Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

CÂY LẠC potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (514.62 KB, 24 trang )

Trường ĐH Khoa Học Tự Nhiên
Khoa Môi trường
~o0o~
TIỂU LUẬN
Môn : TRỒNG TRỌT
Chủ đề: CÂY LẠC
Sinh viên: Đàm Tuấn Anh
Giáo viên HD: PGS.TS Lê Văn Thiện
Hà Nội – 29/3/2011
Mục lục
1
CÂY LẠC
1. GIỚI THIỆU CHUNG
1.1 Cây lạc ở Việt Nam
Lạc là cây hoa màu có nguồn gốc từ vùng nhiệt đới ( từ Trung và Nam Mỹ)
lạc thuộc cây bộ đậu đỗ , thân thảo … và hiện nay Lạc được trồng khá phổ biến ở
Việt Nam và cho năng xuất và hiệu quả kinh tế cao.Lạc thích hợp với những loại
đất có thành phần cơ giới nhẹ và thoát nước tốt , như đất cát pha , đất thị nhẹ …và
được trồng ở đồng bằng Bắc bộ ,Trung bộ ,Tây Nguyên và Nam bộ. Theo kết quả
của thống kê của tổng cục thống kê thì tổng diện tích trồng lạc của cả nước đạt
269.600 ha và tổng sản lượng đạt được là 489.300 tấn ( năm 2005) , và theo dự
kiến đến năm 2010 thì tổng diện tích sẽ lên tới 330.000 ha và tổng sản lượng ước
2
tính sẽ đạt được là 550.000- 560.000 tấn. Điều đó đã nói lên được khả năng thích
nghi và vai trò của cây lạc trong nền nông nghiệp ,và đóng góp vào thu nhập của
người nông dân nói riêng và thu nhập chung của nên kinh tế quốc dân trong cả
nước.
Ngoài việc tạo năng xuất và hiệu quả kinh tế cao thì cây lạc cũng là một loại
cây trồng có khả năng cải tạo đất rất tốt ( đó là nhờ sự cộng sinh của nhóm vi
khuẩn cộng sinh với lạc ở rễ , chúng có khả năng cố đinh đạm từ nguồn N
2


từ
không khí làm tăng lượng đạm trong đất đồng thời nó làm tăng độ phì của đất).Cây
lạc cũng là một cây phân xanh có thể sử dụng trực tiếp toàn bộ rễ thân lá của cây
lạc làm phân bón cho đất được luôn.
Ngoài ra cây lạc còn có nhiều ứng dụng trong đời sống ( dùng để sản xuất dầu
thực vật , thực phẩm…) trong y học ( vỏ lạc , và lụa lạc dùng để làm thuốc…)
1.2 Đặc điểm sinh học của cây lạc (Arachis hypogaea)
Tên khoa học la Arachis hypogaea
Giới (regnum): Plantae
Bộ (ordo): Fabales
Họ (familia): Fabaceae
3
Phân họ (subfamilia): Faboideae
Tông (tribus): Aeschynomeneae
Chi (genus): Arachis
Loài (species): A. hypogaea
Lạc là cây thân thảo thuộc giống cây họ đậu có tên khoa học la Arachis
hypogaea xuất xứ từ Trung và Nam Mỹ, lạc là cây hai lá mầm có hệ rễ cọc , thân
được chia ra làm nhiều đốt , lá và hoa của lạc được mọc ra ở những mắt của đốt ,
lạc có cấu tạo lá kép và gân lá lạc lạc theo hình lông chim kích thước lá chét dài 1-7
cm và rộng 1-3 cm. Hoa dạng hoa đậu điển hình màu vàng có điểm gân đỏ, cuống
hoa dài 2-4 cm. Sau khi thụ phấn, quả phát triển thành một dạng quả đậu dài 3-7
cm . Lạc ra hoa ở trên mặt đất ( hoa lạc là hoa lưỡng tính , có nhụy và nhị trong 1
bông) nhưng sau khi thụ phấn thì hợp tử tạo thành lại phát triển trong lòng đất
( thường gọi là củ lạc ) . Củ lạc thì có cấu tạo bao gồm có 3 lớp đó là 1 lớp vỏ cứng
bên ngoài có bản chất là xellulose , một lớp mang mỏng bên trong bao quanh hạt
lạc ( ánh lạc) có màu hồng nhạt , và cuối cùng là nhân lạc , có cấu tạo chia ra làm 2
manh , khi trồng lạc và cây thì 2 manh này chính là nơi mà dự trữ và cung cấp chất
dinh dưỡng ban đầu cho cây lạc , khi cây non này mầm và phát triển , thì 2 mảnh
này phat triển thành 2 lá cứng , sau đó thì bị teo đi trong quá trình phát triển của

cây , và phần đây của nhân lạc có 1 đỉnh nhỏ đó chính là phôi nó sẽ phát triển
thành cây lạc.

