyền như thế, quận/huyện sẽ năng động hơn, tính tích cực
cao hơn, hiệu quả cao hơn. Trên cơ sở hiệu quả đó, ngân sách giữ lại của
quận/huyện vẫn đảm bảo lợi ích tối đa cho địa phương, cho cấp dưới nhưng mà
phải trên cơ sở đảm bảo một số lượng nhất định. Chẳng hạn như năm 2003, quận
nộp cho Tỉnh 5 triệu tệ thì năm 2004 chắc chắn phải nộp 5 triệu, chí ít là 5 triệu
tệ; phần tăng thêm thì địa phương giữ lại nhiều hơn, nộp ít hơn.
Tỉnh phê duyệt quy hoạch thành phố, đặc khu, nhưng những quy hoạch, kế
hoạch đưa ra chỉ mang tính chỉ đạo, là mục tiêu phấn đấu.
5. Chính sách cán bộ của Sán Đầu

Đối với cán bộ đương nhiệm thì Sán Đầu phải có nhiều giải pháp để nâng
cao trình độ tổng hợp chuyên môn, nghiệp vụ bằng cách: một là, tiến hành giáo
dục tư tưởng, nâng cao hiệu quả, năng suất làm việc; hai là, cạnh tranh giành một
cương vị làm việc. Trong thành phố những chức vụ như cấp trưởng khoa, phó
khoa (tức là dưới cấp phòng), mọi người đều bình đẳng cạnh tranh, ai thắng thì
người đó làm. Đối với những cán bộ lãnh đạo cấp trung bình thì tiến hành tuyển
chọn công chức, công việc này đã làm trong những năm vừa qua. Ví dụ như Cục
kinh tế mậu dịch, Cục phát triển kinh tế và kế hoạch nếu có biên chế Phó cục
trưởng thì sẽ tuyển chọn công khai chức vụ đó trong phạm vi thành phố. Đối với
những chức vụ mà thành phố thiếu đối tượng thì tiến hành tuyển chọn trong cả
nước. Ví dụ, Sán Đầu chủ trương thi hành công vụ theo pháp luật, nhưng do trước
đây không coi trọng lắm mặt pháp luật, cũng như thiếu nhân tài về luật pháp. Như

11

vậy, Sán Đầu đã tiến hành tuyển chọn cán bộ chuyên môn về luật pháp trong
phạm vi cả nước.
Ngoài ra, một số chức vụ lãnh đạo đòi hỏi trình độ chuyên môn cao, năng
lực lãnh đạo và quản lý toàn diện như Cục trưởng Cục Quy hoạch cũng tiến hành
tuyển chọn trong phạm vi cả nước.
6. Về đào tạo nguồn nhân lực tại chỗ : Đại học Sán Đầu
Trường mời chuyên gia, giáo sư các trường đại học nổi tiếng Bách khoa,
Tổng hợp giảng dạy một số môn học, về làm Phó Hiệu trưởng của Trường, đồng
thời tận dụng mối quan hệ của các giáo sư với trường cũ, Trường mời một số
chuyên gia về làm việc mấy tháng tại trường, như vậy có thể chia sẻ kết quả
nghiên cứu của giáo sư và chuyên gia.
Nhà trường có liên hệ với các công ty, doanh nghiệp để đưa sinh viên đến
thực tập và có một số doanh nghiệp chủ động quyên góp giúp đỡ vật chất cho Học
viện, đồng thời tìm hiểu tình hình sinh viên, có thể phát hiện ra sinh viên nào là
xuất sắc.

Về kinh phí của học viên: 1/2 lấy từ ngân sách thành phố, còn 1/2 thu từ
học phí mà sinh viên nộp, tỉnh Quảng Đông cũng có trợ cấp học bổng cho sinh
viên.
Trường rất may mắn, là trường công lập nhưng được sự đóng góp tài trợ rất
lớn của tư nhân. Một Sán Kiều đã tài trợ cho trường 2 tỷ HK$.
Chính vì có sự hỗ trợ của hội nghị khách hàng, Trường có thế mạnh, thu
hút được nhiều nhân tài làm giảng viên. Trường có một Phó Hiệu trưởng của Mỹ
đến làm trợ lý Hiệu trưởng. Ngoài ra có nhiều Hiệu trưởng và Phó Hiệu trưởng là
người Trung Quốc từ nơi khác đến. Trường đã thu hút được sinh viên xuất sắc nơi
khác. Để thu hút sinh viên xuất sắc của các tỉnh, Trương đã thành lập quĩ khen
thưởng sinh viên mới xuất sắc, mức thưởng từ 10 đến 30 nghìn tệ. Nếu mức
thưởng là 30 nghìn tệ thì đủ chi tiêu cho 4 năm học.
7. Phương hướng phát triển Sán Đầu
Sự phát triển của thành phố tương đối nhanh, vì là đặc khu kinh tế. Quy
hoạch phát triển 5 năm tới của thành phố chủ yếu là xuất phát từ khía cạnh hiện đại
hoá. Bước đi phát triển trong những năm sắp tới là cố gắng nâng cấp công nghiệp
hoá, tăng nhanh đô thị hoá, đẩy mạnh hiện đại hoá, tập trung thực hiện các nhiệm
vụ:
Hình thành 3 trung tâm:

12

- Trung tâm thông tin,
- Trung tâm vận chuyển hàng hoá
- Trung tâm khoa học - văn hoá.
Xây dựng 4 cơ sở:
- Cơ sở sản xuất các sản phẩm khoa học công nghệ cao
- Cơ sở làm các ngành đặc sắc, ngành truyền thống
- Cơ sở về thương mại, xuất khẩu và ngành công nghiệp chế tạo
- Cơ sở nông nghiệp sinh thái

