Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Các virut gây bệnh tay chân miệng cực kỳ nguy hiểm potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.97 KB, 4 trang )

Các virut gây bệnh tay chân miệng cực kỳ
nguy hiểm
Các dấu hiệu bệnh đặc biệt chú ý, Nhận dạng các tác nhân gây bệnh, Thực
hiện nghiêm các biện pháp vệ sinh là cách điều trị phòng tốt nhất.
Bệnh tay chân miệng thường xảy ra ở trẻ dưới 10 tuổi, song người lớn cũng
có thể mắc. Mọi người đều có nguy cơ nhưng không phải ai bị lây cũng mắc
bệnh. Thời điểm này có nhiều ca bệnh ở phía Nam, do vậy các bậc cha mẹ
cần có những hiểu biết cơ bản để phòng ngừa và chăm sóc trẻ tốt hơn.

Các dấu hiệu bệnh đặc biệt chú ý
- Bệnh thường bắt đầu với các triệu chứng sốt, kém ăn, mệt mỏi và thường
đau họng nhẹ. Đặc biệt, bệnh rất dễ nhầm lẫn với các bệnh khác như viêm da
bóng nước do nhiễm khuẩn, bệnh do nhiễm siêu vi hoặc bệnh thủy đậu.
- Trong 1 - 2 ngày sẽ xuất hiện những nốt hồng ban đường kính vài mm nổi
trên nền da bình thường, sau đó trở thành bóng nước.
- Ở miệng có dạng vết loét, có đường kính từ 4 - 8mm, thường ở phía trong
miệng, ở trên lưỡi, tại vòm miệng hoặc ở lợi răng làm trẻ nuốt đau. Với triệu
chứng này, cha mẹ thường nhầm lẫn với bệnh viêm loét miệng thông
thường.
- Những bóng nước ngoài da thường xuất hiện ở lòng bàn tay, lòng bàn
chân, cẳng chân hoặc ở cánh tay. Bệnh lây truyền từ người này qua người
khác do tiếp xúc trực tiếp với nước mũi, miệng, nước bọt, dịch của mụn dộp
hoặc phân của người nhiễm.
- Trẻ nhũ nhi có thể có ban dạng sẩn vùng mông hoặc nơi quấn tã lót. Trong
giai đoạn cấp, ngoài những dấu hiệu trên, đôi khi bệnh kèm theo triệu chứng
như hạch ở cổ, hạch dưới hàm, ho, sổ mũi, tiêu chảy, buồn nôn và nôn.
Trong giai đoạn diễn tiến, khi siêu vi gây bệnh xâm nhập hệ thần kinh trung
ương sẽ xuất hiện triệu chứng rối loạn tri giác như lơ mơ, li bì, mê sảng hay
co giật.
Nhận dạng các tác nhân gây bệnh
Là virut thuộc nhóm enteroviruses (virut đường ruột). Tác nhân thường là


Coxsackievirus A16, Enterovirus 71 hoặc một loại virut khác trong nhóm
enteroviruses. Nhóm virut đường ruột (enterovirus) gồm: polioviruses,
coxsackieviruses, echoviruses và các enteroviruses khác.
Coxsackievirus A16: Virut Coxsackie lần đầu tiên được phân lập trong phân
người tại thị trấn Coxsackie, New York vào năm 1948 bởi G. Dalldorf. Virut
này thuộc họ Picornaviridae chủng Enterovirus. Virus Coxsackie thuộc một
phân nhóm của Enterovirus, chỉ có một chuỗi ribonucleic acid (RNA) làm
vật liệu di truyền. Enterovirus cũng được xếp vào nhóm picornaviruses
(nghĩa là virut có chuỗi RNA nhỏ).
Virut Coxsackie phân thành 2 nhóm A và B.
- Nhóm A: Gây hoại tử cơ và chết. Virut týp A (chủ yếu serotype A16) gây
herpangina (các mụn nước ở họng, hầu, tay, chân). Bệnh tay chân miệng là
tên thường gọi của bệnh nhiễm virut này. Bệnh thường xảy ra ở trẻ em từ 6
tháng đến 5 tuổi, đặc biệt là trẻ dưới 3 tuổi, người lớn vẫn có thể mắc. Týp A
còn gây viêm kết mạc.
- Nhóm B: Gây tổn thương nội tạng nhưng tình trạng ít nặng hơn. Virut týp
B gây tình trạng đau màng phổi, biểu hiện bằng sốt, đau ngực, đau bụng,
nhức đầu trong vòng từ 2 - 12 ngày, còn được gọi là bệnh Bornholm. Virut
có tất cả 24 týp huyết thanh (có kháng nguyên khác nhau trên bề mặt virut).
Virut Coxsackie nhiễm vào tế bào của ký chủ và làm vỡ tế bào (lysis). Cả 2
týp virut A lẫn B có thể gây viêm màng não, viêm cơ tim và viêm màng
ngoài tim nhưng thường ít gặp.
Enterovirus 71 (EV71): Nếu là do virut coxsackie A16 gây ra thì thường
bệnh ở dạng nhẹ và tự khỏi không cần điều trị trong khoảng từ 7 - 10 ngày.
Hiếm khi có biến chứng viêm màng não virut. Nhưng nếu là do enterovirus
71 thì rất nguy hiểm hơn, bởi bệnh có thể gây viêm màng não, viêm não,
liệt dễ dẫn đến tử vong nếu phát hiện và điều trị muộn. Bệnh lây từ người
sang người thông qua tiếp xúc trực tiếp với các chất tiết mũi họng, nước bọt,
dịch của bọng nước, phân của người bệnh. Tuần lễ đầu tiên sau khi phát
bệnh là lúc dễ lây nhiễm nhất.


×