Cây lạc có một đặc điểm cấu tạo rất nổi bật ở rễ ( và đặc điểm này phổ biến
trong các cây thuộc bộ đậu) đó là khả năng công sinh của rễ cây lạc với một nhóm
vi khuẩn cố định đạm có tên khoa học là Rhizobium vigna ( hay còn gọi là vi khuản
nốt sần) nó cộng sinh và phát triển trong rễ cây lạc và tạo nên những nốt sần trên rễ
4
cây lạc , và khi dùng dao cắt những nốt sần này ra thì ta thấy màu hồng nhạt bên
trong nốt sần đang hoạt động.
Ban đầu khi cây lạc mới mọc thì lúc đó nốt sần chưa được hình thành , nốt sần
được hình thành trong quá trình bộ rễ của cây lạc phát triển và Rhizobium xâm
nhập vào rễ thông qua những nhu mô nơi chóp rễ hoặc là những nhu mô hình thành
ở lông hút của rễ hay là những tế bào biểu bì bị thương… ( vì đó là nơi tập trung
nhiều chất dinh dưỡng và những đường đơn cần thiết cho các hoạt động khởi đầu
của chúng như sinh trưởng và sinh sản và sau là quá trình cố định đạm) . Như vậy
khi cộng sinh với cây bộ đậu thì chi vi khuẩn Rhizobium nhận năng lượng ATP và
các chất khử NADH
2
từ cây họ đậu và khử N
2
thành dạng NH
3
hoặc dạng N hữu
cơ cung cấp cho cây sử dụng , nhưng lúc nó mới xâm nhiễm vào rễ thì nó cũng cần
một lượng N cần thiết cho quá trình sinh trưởng ,phát triển tổng hợp các yếu tố cần
thiết cho quá trình khử N
2
như enzim và các yếu tố khác…Nếu trong qua trình này
mà không cung câp đủ đạm cho cây thì sẽ xảy ra hiện tượng thiếu đạm và cây kém

phát triển hoặc chết héo.
Vi khuẩn nốt sần
5
Quá trình xâm nhập của Rhizobium
- Khi cây chết Rhizobium lại di chuyển ra đất và lúc này chúng sinh sản chậm hoặc
sống dạng tiềm sinh ( theo kiểu kết bào xác và khi gặp điểu kiện thuận lợi chúng
lại phát triển
Quá trình cố định N
2
:
- Sự hình thành nốt sần và quan hệ cộng sinh của vi khuẩn nốt sần với cây bộ Đậu.
Quan hệ cộng sinh giữa vi khuẩn nốt sần và cây bộ Đậu tạo thành một thể sinh lý
hoàn chỉnh. Chỉ trong quan hệ cộng sinh này, chúng mới có khả năng sử dụng nitơ
của không khí. Khi tách ra, cả cây đậu và vi khuẩn đều không thể sử dụng nitơ tự
do, không phải tất cả các cây thuộc bộ Đậu đều có khả năng cộng sinh với vi khuẩn
nốt sần mà chỉ khoảng 9% trong chúng.
- Khả năng hình thành nốt sần ở cây đậu không những phụ thuộc vào vi khuẩn có
trong đất mà còn phụ thuộc vào các điều kiện ngoại cảnh khác nhau. Về độ ẩm 40
– 80%, trong đó độ ẩm tối thích là 60 – 70 %. Tuy nhiên, cũng có những trường
hợp ngoại lệ, ví dụ như cây điền thành có thể hình thành nốt sần trong điều kiện
ngập nước.
6
- Độ thoáng khí của đất cũng ảnh hưởng đến sự hình thành và chất lượng nốt sần.
Thông thường, nốt sần chỉ hình thành ở phần rễ nông, phần rễ sâu rất ít nốt sần.
Nguyên nhân là do tính hiếu khí của vi khuẩn nốt sần, thiếu oxy sẽ làm giảm
cường độ trao đổi năng lượng và khả năng xâm nhập vào rễ cây. Đối với cây, thiếu
oxy cũng làm giảm sự hình thành sắc tố leghemoglobin. Những nốt sần hữu hiệu
có màu hồng chính là màu của sắc tố này.
- Nhiệt độ thích hợp nhất với hoạt động của vi khuẩn nốt sần là 24oC, dưới 10oC nốt
sần vẫn có thể hình thành nhưng hiệu quả cố định nitơ giảm. Ở nhiệt độ 36oC cây