Cố gắng tạo ra 5 môi trường như sau:
- Môi trường thực hiện công việc theo pháp luật
- Môi trường có người làm việc thật thà, vui tính
- Môi trường phục vụ văn minh
- Môi trường vệ sinh sạch sẽ
- Môi trường an ninh, an toàn và có trật tự
Sáu trọng điểm:
- Trọng điểm kinh tế dân doanh, có giá trị lớn trong công nghiệp của thành
phố, trên 80%.
- Trọng điểm kinh tế cởi mở, trình độ hướng ngoại cao vì là đặc khu kinh tế
và thực hiện chính sách mở cửa.
- Trọng điểm khu kinh tế hỗn hợp là các khu phát triển kinh tế, vừa là khu
khoa học - công nghệ cao, các khu chế xuất, khu công nghiệp. Thực ra, trước đây
những doanh nghiệp, những xí nghiệp cơ sở sản xuất của thành phố đều phân tán
rải rác ở ngoại ô, ở nông thôn, bây giờ tập trung lại vào khu công nghiệp, những
cơ sở sản xuất.
- Trọng điểm kinh tế cảng: xây dựng cảng biển là một lợi thế của Sán Đầu.
- Trọng điểm thương mại và du lịch: thực ra người Sán Đầu có đầu óc giỏi
kinh doanh buôn bán từ lâu đời.
- Trọng điểm nông nghiệp, Sán Đầu tuy là một đặc khu kinh tế nhưng
doanh nghiệp của thành phố cũng khá giỏi trồng trọt, chăn nuôi.
8. Những khó khăn và giải pháp sắp tới của Sán Đầu

13

Các khó khăn của Sán Đầu
Một là, hiện nay cả nước mở cửa cho nên chính sách đặc thù ngày càng
giảm bớt đi, tất cả các tỉnh, thành phải cạnh tranh buôn bán.
Hai là, cơ sở công nghiệp của Sán Đầu vốn yếu nhưng bây giờ lại lấy công
nghiệp để phát triển mạnh kinh tế và dẫn dắt kinh tế thành phố phát triển.

Ba là, thành phố đông dân, đất hiếm.
Bốn là, cạnh tranh quốc tế ngày càng khốc liệt, thành phố phải hỗ trợ doanh
nghiệp trong tranh chấp thương mại phự hợp với cam kết WTO. Hàng xuất khẩu
của Sán Đầu có thuỷ sản, dụng cụ gia đình và túi nilông, trong đó khối lượng lớn
nhất là thủy sản, bị kiện bán phá giá. Nhưng sau khi vụ kiện thắng lợi, một công
ty xuất khẩu thuỷ sản Sán Đầu giành được thuế suất rất thấp (10%).
Sán Đầu tăng phục vụ, hướng dẫn doanh nghiệp. Hướng dẫn doanh nghiệp
xây dựng những nhãn hiệu nổi tiếng và hướng dẫn doanh nghiệp ra nước ngoài
đăng ký nhãn hiệu của mình, làm cho doanh nghiệp tiếp cận, hoà nhập kinh tế, đi
vào kinh tế toàn cầu hoá. Sau khi hướng dẫn doanh nghiệp giành tư cách ISO
9000, trên cơ sở đó, hướng dẫn doanh nghiệp giành chứng nhận ISO 8000. Đó là
chứng nhận tiêu chuẩn xã hội, không những chú trọng chất lượng sản phẩm mà
còn chú trọng công nhân làm việc bao nhiêu thì nghỉ, về xã hội như thế nào; đó là
tiêu chuẩn quốc tế. Những doanh nghiệp đã giành được tiêu chuẩn quốc tế như
vậy thì xuất khẩu hàng hoá ra nước ngoài không gặp cản trở gì.
Để thực hiện mục tiêu xây dựng thành phố mạnh về kinh tế, đó đề ra 5 chiến
lược:
- Tiếp tục phát huy vai trò chủ đạo của công nghiệp, lấy công nghiệp hoá để
dẫn dắt đô thị hoá.
- Tăng nhanh bước đi đô thị hoá của thành phố. Từng bước điều chỉnh địa
giới cấp hành chính thành phố, mở rộng phạm vi nội thành.
- Tiếp tục xây dựng kinh tế cởi mở, thúc đẩy thương mại, xuất nhập khẩu.
- Phát triển giáo dục;
- Phát triển hài hoà, vừa bảo vệ môi trường của thành phố vừa bảo đảm
tăng trưởng kinh tế./.




14


ĐÁNH GIÁ MÔ HÌNH KHU KINH TẾ VEN BIỂN Ở VIỆT NAM:
THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

TS. Vũ Thành Tự Anh
Chương trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright

I. Khu kinh tế như một mô hình phát triển công nghiệp
1. Khái niệm và mục tiêu của khu kinh tế
Khu kinh tế (KKT) thường được định nghĩa là một khu vực giới hạn về địa
lý, được quản lý bởi một cơ quan duy nhất nhằm cung cấp các ưu đãi nhất định
(ví dụ như miễn giảm thuế, thủ tục hải quan và xuất nhập khẩu gọn nhẹ) cho các
doanh nghiệp nằm trong KKT. Các cơ sở của việc phát triển các KKT bao gồm:
1

