Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Bệnh tay chân miệng là gì và các thông tin cơ bản potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.35 KB, 4 trang )

Bệnh tay chân miệng là gì và các thông
tin cơ bản
Bệnh Tay – Chân – Miệng (Hand – Foot – Mouth Disease –
HFMD) là một bệnh thường gặp ở nhũ nhi và trẻ em. Bệnh thường
được đặc trưng bởi sốt, đau họng và nổi ban có bọng nước. Triệu
chứng đầu tiên thường là sốt nhẹ, biếng ăn, mệt mỏi và đau họng.
Một đến hai ngày sau khi xuất hiện sốt trẻ bắt đầu đau miệng.
Khám họng trẻ có thể phát hiện các chấm đỏ nhỏ sau đó biến thành
các bọng nước và thường tiến triển đến loét. Các tổn thương này có
thể thấy ở lưỡi, nướu và bên trong má. Ban da xuất hiện trong vòng
1 đến 2 ngày với các tổn thương phẳng trên da hoặc có thể gồ lên,
máu đỏ và một số hình thành bọng nước. Ban này không ngứa và
thường khu trú ở lòng bàn tay hoặc lòng bàn chân. Như vậy ban
điển hình thường xuất hiện ở các vị trí tay, chân và miệng nên
bệnh có tên Bệnh Tay – Chân – Miệng. Tuy nhiên ban có thể xuất
hiện ở mông. Một số trường hợp, ban chỉ xuất hiện ở miệng mà
không thấy ở các vị trí khác.

Nguyên nhân gây bệnh
Bệnh Tay – Chân – Miệng do một nhóm virus thuộc nhóm virus
ruột gây nên. Tác nhân thường gặp nhất là coxsackievirus A16, đôi
khi do enterovirus 71 và các virus ruột khác. Nhóm virus ruột bao
gồm các phân nhóm virus bại liệt, coxsackievirus, echovirus và
một số enterovirus khác không xếp vào phân nhóm nào.
Biểu hiện của bệnh tay chân miệng
Đây là một bệnh dễ lây lan. Đường lây truyền thường từ người
sang người do tiếp xúc với các dịch tiết mũi họng, nước bọt, chất
dịch từ các bọng nước hoặc phân của người bệnh. Giai đoạn lây
lan mạnh nhất là tuần đầu tiên bị bệnh. Bệnh Tay – Chân – Miệng
không phải là bệnh lây từ động vật sang người.
Thời kỳ ủ bệnh thường từ 3 đến 7 ngày. Sốt thường là triệu chứng


đầu tiên của bệnh. Đầu tiên virus thường cư trú ở niêm mạc má hay
niêm mạc hồi tràng và sau 24 giờ, virus lam đến các hạch bạch
huyết vùng. Nhiễm virus huyết thường xảy ra nhanh chóng sau đó
và virus di chuyển đến niêm mạc miệng và da. Vào ngày thứ 7 sau
khi nhiễm bệnh, kháng thể trung hòa tăng cao và virus bị thải loại.
Bệnh Tay – Chân – Miệng xảy ra chủ yếu ở trẻ em dưới 10 tuổi tuy
nhiên cũng có thể gặp ở cả người trưởng thành. Mọi người đều có
thể nhiễm virus nhưng không phải tất cả những người nhiễm virus
đều biểu hiện bệnh. Trẻ nhũ nhi, trẻ em và thiếu niên là những đối
tượng dẽ bị nhiễm bệnh và biểu hiện bệnh nhất vì chúng chưa có
kháng thể chống lại bệnh này. Nhiễm bệnh có thể tạo nên kháng
thể đặc hiệu chống virus gây bệnh tuy nhiên bệnh vẫn có thể tái
diễn do một chủng virus khác gây nên.
Bởi vì mức độ lưu hành của các virus ruột, bao gồm cả các tác
nhân gây Bệnh Tay – Chân – Miệng, nên phụ nữ có thai thường
hay nhiễm bệnh. Nhiễm virus ruột trong thai kỳ thường gây nên
bệnh nhẹ nhàng hoặc không triệu chứng. Không có dữ kiện nào
chứng tỏ nhiễm virus trong quá trình mang thai gây nên các hậu
quả xấu lên thai như sẩy thai, thai chết lưu hay dị tật bẩm sinh. Tuy
nhiên nếu thai phụ nhiễm bệnh trong một thời gian ngắn trước khi
sinh thì có thể truyền virus cho trẻ sơ sinh. Đa số những trẻ này chỉ
biểu hiện bệnh nhẹ nhàng nhưng một số có thể biểu hiện bệnh cực
kỳ trầm trọng đưa đến rối loạn chức năng đa cơ quan và tử vong.
Nếu bệnh xuất hiện trong hai tuần đầu sau sinh thì nguy cơ xảy ra
bệnh nặng cao hơn.
Chẩn đoán
Chẩn đoán bệnh thường dựa trên biểu hiện lâm sàng với vị trí đặc
trưng của ban (tay, chân, miệng và mông). Phân lập virus từ các
bệnh phẩm phết họng hay dịch của các bọng nước thường sau 2
đến 4 tuần mới có kết quả nên nó không hữu ích cho chẩn đoán

trên từng bệnh nhân cụ thể mà chỉ có ý nghĩa chẩn đoán hồi cứu và
ý nghĩa dịch tễ học. Các thầy thuốc lâm sàng thường không yêu
cầu xét nghiệm này. Và không phải tất cả các phòng xét nghiệm vi
sinh vật đều có thể thực hiện kỹ thuật nuôi cấy virus gây bệnh
được.


×