đậu phát triển tốt nhưng cường độ cố định nitơ lại kém.
- pH môi trường cũng ảnh hưởng đến sự hình thành và chất lượng nốt sần. Có loại
chỉ hình thành nốt sần ở pH = 6.8 – 7.4 có loại có khả năng hình thành nốt sần ở
pH rộng hơn 4.6 – 7.5.
- Tính đặc hiệu là một đặc điểm quan trọng trong quan hệ cộng sinh với một hoặc
vài loài vi khuẩn nốt sần chỉ có khả năng cộng sinh với một hoặc vài loài đậu.
Cũng có một số loại vi khuẩn có khả năng hình thành nốt sần ở cây đậu không đặc
hiệu với nó nhưng số lượng nốt sần ít và có khả năng cố định nitơ kém. Tuy nhiên,
đặc tính này giúp cho vi khuẩn nốt sần có thể tồn tại ở những nơi không có cây đậu
đặc hiệu đối với nó. Tính đặc hiệu giữa vi khuẩn và cây đậu được quyết định bởi hệ
gen của chúng. Bởi vậy, người ta có thể cải biến tính đặc hiệu bằng các tác nhân
đột biến hoặc có thể dùng kỹ thuật di truyền để cải biến hệ gen quy định tính đặc
hiệu cộng sinh.
- Quá trình hình thành nốt sần được bắt đầu từ sự xâm nhập của vi khuẩn vào rễ cây.
Vi khuẩn thường xâm nhập vào rễ cây qua các lông hút hoặc vết thương ở vỏ rễ
cây. Cây đậu thường tiết ra những chất kích thích sinh trưởng của vi khuẩn nốt sần
tương ứng, đó là các hợp chất cacbonhydratm các acid amin… Muốn xâm nhiễm
tốt, mật độ của vi khuẩn trong vùng rễ phải đạt tới 104 tế bào trong 1 gam đất. Nếu
xử lý với hạt đậu thì mỗi hạt đậu loại nhỏ cần 500 – 1000 tế bào vi khuẩn, hạt đậu
loại to cần khoảng 70.000 tế bào.
7
- Khi mật độ vi khuẩn phát triển tới một mức độ nhất định nó sẽ kích thích cây đậu
tiết ra enzyme poligalactorunaza có tác dụng phân giải thành lông hút để vi khuẩn
qua đó xâm nhập vào. Đường vi khuẩn xâm nhập được tạo thành do tốc độ phát
triển của vi khuẩn (sinh trưởng đến đâu, xâm nhập đến đấy) hình thành một “dãy
xâm nhập” được bao quanh bởi một lớp nhầy do các chất của vi khuẩn tiết ra trong
quá trình phát triển. Ở giai đoạn này, phản ứng của cây đối với vi khuẩn tương tự
như đối với vật ký sinh. Bởi vậy tốc độ tiến sâu vào nhu mô của dãy xâm nhập rất
chậm do phát triển của cây (chỉ khoảng 5 – 8 µm/h). Không phải tất cả các dãy
xâm nhập đều tiến tới nhu mô rễ mà chỉ một số trong chúng. Chính vì thế để hình

thành nốt sần cần mật độ vi khuẩn lớn.
- Khi tới lớp nhu mô, vi khuẩn kích thích tế bào nhu mô phát triển thành vùng mô
phân sinh. Từ vùng mô phân sinh, tế bào phân chia rất mạnh và hình thành 3 loại tế
bào chuyên hóa: Vỏ nốt sần là lớp tế bào nằm dưới lớp vỏ rễ bao bọc quanh nốt
sần. Mô chứa vi khuẩn gồm những tế bào không chứa vi khuẩn xen kẽ với các tế
bào không nhiễm vi khuẩn. Những tế bào chứa vi khuẩn có kích thước lớn hơn tế
bào không chứa vi khuẩn tới 8 lần, có những mô chứa vi khuẩn toàn bộ các tế bào
đều bị nhiễm vi khuẩn. Loại tế bào chuyên hóa thứ 3 là các mạch dẫn từ hệ rễ vào
nốt sần. Đây chính là con đường dẫn truyền các sản phẩm của quá trình cố định
nitơ cho cây và các sản phẩm quang hợp của cây cho nốt sần .
- Tại các tế bào chứa vi khuẩn, vi khuẩn nốt sần xâm nhập vào tế bào chất và tại đây
chúng phân cắt rất nhanh. Từ dạng hình que sẽ chuyển sang dạng hình que phân
nhánh gọi là dạng giả khuẩn thể (bacteriovide). Chính ở dạng giả khuẩn thể này, vi
khuẩn bắt đầu tiền hành quá trình cố định nitơ. Thời kỳ cây ra hoa là thời kỳ nốt
sần hình thành nhiều nhất và có hiệu quả cố định nitơ mạnh nhất. Hiệu quả cố định
nitơ thường thể hiển ở những nốt sần có kích thước lớn và có màu hồng của
leghemoglobin. Ở những cây đậu có đời sống ngắn từ 1 năm trở xuống, đến giai
đoạn cuối cùng của thời kỳ phát triển, màu hồng của sắc tố leghemoglobin chuyển
8
thành màu lục. Lúc đó kết thúc quá trình cố định nitơ, dạng giả khuẩn thể phân cắt
thành những tế bào hình cầu. Khi cây đậu chết, vi khuẩn nốt sần sống tiềm sinh
trong đất chờ đến vụ đậu năm sau. Tuy nhiên, có một vài cây họ Đậu như cây điền
thành hạt tròn không thấy xuất hiện dạng giả khuẩn .
- Ở những cây đậu 1 năm và những cây đậu lâu năm (thân gỗ) cũng có sự khác nhau
về tính chất nốt sần. Ở cây lạc, cây đậu tương, nốt sần hữu hiệu (có khả năng cố
định nitơ) thường có màu hồng, kích thước lớn, thường nằm trên rễ chính trong khi
nốt sần vô hiệu có màu lục, kích thước nhỏ, thường nằm trên rễ phụ. Tuy nhiên ở
một số cây đậu lâu năm lại không theo quy luật đó. Ví dụ như cây keo tai tượng
dùng để trồng rừng, nốt sần hữu hiệu có cả ở rễ phụ và không có màu hồng.
1.3 Điều kiện sinh trưởng của cây lạc