 Để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài. “Phần cứng” của các KKT –
hay cơ sở hạ tầng vật chất với đầy đủ dịch vụ – được xây dựng nhằm tăng cường
năng lực cạnh tranh của các nhà sản xuất và cung cấp dịch vụ. Nó cũng nhằm hiện
thực hóa những lợi ích của việc tích tụ (hay quy tụ) các ngành công nghiệp tập trung
trong một khu vực địa lý. Những lợi ích này bao gồm cơ sở hạ tầng chất lượng cao
và đồng bộ, hiệu quả giám sát của chính phủ đối với doanh nghiệp, quản lý môi
trường, và tương tác giữa các công ty thượng và hạ nguồn v.v. Có lẽ “cơ sở hạ tầng”
là một trong những lý do quan trọng nhất thúc đẩy việc phát triển các KKT ở các
nước nghèo với cơ sở hạ tầng thiếu thốn.
 Hỗ trợ cho chiến lược cải cách kinh tế rộng lớn hơn. Theo quan
điểm này, KKT là một công cụ cho phép một quốc gia phát triển và đa dạng hóa
mặt hàng xuất khẩu. KKT vừa giúp khuyến khích xuất khẩu (đối với các DN
trong KKT), trong khi vẫn cho phép duy trì các hàng rào ngoại thương (đối với
các DN ở ngoài KKT). Các khu chế xuất của Đài Loan và Hàn Quốc đi theo mô
hình này.

 Là phòng “thí nghiệm” cho các chính sách và cách tiếp cận mới.
Về phương diện này, các đặc khu kinh tế của Trung Quốc là những ví dụ kinh
điển. Các chính sách đột phá về tài chính, pháp lý, lao động, và giá cả đã được
giới thiệu và thử nghiệm đầu tiên ở các đặc khu kinh tế (tiêu biểu là Thẩm Quyến)
trước khi được mở rộng cho phần còn lại của nền kinh tế.
 Giải tỏa một phần áp lực của tăng dân số và nhu cầu việc làm. Với
khả năng thu hút nhiều đầu tư cả trong và ngoài nước, đặc biệt là FDI, các KKT
được kỳ vọng sẽ tạo ra một số lượng lớn việc làm, đặc biệt là trong những ngành
thuộc nhóm ưu tiên đầu tư.

1
Phần này dựa vào nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới (2008)

15

Mặc dù KKT, cùng với khu công nghiệp, khu chế xuất, khu cảng tự do v.v.,
được nhiều nước sử dụng như một công cụ chính sách phát triển công nghiệp
quan trọng, song thực thế cho thấy mức độ thành công của các công cụ này rất
khác nhau, phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố (sẽ được thảo luận trong Phần III và
IV). Để đánh giá sự thành công (hay thất bại) của các khu này, người ta thường
xem xét các lợi ích và chi phí của chúng, nội dung cụ thể được trình bày sau đây.
2. Những lợi ích và chi phí của khu kinh tế
Những lợi ích kinh tế từ việc phát triển KKT bao gồm những lợi ích tĩnh và
lợi ích động. Những lợi ích tĩnh khá đơn giản và bao gồm:
 Trực tiếp tạo việc làm
2
và thu nhập cho người lao động
o Số lượng lao động mới tạo ra được
o Tỷ trọng trong tổng lượng lao động quốc gia
o Thu nhập so với mức trung bình của các DN ngoài KKT

 Tăng trưởng và đa dạng hóa xuất khẩu
o Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của các DN trong KKT
o Tỷ trọng trong tổng kim ngạch xuất khẩu (đặc biệt là CN chế biến) của
quốc gia
o Tỷ trọng xuất khẩu hàng cơ bản, hàng tài nguyền, công nghệ thấp, trung
bình, và cao
 Tăng nguồn thu ngoại hối
o Xuất khẩu thuần (xuất khẩu – nhập khẩu)
o Giá trị hợp đồng với các nhà cung ứng hay thầu phụ nội địa
 Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
o Tỷ trọng trong tổng FDI của quốc gia
o Sự tích hợp của DN FDI với nền kinh tế nội địa (qua liên kết xuôi và
ngược)
Rõ ràng là những lợi ích này càng trở nên quan trọng ở những nước đang
phát triển nghèo với sức ép tăng dân số và việc làm, trong khi ngân sách hạn chế
và thiếu nguồn đầu tư.

2
Kinh nghiệm cho thấy các tác động tạo ra việc làm trực tiếp của khu kinh tế khá hạn chế. Tỷ trọng lao động trong
các KKT ở các quốc gia rất khác nhau, có thể chỉ ở mức 4,6% như ở Honduras, 6,2% ở Cộng hòa Dominican, 8%
ở Tunisia, 10% ở Fiji, 12 % ở Seychelles, 24% ở Mauritius, và 25% ở Các tiểu Vương quốc Ả Rập Thống nhất.
Cũng cần lưu ý rằng tác động tạo việc làm gián tiếp của khu kinh tế có thể rất đáng kể. Chẳng hạn như tỷ lệ giữa
lao động gián tiếp và lao động trực tiếp có thể từ 0,25 ở Mauritius tới 0,7 ở Madagascar và thậm chí 2.0 ở
Honduras (WB 2008).