- Vì lý do cây lạc là một loại cây vùng nhiệt đới nên nhiệt độ thích hợp cho lạc là
khoảng từ 22-26
o
C và tổng tích ôn / năm là khoảng 9700
o
C . Lạc thích hợp với các
loại đất có thành phần cơ giới nhẹ , và có pH từ 5,5 -7 , nhằm mục đích tạo điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển của vi khuẩn nốt sần , và đất có và đất phải tơi xốp
và thoát nước tốt nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của tia củ
sau khi lạc ra hoa
* Điều kiện đất đai
- Lạc không yêu cầu khắt khe về độ phì của đất. Do đặc điểm sinh lý của lạc, đất
trồng lạc phải đảm bảo cao ráo, thoát nước nhanh khi có mưa to. Thành phần cơ
giới của đất trồng lạc tốt nhất là loại đất thịt nhẹ, cát pha, để đất luôn tơi, xốp và có
độ pH từ 5,5-7 nhằm thoả mãn 4 yêu cầu của cây lạc:
o Rễ phát triển mạnh cả về chiều sâu và chiều ngang.
o Đủ ôxy cho vi sinh vật nốt sần hoạt động cố định đạm.
o Tia quả đâm xuống đất dễ dàng.
- Dễ thu hoạch
* Nhiệt độ
- Nhiệt độ là yếu tố ngoại cảnh chủ yếu có ảnh hưởng đến thời gian sinh trưởng của
lạc. Nhiệt độ trung bình thích hợp cho suốt đời sống cây lạc là khoảng 25-30
0
C và
thay đổi theo giai đoạn sinh trưởng của cây. Nhiệt độ trung bình thích hợp cho thời
9
kỳ nảy mầm 25-30
0
C, thời kỳ sinh trưởng dinh dưỡng 20-30
0

C, thời kỳ ra hoa 24-
33
0
C, thời kỳ chín 25-28
0
C. Tích ôn hữu hiệu của lạc 2.600-4.800
0
C thay đổi tuỳ
theo giống.
* Độ ẩm, lượng mưa
- Nước là yếu tố ngoại cảnh có ảnh hưởng lớn nhất đến năng suất lạc. Tuy lạc được
coi là cây trồng chịu hạn, song thực ra lạc chỉ chịu hạn ở một giai đoạn nhất định.
Độ ẩm đất trong suốt thời gian sinh trưởng của lạc yêu cầu khoảng 70-80% độ ẩm
giới hạn đồng ruộng. Yêu cầu này có cao hơn một chút ở thời kỳ ra hoa, kết quả
(80 - 85%) và giảm ở thời kỳ chín của hạt.
- Tổng nhu cầu về nước trong suốt thời gian sinh trưởng của cây lạc từ khi mọc đến
thu hoạch (không kể thời kỳ nảy mầm) là 450 - 700mm.
* Ánh sáng
- Lạc là cây ngắn ngày song phản ứng với quang chu kỳ của lạc là rất yếu và đối với
nhiều trường hợp là phản ứng trung tính với quang chu kỳ. Số giờ nắng/ngày có
ảnh hưởng rõ rệt tới sự sinh trưởng và phát dục của lạc. Quá trình nở hoa thuận lợi
khi số giờ nắng đạt khoảng 200 giờ/tháng.
2. Kỹ thuật trồng và chăm sóc cây lạc
2.1.Chọn giống
- Tiêu chuẩn hạt giống: Không lẫn, sạch sâu bệnh. Chọn hạt giống to, mẩy, vỏ hạt
sáng, không sây sát, tỷ lệ nảy mầm trên 90%. Hạt giống khi đem trồng phải bảo
đảm cho hạt to đều
2.2. Thời vụ gieo lạc
- Vụ Xuân: Thời gian gieo từ 20/1-25/2 hàng năm, tập trung chủ yếu từ 01-15/2.
Riêng khu vực trung du và miền núi gieo sớm hơn 7-10 ngày.