16

Các lợi ích động, tuy khó đo lường nhưng có thể còn quan trọng hơn các lợi
ích tĩnh, nhất là trong dài hạn, bao gồm:
 Tạo việc làm gián tiếp

o Tỷ lệ giữa số việc làm gián tiếp và trực tiếp
 Nâng cấp nền công nghiệp
o Sự đa dạng hóa mặt hàng xuất khẩu
o Tỷ trọng xuất khẩu hàng công nghệ cao
o Số lượng bằng phát minh sáng chế của các DN trong KKT
 Chuyển giao công nghệ
o Mức độ áp dụng các công nghệ tiên tiến của các DN trong KKT
 Nâng cấp kỹ năng quản lý và lao động
o Tỷ trọng lao động trình độ cao và có kỹ năng
o Tỷ trọng lao động phổ thông
 “Tác động trình diễn” của những “thực hành tốt nhất” trong KKT
 Liên kết và phát triển vùng
Việc phát triển các KKT cũng đòi hỏi một loạt các chi phí tài chính và kinh
tế, bao gồm:
 Lương nhân viên nhà nước và các chi phí hoạt động khác
 Kinh phí đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
 Các khoản miễn, giảm thuế
Bảng _: Các quan điểm tranh luận về khu kinh tế và công nghiệp
Chủ đề Phê bình Ủng hộ
Thu ngoại tệ KKT-KCN tập trung các
hoạt động kinh tế phụ thuộc
vào nhập khẩu với giá trị gia
tăng thấp.

Quốc gia có thể cải
thiện giá trị gia tăng
bằng chính sách
không phân biệt đối
xử.
Hoạt động công

nghiệp
KKT-KCN làm kéo dài hoạt
động của các ngành công
nghiệp lắp rắp, kĩ năng thấp.

Nhiều KKT-KCN
khuyến khích các
hoạt động nâng cấp
kĩ năng và công
nghiệp
Cải cách chính
sách
KKT-KCN làm giảm động
lực cải cách trên quy mô
KKT-KCN là nhân
tố xúc tác cho các

17

toàn quốc gia.

hoạt động cải cách.
FDI KKT-KCN thu hút nguồn
vốn FDI “chất lượng kém”
trong các ngành kinh tế có
kĩ năng, công nghệ thấp và
di chuyển cao.

KKT-KCN là biện
pháp hiệu quả để

thu hút FDI, và đa
số dự án FDI không
có tính di chuyển
cao.
Quyền lợi của
phụ nữ
KKT-KCN làm tăng sự
phân biệt đối xử với phụ nữ
khi trả lương cho họ thấp
hơn nam giới.

KKT-KCN là một
khu vực quan trọng
tạo ra việc làm và
tăng thu nhập cho
phụ nữ.
Quyền lao động KKT-KCN hạn chế quyền
cơ bản về lao động.
Hầu hết các KKT-
KCN quy định các
quyền về lao động
phù hợp với tiêu
chuẩn của Tổ chức
Lao động Quốc tế
(ILO).

Điều kiện làm
việc
KKT-KCN cho phép các
doanh nghiệp né tránh các

quy định về điều kiện làm
việc, tiêu chuẩn y tế và an
toàn thấp.

Các KKT-KCN
được vận hành tốt
sẽ tạo tiêu chuẩn và
điều kiện làm việc
tốt hơn so với các
nơi khác.
Môi trường Các KKT-KCN không kiểm
soát tốt các quy định về môi
trường để thu hút các ngành
công nghiệp gây ô nhiễm.
Các KKT-KCN
được vận hành tốt
sẽ kiểm soát và
thực hành tốt các
quy định về môi
trường.
Nguồn: Ngân hàng Thế giới (2008)
Nhưng cần lưu ý rằng chi phí của việc phát triển KKT không chỉ bao gồm
những chi phí trực tiếp liệt kê ở trên, mà còn bao gồm những chi phí gián tiếp như
trợ cấp của chính phủ (trong tiền thuê đất, tín dụng ưu đãi, hay năng lượng chẳng
hạn), thất thoát thuế và cạnh tranh không binh đẳng khi hàng hóa từ bên trong khu
phi thuế quan bị tuồn ra ngoài, giảm nguồn thu thuế do sự di chuyển của các công
ty từ bên ngoài vào bên trong KKT để hưởng ưu đãi thuế lớn hơn, các tác động

18


tiêu cực về xã hội từ thu hồi đất và chuyển đổi cuộc sống của người dân bị ảnh
hưởng, sự suy giảm chất lượng môi trường (do chính sách thu hút FDI bằng mọi
giá), và sự chèn lấn nguồn lực đối với khu vực kinh tế nội địa (do quá ưu tiên đầu
tư vào các KKT cũng như ưu đãi cho các DN trong KKT). Lưu ý rằng đây là
những chi phí của đất nước nhưng lại không thể thu hồi từ việc cung ứng dịch vụ
cho các DN bên trong KKT, và vì vậy đặt thêm gánh nặng đối với ngân sách nhà
nước và nguồn lực quốc gia.
Một vấn đề quan trọng liên quan đến việc phát triển các KKT là tác động
đến ngân sách. Nếu thành công thì các KKT sẽ góp phần cải thiện nguồn thu cho
chính phủ, nhưng nếu thất bại thì chúng sẽ trở thành một gánh nặng rất lớn cho
ngân sách. Như vậy, các KKT có thể là nguồn nuôi dưỡng nhưng cũng có thể là
gánh nặng đối với nền kinh tế. Những tác động chính của việc phát triển KKT đến
ngân sách được tóm tắt trong Bảng 1.
Bảng 1: Nguồn Thu và Chi phí của Chính phủ từ việc phát triển các
Khu Công nghiệp
Nguồn Thu
 Thuế thu nhập doanh nghiệp (nếu không có miễn, giảm thuế).
 Thuế thu nhập cá nhân từ các lao động trực tiếp hay gián tiếp.
 Các khoản phí, lệ phí dịch vụ.
 Phí nhà đất (cho thuê hoặc bán đất công cho các nhà phát triển KKT-KCN).
 Thuế nhập khẩu và các thuế khác thu từ việc bán hàng ra ngoài khu phi thuế
quan.
 Các khoản thu phí từ việc cấp quyền khai thác các tiện ích khác (cảng, điện,
nước…).
Chi phí
 Lương của công chức nhà nước để quản lý và điểu hành hoạt động của các
KKT-KCN.
 Chi phí vốn của nhà nước cho các cơ sở hạ tầng kết nối bên ngoài KKT-
KCN (và các chi phí cơ sở hạ tầng và tiện ích bên trong KKT-KCN nếu do
khu vực công phát triển).

 Thất thu thuế và lệ phí nhập khẩu do hoạt động buôn lậu.
 Thất thu thuế do DN di chuyển từ khu vực thuế quan nội địa sang khu phi
thuế quan.

19



Các tr


c

p khác c

a nhà nư

c.

Nguồn: Ngân hàng Thế giới (2008)
II. Khái lược về chính sách phát triển khu kinh tế ven biển của Việt
Nam
Khu kinh tế mở đầu tiên ở Việt Nam được ra đời từ quyết định số
108/2003/QĐ-TTg ngày 5/6/2003 của Thủ tướng Chính phủ. Kể từ đó, các khu
kinh tế mở, mà hiện nay thường được gọi là các khu kinh tế ven biển, liên tục ra
đời. Cho đến nay, Chính phủ đã quy hoạch tổng cộng 18 KKT ven biên, trong đó
ba khu bao gồm KKT Đông Nam Quảng Trị, KKT ven biển Thái Bình, KKT Ninh
Cơ (tỉnh Nam Định) vừa mới được bổ sung vào quy hoạch. Bên cạnh đó, 4 KKT
khác cũng đang “xếp hàng” để được chờ đưa vào quy hoạch, bao gồm KKT Móng
Cái - Hải Hà (Quảng Ninh), Kim Sơn (Ninh Bình), Trần Đề (Sóc Trăng), và Gành

Hào (Bạc Liêu).
Giống như nhiều khu kinh tế trên thế giới, ngay từ đầu và cho đến hiện nay,
mục tiêu quan trọng nhất của việc xây dựng các KKT ở Việt Nam là để thử nghiệm
các mô hình, thể chế, và chính sách mới nhằm tạo ra các động lực phát triển có tính
đột phá, nhờ đó đem lại sức sống mới, nâng cao năng lực cạnh tranh, và đẩy mạnh
xuất khẩu cho toàn nền kinh tế (xem Hộp 1).

Hộp 1. Mục tiêu phát triển Khu kinh tế mở Chu Lai
Điều 3. KKTM Chu Lai được thành lập nhằm mục tiêu:
3

Áp dụng các thể chế, cơ chế chính sách mới, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh
bình đẳng, phù hợp với thông lệ quốc tế cho các loại hình kinh doanh của các tổ
chức kinh tế trong và ngoài nước, qua đó có thêm kinh nghiệm cho hội nhập kinh
tế quốc tế và khu vực;

3
Quyết định số 108/2003/QĐ-TTg ngày 5/6/2003 của Thủ tướng Chính phủ.

20

Áp dụng các mô hình, động lực mới cho phát triển kinh tế, khắc phục những
vướng mắc trong chính sách và cơ chế quản lý kinh tế hiện hành, trong khi chưa
có điều kiện thực hiện trên phạm vi cả nước;
Phát triển sản xuất, tạo ra những sản phẩm có chất lượng và khả năng cạnh tranh
cao, đẩy mạnh xuất khẩu và mở rộng ra thị trường thế giới;
Tạo việc làm, thúc đẩy việc đào tạo và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực;
Khai thác lợi thế về điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý kinh tế và chính trị trong giao
thương, dịch vụ quốc tế và trong nước để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội tỉnh
Quảng Nam, góp phần tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội cho toàn bộ khu

vực miền Trung, thu hẹp khoảng cách phát triển giữa khu vực này với các vùng
khác trong cả nước.
Nghị định số 29/2008/NĐ-CP về khu công nghiệp (KCN), khu chế xuất
(KCX) và khu kinh tế ngày 14/3/2008 định nghĩa khu kinh tế là “khu vực có không
gian kinh tế riêng biệt với môi trường đầu tư và kinh doanh đặc biệt thuận lợi cho
các nhà đầu tư, có ranh giới địa lý xác định, được thành lập theo điều kiện, trình tự
và thủ tục quy định tại Nghị định này.” Về mặt chức năng, nghị định này cũng nêu
rõ khu kinh tế được tổ chức thành các khu chức năng gồm: khu phi thuế quan, khu
bảo thuế, khu chế xuất, khu công nghiệp, khu giải trí, khu du lịch, khu đô thị, khu
dân cư, khu hành chính và các khu chức năng khác (phù hợp với đặc điểm của từng
khu kinh tế).
Trong khoảng 3 năm trở lại đây, trong tiến trình vận động chung của nền
kinh tế cũng như của tư duy quản lý kinh tế, quan điểm phát triển KKT được bổ
sung thêm một số nội hàm mới, trong đó quan trọng nhất là về chuyển đổi cơ cấu
kinh tế, liên kết vùng, phát triển bền vững, và phát huy kinh tế biển
4
. Cụ thể là
việc phát triển các KKT ven biển phải gắn liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế
không chỉ của địa phương mà còn là của vùng và cả nước. Bên cạnh đó, sự phát
triển của các khu kinh tế ven biển đều phải gắn kết chặt chẽ với chiến lược phát
triển vùng và chú trọng tới yêu cầu bảo vệ môi trường. Như sẽ được phân tích ở
phần dưới, mặc dù đã tiến thêm được một số bước quan trọng về nhận thức phát
triển KKT, song cho đến nay, việc thực hiện các quan điểm này còn rất hạn chế.
Thậm chí trong một số trường hợp việc phát triển KKT còn đi ngược lại các quan
điểm chỉ đạo của Chính phủ, đặc biệt là về liên kết vùng, bảo vệ môi trường, và
bền vững về tài chính. Bên cạnh đó, việc phát triển các “cụm ngành công nghiệp”