- Vụ Hè - thu: Gieo tốt nhất từ 1/6-15/6 và gieo ngay sau khi thu hoạch cây trồng vụ
Xuân càng sớm càng tốt.
- Vụ Thu - đông: Thời gian gieo từ 25/8-25/9
10
2.3.Làm đất trồng lạc
Đối với đất núi:
* Cày và xới cho tơi xốp đất, tùy điều kiện đất đai và mùa vụ mà lên líp cao hay
thấp.
* Chiều ngang líp từ 1,2 – 1,5m; chiều cao líp từ 0,3 – 0,5m.
Đối với đất đồng bằng:
* Có thể trồng không lên líp, cứ 5-10 m đào một rãnh nhằm thoát nước tốt.
- Đất được cày 2-3 lần và sâu 25-30cm, cứ mỗi lần cày là 3 lượt bừa.Đất phải nhỏ,
tơi, xốp và sạch cỏ dại
- Lên luống rộng 1,0 - 1,5 m, luống cao 25 - 30 cm, trên đất bãi thoát nước có thể
trồng theo băng, mỗi băng rộng 5-6 m rạch hàng theo chiều dọc hoặc chiều ngang
luống.
- Luống lạc:
* Không phủ nilon: Rãnh sâu 15-20cm, luống rộng 2-2,5m.
* Nếu che phủ nilon: Luống rộng 1m , rãnh giữa hai luống rộng 20cm, luống có
hình lưng rùa, mỗi luống rạch 4 hàng
- Riêng đối với đất dốc lên luống theo đường đồng mức để chống xói mòn và rửa
trôi
2.4. Xử lý giống và mật độ gieo.
Xử lý giống trước khi gieo.
- Không nên bóc vỏ ra trước, chỉ bóc ra ngay khi gieo hạt. Chọn giống có tỷ lệ nảy
mầm lớn hơn 90%.
- Lượng giống tính trên 1 ha: 220 – 250 kg quả hạt khô (ẩm độ 8-9 %) .
- Xử lý hạt giống: 2 cách
* Gieo hạt đã ngâm ủ: Ngâm hạt giống trong nước 3- 4 giờ ở nhiệt độ bình
thường. Đem ủ 10 -12 giờ. Khi rễ mầm nhú ra khỏi vỏ lụa có thể trồng và đặt rễ

mầm hướng xuống đất. Xử lý hạt nảy mầm trước khi gieo bằng BAM 5H hoặc
Basudin 10H (0,5-1,0 kg/ha) + Rovral.
11
* Gieo trực tiếp: Trước khi gieo, hạt giống được vẩy ướt cho đều, sau đó đem
trộn hạt giống với các loại thuốc trên.
- Đất gieo lạc ẩm:
Chọn hạt lạc không quá già, không quá non, không bị sâu bệnh ngâm trong
nước từ 10-12 giờ. ở vụ Xuân nếu trời rét thì dùng nước ấm 40-45
OC
(2 sôi +3 lạnh)
ngâm trong 12 giờ, sau đó ủ cho nứt mầm rồi đem gieo, không để mầm nhú dài.
Đối với đất gieo lạc khô thì không xử lý.
- Mật độ gieo: Mật độ 33 cây/m
2
, 30cm x 10cm x 1hạt (hàng cách hàng 30cm, cây
cách cây 10cm, gieo 1hạt/lỗ) hoặc 30cm x 20cm x 2 hạt; ứng với lượng giống 200
kg lạc vỏ/ha đối với dùng lạc vụ Xuân để giống và từ 150-160kg/ha đối với lạc vụ
Hè thu để giống.
2.5. Cách trồng:
Với đất không che phủ nilon:
Cách trồng: 2 cách
* Trồng theo lỗ: Trồng 4-5 lỗ trên hàng ngang, 2-3 hạt lỗ. Khoảng cách giữa các
lỗ 20-25cm, hàng cách hàng 25–30 cm.
* Trồng rạch hàng: Trên hàng kẻ rãnh, trồng theo rãnh 10 cm/hạt, khoảng cách
giữa 2 rãnh 20–25 cm.
Đất có che phủ nilon
Tác dụng của lớp phủ nilon
12
- Phủ nilon cho lạc vụ thu đông vừa giữ được ẩm độ, nhiệt độ, hạn chế cỏ dại, hạn
chế chuột hại và làm tăng năng suất lạc từ 15 – 30%.

- Sau khi bón lót xong dùng thuốc trừ cỏ Ronsta phun ướt đều trên ruộng, dùng cuốc
gạt nhẹ đất ở 2 mép luống về phía rãnh, phủ nilon phẳng và kín đều trên mặt luống,
vét đất ở rãnh áp nhẹ vào 2 bên mép luống để cố định nilon. Dùng dụng cụ đục lỗ
(ống bơ sữa bò được cắt hình răng cưa) đục các lỗ theo khoảng cách ở trên. Hạt
được gieo trực tiếp vào các lỗ ở độ sâu 3 – 4cm.
- Bước 1: Sau khi lên luống, rạch hàng sâu 8-10cm.
- Bước 2: Bón toàn bộ phân chuồng và phân vô cơ vào rãnh đã rạch, sau đó lấp phân
để lại độ sâu 3-4cm.
- Bước 3: Dùng thuốc diệt cỏ phun lên mặt luống.
- Bước 4: Dùng cuốc gạt nhẹ đất 2 bên mép luống đã lên sẵn về phía rãnh.
- Bước 5: Phủ nilon trên mặt luống sau đó vét đất ở rãnh ập nhẹ vào 2 bên mép
luống để cố định nilon.
- Bước 6: Sau khi phủ nilon dùng dụng cụ đục lỗ theo kích thước như trên.
- Bước 7: Hạt giống được gieo vào lỗ đã đục sẵn, mỗi lỗ 2 hạt sâu 3-4cm
2.6. Cách chăm sóc
13
Bón phân cho lạc
- Lượng phân bón
+ Liều lượng phân bón tính cho 1 ha lạc là: 8-10 tấn phân chuồng + 20-30kgN +
60-90kgP
2
0
5
+ 30-60K
2
0.
+ Khi dùng phân đơn thì bón với lượng: 2,5 - 3,0 kg urê + 20 – 25 kg supe lân +
3 - 4 kg kali clorua/sào.
+ Đối với cây lạc tốt nhất là dùng dùng phân hỗn hợp NPK loại 3:9:6 bón với
lượng : 35- 50kg/sào .

Tuỳ theo độ pH của từng loại đất để bón từ 20-30 kg vôi bột/sào.
- Phương pháp bón
- Đối với lạc có che phủ nilon: Bón lót toàn bộ lượng phân bón. Riêng vôi bột để
lại 50% bón khi ra hoa rộ.
- Đối với lạc không che phủ nilon:
+ Vôi bột: Bón lót 50% khi cày bừa lần cuối, 50% còn lại bón lúc lạc ra hoa rộ
+ Phân chuồng: Bón lót 100% sau khi cày bừa làm đất, sạch cỏ dại (trước khi
rạch hàng).
+ Phân NPK: Bón lót 70% sau khi cày rạch hàng và được lấp kín đất rồi mới
gieo. Bón thúc 30% lượng phân còn lại khi cây có 3-5 lá.
14
Tỉa dặm, xới xáo, làm cỏ
- Khi lạc có 2 lá thật nên tỉa dặm để đảm bảo mật độ.
- Khi lạc có 3-5 lá thật: Nhổ cỏ, xới xáo đất, kết hợp bón thúc.
- Khi lạc có 9 lá thật, lạc bắt đầu ra hoa thì cuốc cỏ xới sâu 5-6cm gần gốc.
- Khi lạc ra hoa rộ, bón 50% vôi còn lại và kết hợp vun gốc cho lạc.
Tưới nước
Trong thời kỳ lạc ra hoa nếu trời không mưa thì những nơi có điều kiện tưới
nước có thể tiến hành tưới theo 2 cách sau:
+ Tưới phun đều ruộng lạc, ướt thấm đất.
+ Tháo nước đầy các rãnh, ngập hết mặt luống thì tháo nước ra.
Phòng trừ sâu bệnh
Sâu hại
a. Sâu xám:
- Triệu chứng gây hại: Là đối tượng gây hại chính ở thời kỳ cây con, sâu thường
cắn trụi lá đến cắn đứt ngang cây lạc lúc vừa mới mọc làm đứt khoảng, giảm mật
độ lạc trên ruộng.
- Biện pháp phòng trừ:
+ Bắt bằng thủ công.
+ Dùng các loại thuốc hoá học như Match 50ND, Sherpa 25 EC …theo liều

khuyến cáo.
b. Sâu khoang:
15
- Triệu chứng gây hại: Phát sinh gây hại trong suốt qúa trình sinh trưởng của lạc,
ở thời kỳ đầu vụ mật độ sâu cao, cắn khuyết đến trụi lá làm ảnh hưởng đến sinh
trưởng của lạc, sâu hại nặng ở giai đoạn lạc ra hoa bói trở đi, cắn trụi lá.
- Biện pháp phòng trừ:
+ Luân canh cây trồng và vệ sinh đồng ruộng.
+ Dùng bả chua ngọt để diệt trừ.
+ Bắt diệt bằng thủ công khi mật độ thấp.
+ Khi mật độ cao dùng thuốc Ofatox 40EC, Fastac theo liều khuyến cáo.
c. Rệp hại lạc:
16
- Triệu chứng gây hại: Rệp tập trung thành đám bám vào phần lá non, đọt non
của lạc chích hút dịch cây làm lạc sinh trưởng kém, quăn queo, ra hoa đâm tia kém.
Rệp phát sinh nhiều trong điều kiện thời tiết có mưa phùn, ruộng lạc ẩm ướt, rậm
rạp.
- Biện pháp phòng trừ:
+ Vệ sinh đồng ruộng và bón phân cân đối.
+ Dùng thiên địch để diệt trừ.
+ Khi rệp phát triển nhiều thì dùng Ofatox 50EC, Trebon 10EC theo liều
khuyến cáo để diệt rệp.
d. Sâu cuốn lá:
17
- Triệu chứng gây hại: Sâu cuốn lá lạc gặm ăn hết biểu bì để lại lá non màu
trắng, nếu mật độ cao làm ảnh hưởng đáng kể đến năng suất lạc.
- Biện pháp phòng trừ
+ Tổ chức bắt bằng thủ công.
+ Sử dụng thuốc hoá học như: Match 50ND, Sherpa 25 EC Theo liều khuyến
cáo.