4
Xem Quyết định 1353/QĐ-TTg ngày 23/9/2008 phê duyệt Đề án “Quy hoạch phát triển các Khu kinh tế ven biển
của Việt Nam đến năm 2020”


21

(industrial cluster) tuy là một xu hướng chủ đạo trong phát triển công nghiệp của
thế giới nhưng vẫn chưa được đưa vào các văn bản chính thức ở Việt Nam.
Chính phủ cũng quy định các điều kiện để thành lập và mở rộng khu kinh tế
(Hộp 2). Có hai vấn đề cần thảo luận liên quan đến những quy định này, đó là tính
hợp lý và việc áp dụng những điều kiện này trên thực tế.
Hộp 2: Điều kiện thành lập, mở rộng khu kinh tế
5

Điều 7. Điều kiện thành lập, mở rộng khu kinh tế
1. Điều kiện thành lập khu kinh tế:
a) Phù hợp với Quy hoạch tổng thể phát triển khu kinh tế đã được phê duyệt;
b) Có vị trí địa lý thuận lợi cho phát triển kinh tế khu vực (có cảng biển nước sâu
hoặc gần sân bay), kết nối thuận lợi với các trục giao thông huyết mạch của quốc
gia và quốc tế; dễ kiểm soát và giao lưu thuận tiện với trong nước và nước ngoài;
có điều kiện thuận lợi và nguồn lực để đầu tư và phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật;
c) Có quy mô diện tích từ 10.000 ha trở lên và đáp ứng yêu cầu phát triển tổng hợp
của khu kinh tế;
d) Có khả năng thu hút dự án, công trình đầu tư với quy mô lớn, quan trọng và có
tác động tới sự phát triển kinh tế - xã hội của cả khu vực;
đ) Có khả năng phát huy tiềm năng tại chỗ và tạo ảnh hưởng phát triển lan tỏa đến
các khu vực xung quanh;
e) Không tác động tiêu cực đến các khu bảo tồn thiên nhiên; không gây ảnh hưởng
xấu và làm tổn hại đến các di sản văn hóa vật thể, danh lam thắng cảnh, các quần
thể kiến trúc có giá trị lịch sử, thẩm mỹ, khoa học; phù hợp với bố trí quốc phòng
và đảm bảo quốc phòng, an ninh; có điều kiện đảm bảo yêu cầu về môi trường, môi
sinh và phát triển bền vững.
3. Điều kiện mở rộng khu kinh tế:

a) Toàn bộ hệ thống kết cấu hạ tầng khu kinh tế đã được đầu tư hoàn chỉnh theo
Quy hoạch chung xây dựng khu kinh tế;
b) Có ít nhất 70% diện tính đất của các khu chức năng trong khu kinh tế đã được
giao hoặc cho các tổ chức, cá nhân thuê để thực hiện dự án.
Thứ nhất, một số điều kiện tỏ ra không hợp lý, chạy theo cái “kỳ vĩ” mà
không gắn với hiện thực, và do vậy tự mâu thuẫn lẫn nhau. Trừ 3 KKT ở Khánh
Hòa, Hải Phòng, và Quảng Ninh thì tất cả 15 KKT còn lại đều nằm ở các địa
phương chưa tự chủ được về ngân sách và có mức thu nhập thấp hơn mức trung

5
Nghị định số 29/2008/NĐ-CP ngày 14/3/2008 về khu công nghiệp, khu chế xuất, và khu kinh tế.

22

bình của cả nước. Vì thế, việc yêu cầu KKT phải có diện tích từ 10.000 ha trở lên
thoạt nghe rất hứa hẹn, song nếu căn cứ vào nguồn lực của địa phương thì chắc
chắn không thể đáp ứng được yêu cầu về cơ sở hạ tầng kỹ thuật để đón các dự án
đầu tư với quy mô lớn, dẫn đầu về công nghệ, có tác động tới sự phát triển kinh tế
- xã hội không chỉ của địa phương mà còn của cả khu vực như được quy định
trong điều kiện thành lập KKT.
Không những thế, điều kiện các KKT phải “có vị trí địa lý thuận lợi cho phát
triển kinh tế khu vực (có cảng biển nước sâu hoặc gần sân bay)” vô hình trung đã
kích hoạt cuộc chạy đua quyết liệt giữa các tỉnh trong việc chạy đưa bằng được dự
án cảng nước sâu và sân bay của mình vào trong quy hoạch, bất chấp hiệu quả kinh
tế ở tất cả các cấp độ địa phương, vùng, và quốc gia. Không những thế, cuộc đua
này của địa phương cùng với kỷ luật lỏng lẻo của trung ương còn dẫn tới sự sự phá
vỡ quy hoạch, mà điển hình không đâu xa nằm ngay ở quy hoạch các KKT. Chỉ
trong vòng hai năm, từ Quyết định 1353/QĐ-TTg vào tháng 9/2011 cho đến tháng
11/2011, số lượng KKT đã tăng từ 15 lên 18. Bên cạnh đó còn có 4 KKT đang chờ
xin chủ trương để được bổ sung vào quy hoạch. Mâu thuẫn gay gắt giữa một bên là