Biện pháp phòng trừ tổng hợp đối với sâu hại lạc
- Trồng lạc đúng quy trình kỹ thuật tạo điều kiện cho lạc sinh trưởng, phát triển
tốt.
- Thường xuyên kiểm tra đồng ruộng, chú ý ngay từ lúc mới gieo, phát hiện kịp
thời sâu xám, sâu khoang… nếu có mật độ cao nên tổ chức bắt sâu vào sáng sớm
hoặc chiều tối là biện pháp quan trọng và cho hiệu quả cao.
- Xử lý bằng thuốc Basudin 10H.
- Thời kỳ lạc ra hoa bói trở đi nếu có mật độ sâu khoang, sâu xanh, cuốn lá cao
(sâu tuổi lớn) nên tổ chức bắt sâu bằng thủ công vì dùng thuốc ít hiệu quả. Trong
trường hợp dùng thuốc thì phải xử lý lúc sâu mới nở tuổi 1-3.
18
Bệnh hại lạc
a. Bệnh héo xanh vi khuẩn:
- Nguyên nhân gây bệnh: Do vi khuẩn Pseudomonas Solanacerum.
- Triệu chứng: Bệnh thường xuất hiện khi lạc có 5-6 lá đến lúc hình thành củ.
Lạc chết héo đột ngột cả cây hay một số cành trên cây, nhưng lá vẫn xanh. Chẻ dọc
rễ cây bị bệnh có màu nâu đậm hơi khô, khi bị nặng thân rũ xuống, rễ thối đen. Khi
cắt một đoạn thân cây bị bệnh nhúng vào cốc nước trong ta sẽ thấy dịch nhầy chảy
ra ở vết cắt.
- Biện pháp phòng trừ:
+ Vệ sinh đồng ruộng, nhổ và tiêu huỷ cây bị bệnh.
+ Luân canh với các cây trồng như mía, bông
+ Dùng giống kháng bệnh.
+ Tăng cường bón phân chuồng và vôi bột.
b. Bệnh lở cổ rễ
19
- Nguyên nhân: Do nấm Rhizoctoniak gây hại.
- Triệu chứng: Bệnh gây hại chủ yếu ở thời kỳ cây con, khi mưa nhiều, độ ẩm
cao. Bệnh gây hại ở phần cổ rễ, rễ, gốc thân nơi tiếp giáp với mặt đất bị thâm đen,
cây héo dần và bị chết.

- Biện pháp phòng trừ:
+ Xử lý đất bằng vôi bột.
+ Luân canh sau 2 vụ mới trồng lạc trở lại đối với đất trồng lạc bị nhiễm bệnh
nặng.
+ Khi bị nặng dùng thuốc Rovral 50WP, Ridomil…theo liều khuyến cáo
c. Bệnh hạt lép
- Nguyên nhân
Xảy ra do quá trình chăm sóc và bón phân không cân đối ( theo các nhà khoa
học ngành đất Viện Thổ nhưỡng Nông hóa đã chỉ ra rằng: Với năng suất trung
bình, mỗi ha thu hoạch từ 1,5-2 tấn lạc vỏ thì nên bón 20-30 kg N, 60-90 kg P2O5
và 30-60 kg K2O. Nếu bón nhiều đạm thì cây chỉ tăng sinh khối chất xanh (thân,
lá), trong khi làm giảm năng suất. Tỷ lệ N: P2O5 thích hợp có thể thay đổi từ 1:2
20
đến 1:3, nghĩa là cứ bón 1 kg N thì phải bón 2-3 kg P2O5 tùy loại đất. Tỷ lệ N:
K2O có thể giữ ở mức 1:2 (30 kg N và 60 kg K2O).
Can xi cũng là một trong những nguyên tố quyết định năng suất mà cây lạc cần
nhiều cho việc hình thành vỏ quả (củ), hạt (nhân). Dân gian có câu “Không lân,
không vôi thì thôi trồng lạc”. Bón vôi là để cung cấp can xi nhằm làm giảm độ
chua của đất, cải tạo đất, tạo môi trường thuận lợi cho vi khuẩn Rhizobium hoạt
động giúp cho cây sinh trưởng, phát triển tốt, tổng hợp được nhiều khí ni tơ từ khí
trời thông qua các nốt sần trên hệ rễ, tăng cường lượng đạm cho cây. Ngoài ra,
thiếu các nguyên tố vi lượng cộng với tác động thời tiết, sâu bệnh là những nguyên
nhân góp phần làm nên hiện tượng lạc lép hoặc lạc không nhân nói trên.)
- Vì đây không phải là bệnh của lạc nó chỉ xảy ra do cách chăm sóc không hợp lý nó
tương tự như hiện tượng lốp ở lúa do thừa đạm
- Biện pháp khắc phục
Để khắc phục hiện tượng trên, bạn và bà con nông dân cần chú ý làm tốt một số
điểm sau đây:
1. Ngay từ vụ này, nên cày vùi toàn bộ diện tích lạc không có nhân hoặc nhân bị
lép, kém chất lượng (kể cả trồng xen lẫn trồng thuần) kết hợp bón rải từ 400-500