nguồn lực hạn chế và bên kía là mong muốn phát triển KKT quy mô rất lớn của quá
nhiều địa phương chắc chắn sẽ làm cho đa số các KKT không thể phát triển được.
Thứ hai, Chính phủ quy định rằng một KKT sẽ chỉ được mở rộng khi toàn
bộ hệ thống kết cấu hạ tầng khu kinh tế đã được đầu tư hoàn chỉnh theo quy hoạch
và ít nhất 70% diện tính đất của các khu chức năng trong khu kinh tế đã có chủ
đầu tư. Thế nhưng trên thực tế, mặc dù không có cơ sở nào chứng tỏ rằng KKT
Dung Quất sẽ thỏa mãn cả hai điều kiện này trong một tương lai không xa nhưng
vẫn được mở rộng hơn 4 lần, từ 10.300 ha theo quy hoạch ban đầu lên tới 45.332
ha
6
theo Quyết định số 124/QĐ-TTg ngày 20/01/2011 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Điều chỉnh Quy hoạch chung xây dựng Khu kinh tế Dung Quất đến năm
2025.
Để thực hiện được mục tiêu phát triển KKT đầy tham vọng trong khi nguồn
lực hữu hạn, nhà nước (cả trung ương và địa phương) không có cách nào khác
ngoài việc tài trợ trực tiếp cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng KKT, đồng thời đưa ra
những ưu đãi đặc biệt, thậm chí trợ cấp bằng nhiều hình thức cho các nhà đầu tư
vào KKT (xem Hộp 3).

Hộp 3: Các biện pháp ưu đãi đầu tư ở các khu kinh tế ven biển

6
Diện tích mới này bao gồm 10.300 ha đất hiện hữu, 24.280 ha diện tích đất mở rộng, và 10.500 ha mặt biển.

23

3. Nhà đầu tư có dự án đầu tư vào khu kinh tế, kể cả dự án đầu tư mở rộng, được
hưởng chính sách ưu đãi áp dụng đối với địa bàn thuộc Danh mục địa bàn có điều
kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và các chính sách ưu đãi khác theo quy định
của Nghị định này.

4. Các dự án đầu tư sau đây được hưởng ưu đãi cao nhất theo quy định của pháp
luật về thuế thu nhập doanh nghiệp:
a) Dự án đầu tư vào ngành nghề, lĩnh vực thuộc Danh mục lĩnh vực đặc biệt ưu đãi
đầu tư và thực hiện tại khu kinh tế hoặc tại khu công nghiệp được thành lập tại địa
bàn thuộc Danh mục địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn;
b) Dự án đầu tư xây dựng và kinh doanh hạ tầng khu phi thuế quan trong khu kinh
tế;
c) Dự án đầu tư thuộc lĩnh vực công nghệ cao tại khu công nghiệp, khu kinh tế;
d) Dự án đầu tư có quy mô lớn và có ý nghĩa quan trọng đối với phát triển ngành,
lĩnh vực hoặc phát triển kinh tế - xã hội của khu vực tại khu công nghiệp, khu kinh
tế sau khi được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận.
5. Giảm 50% thuế thu nhập đối với người có thu nhập thuộc diện chịu thuế thu
nhập, kể cả người Việt Nam và người nước ngoài làm việc tại khu kinh tế.
6. Chi phí đầu tư xây dựng, vận hành hoặc thuê nhà chung cư và các công trình kết
cấu hạ tầng xã hội phục vụ cho công nhân làm việc tại khu công nghiệp, khu kinh
tế là chi phí hợp lý được khấu trừ để tính thu nhập chịu thuế của doanh nghiệp có
dự án đầu tư trong khu công nghiệp, khu kinh tế.
Việc đưa ra nhiều ưu đãi hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư cơ sở hạ tầng
cũng như các nhà đầu tư sản xuất và kinh doanh dịch vụ là điều cần thiết và là
thông lệ phổ biến trên thế giới. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng rất nhiều nghiên cứu
ở nhiều nước khác nhau đã chỉ ra rằng nếu không có những yếu tố căn bản (ví dụ
như chất lượng của nguồn nhân lực, cơ sở hạ tầng cứng và cơ sở hạ tầng mềm), thì
bản thân các ưu đãi đầu tư không có tác dụng.
7
Do vậy, sự cạnh tranh giữa các tỉnh
này thực sự đã trở thành một điều “lợi bất cập hại” hay “cạnh tranh xuống đáy”
trong khi mục tiêu ban đầu là thu hút FDI vẫn còn chưa đạt được.
III. Đánh giá hiệu quả kinh tế của các KKT ở Việt Nam
1. Số lượng và quy mô của các khu kinh tế


7
Trong trường hợp của Việt Nam, nghiên cứu của Vũ Thành Tự Anh, Lê Viết Thái, và Võ Tất Thắng (2007) đã
chứng mình rằng sau khi kiểm soát các nhân tố cơ bản thì các ưu đãi đầu tư trái quy định mà 32 tỉnh ở Việt Nam
đưa ra trong giai đoạn 2001 – 2005 chẳng những không giúp cho các tỉnh này thu hút được nhiều FDI hơn mà trái
lại còn làm tăng gánh nặng ngân sách của chúng.

24

Đến tháng 11/2011, Việt Nam đã có 18 KKT ven biển với tổng diện tích mặt
đất và mặt nước lên tới trên 730.000 ha (xem Bảng 2).
8
Trong số này, 9 KKT bao
gồm Chu Lai, Dung Quất, Nhơn Hội, Nghi Sơn, Vũng Áng, Chân Mây - Lăng Cô,
Vân Phong, Vân Đồn, Nam Phú Yên đã cơ bản hoàn thành quy hoạch tổng thể, quy
hoạch chi tiết các phân khu chức năng, và đang xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật -
xã hội. 9 KKT còn lại vẫn còn đang trong giai đoạn xây dựng quy hoạch, chuẩn bị
bộ máy và nhân sự, xây dựng dự án, huy động vốn đầu tư cơ sở hạ tầng, và tiến
hành đền bù giải phóng mặt bằng.
Bảng 2: Danh sách các khu kinh tế ở Việt Nam tính đến 11/2011
STT

Danh sách các Khu
kinh tế
Địa phương
thành lập
Thời điểm

thành lập
Diện tích
(ha)

1 Chu Lai
Quảng Nam
5/6/2003 27.040
2 Dung Quất
Quảng Ngãi
21/3/2005 10.300
3 Nhơn Hội
Bình Định
14/6/2005 12.000
4 Chân Mây – Lăng Cô

Thừa Thiên
Huế
05/01/2006

27.108
5
Phú Quốc – Nam An
Thới
Kiên Giang
14/2/2006 56.100
6 Vũng Áng
Hà Tĩnh
3/4/2006 22.781
7 Vân Phong
Khánh Hoà
25/4/2006 150.000
8 Nghi Sơn
Thanh Hóa
15/5/2006 18.612

9 Vân Đồn
Quảng Ninh
31/5/2006 217.133
10 Đông Nam Nghệ An
Nghệ An
11/6/2007 18.826
11 Đình Vũ – Cát Hải
Hải Phòng
10/1/2008 21.600
12 Nam Phú Yên
Phú Yên
29/4/2008 20.730
13 Hòn La
Quảng Bình
10/6/2008 10.000
14 Định An
Trà Vinh
27/4/2009 39.020
15 Năm Căn
Cà Mau
23/11/2010

11.000
16
Đông Nam Quảng
Trị
Quảng Trị
27/2/2010 23.460
17 Ven biển Thái Bình
Thái Bình

9/2/2011 30.583
18 Ninh Cơ
Nam Định
25/2/2011 13.950
730.243
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư

8
Nếu tính riêng diện tích mặt đất thì 18 KKT hiện nay chiếm khoảng 2% diện tích đất của Việt Nam.

25

2. Kết quả thu hút đầu tư
Bảng 3: Tóm tắt kết quả thu hút đầu tư vào các khu kinh tế cho đến 2010
2010 Lũy kế đến hết 2010
Đầu tư xây dựng CSHT
Số dự án 32 N/A
Vốn đầu tư 15.600 tỷ đồng 170.000 tỷ đồng
Trong nước - ≈ 40.000 tỷ đồng
Nước ngoài - ≈ 130.000 tỷ đồng
Dự án đầu tư vào KKT
Số dự án Trên 110 700
Trong nước Trên 80 -
FDI 30 -
Vốn đầu tư đăng ký ≈ 2 tỷ USD + 20.000 tỷ
đồng
≈ 33 tỷ USD + 330.000 tỷ
đồng
Trong nước ≈ 20.000 tỷ đồng ≈ 330.000 tỷ đồng
FDI ≈ 2 tỷ USD ≈ 33 tỷ USD

Lao động 27.000 -
Nguồn: Trần Duy Đông (2011)
3. Tính khả thi của việc phát triển đồng loạt tất cả các khu kinh tế
Phần này cung cấp một số đánh giá sơ bộ về tính khả thi của chính sách
phát triển các khu kinh tế một cách đại trà ở Việt Nam trên ba phương diện: tài
chính, nhân lực, và thể chế.
Về mặt tài chính, vì hầu hết các khu kinh tế ven biển được thành lập ở những
địa phương có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, thậm chí đặc biệt khó khăn, nên
chỉ riêng yêu cầu phát triển và nâng cấp hệ thống cơ sở hạ tầng thiết yếu (chứ chưa
nói tới các hạ tầng tiên tiến để biến các KKT này thành nơi đi đầu về công nghệ của
cả nước) vô cùng lớn. Điều này mâu thuẫn trực tiếp và gay gắt với nguồn vốn rất
hạn chế từ địa phương (do đa số các địa Phương có KKT đều chưa tự chủ được
ngân sách) cũng như hỗ trợ ngân sách từ trung ương. Theo ước tính của Bộ Kế
hoạch và Đầu tư, trong giai đoạn 2004 – 2009, tổng cộng các nguồn vốn hỗ trợ có
mục tiêu từ ngân sách trung ương, vốn trái phiếu Chính phủ, nguồn thu địa Phương
được giữ lại, và ODA mới chỉ đáp ứng được khoảng 20% nhu cầu vốn đầu tư phát
triển hệ thống cơ sở hạ tầng của các KKT đã được thành lập.
Tuy nhiên, có vẻ như đánh giá này của Bộ Kế hoạch và Đầu tư còn quá lạc
quan do mới chỉ tính đến nhu cầu đầu tư của các khu hiện đang được phát triển chứ
chưa bao gồm cả nhu cầu phát triển hết tất cả các phân khu chức năng như quy

×