kg vôi bột/ha để cải tạo đất.
2. Không nên trồng chuyên canh lạc nhiều vụ, nhiều năm liền trên một diện tích
mà nên trồng luân canh với các cây trồng khác như đậu tương, đậu xanh, lúa nước,
rau màu v.v… để vừa tận dụng được nguồn dinh dưỡng dư thừa của các cây trồng
từ vụ trước, vừa để cải tạo đất và cách ly sâu bệnh gây hại trên cây lạc rất tốt.
3. Căn cứ theo nhu cầu dinh dưỡng của cây lạc như đã nói ở trên mà bón phân
cho cân đối giữa các nguyên tố đạm, lân, kali; không bón dư thừa nhiều đạm. Hàng
năm bón bổ sung thêm vôi (400-500 kg/ha). Với đất vùng đồi bạc màu nên ưu tiên
sử dụng các loại phân lân nung chảy như lân Ninh Bình (có chứa thêm 10-15%
oxit ma nhê trong thành phần) hoặc phân Photphát manhê nung chảy, Kieserit
21
4. Sau khi lạc ra hoa, đâm tia làm quả có thể sử dụng thêm các loại phân bón lá
như Poly feet, MKP hoặc Nitrat can xi, phun 2-3 lần cách nhau 10-15 ngày, giúp
lạc đậu quả, làm nhân tốt.
5. Theo dõi để có biện pháp phòng trừ tốt các đối tượng sâu bệnh hại, đặc biệt là
các loại sâu ăn lá, hại hoa như ban miêu, sâu khoang, sâu xám, sâu xanh, v.v.
3. Thu hoạch
- Thu hoạch khi lạc có số củ già đạt 85-90% tổng số củ trên cây. Lạc sau khi nhổ bứt
củ hoặc cắt cách gốc 10cm để cả chùm củ phơi và bứt dần. Sau đó phơi quả dưới
nắng đến khi bóc hạt thấy tróc vỏ lụa (độ ẩm dưới 10%) là đủ tiêu chuẩn bảo quản.
- Lạc che phủ nilon chín sớm hơn lạc không che phủ nilon 7-10 ngày nên cần theo
dõi để thu hoạch đúng thời vụ, tránh để lạc mọc mầm biến màu trong củ.
- Đối với lạc giống phải phơi bằng các dụng cụ nong, nia… không phơi trực tiếp trên
sân gạch, xi măng, tôn dưới nắng to hoặc phơi củ lạc còn dính với cây trong bóng
râm
4. Hệ thống luân canh cây lạc và các cây lương thực và hoa màu khác
Lạc có thể trồng luân canh với nhiều loại cây trồng khác nhau lạc xuân - lúa mùa
- cây vụ đông hoặc lạc xuân - lạc hè thu - đỗ tương, củ cải - khoai tây đông.
Ở Nghệ An với tổng diện tích lạc gần 22.000 ha mỗi năm, các huyện Quỳnh
Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc, Nam Đàn, Thanh Chương, Đô Lương và Anh Sơn trở

thành "thủ phủ" của cây lạc. Cứ vào vụ lạc xuân hàng năm, chỉ cần đi dọc tuyến
QL1A, QL46, QL7 là có thể nhìn thấy những cánh đồng lạc bát ngát, thẳng cánh
cò bay. Do cây lạc mang lại lợi ích kinh tế lớn cho người dân nên các giống lạc địa
phương như lạc Sen, lạc Cúc năng suất thấp đã dần được thay thế bằng các loại
giống lạc mới có năng suất cao như L14, L18, MĐ7, L08, L24…
Năng suất lạc xuân ở Nghệ An đã được nâng cao dần, hiện gần chạm ngưỡng
bình quân 200kg/sào (4 tấn/ha). Cùng với việc đưa nhiều giống lạc mới và các tiến
bộ KHKT nông nghiệp vào các vùng thâm canh lạc như phủ nilon, sử dụng các loại
phân bón, thuốc BVTV phù hợp, cho đến nay nhiều mô hình trình diễn SX lạc tại
22
Nghệ An đã đạt trên 5 tấn/ha… đang góp phần đáng kể vào việc nâng cao thu nhập
cho nông dân.
Tại xã Nghi Thịnh, hiện bà con đã làm gần 350 ha lạc L14, năng suất bình quân
năm nào cũng đều đạt từ 50 đến 54 tạ/ha. Tính ra mỗi ha, với giá lạc tại địa phương
là 18.000 đến 20.000 đồng/kg thì mỗi năm người dân ở đây chỉ thu nhập được từ
80 đến 90 triệu đồng/ha. Muốn nâng cao thu nhập, để có thể làm giàu ngay trên
diện tích đất chuyên canh lạc của mình bà con luôn phải luân canh thêm bằng vừng
hè thu và lạc L14 vụ thu đông thì mới có thể đạt thu nhập khoảng 120 đến 130
triệu đồng/ha.
Có thể nói, nhờ áp dụng tiến bộ kỹ thuật mới và công thức luân canh: Lạc L14
vụ xuân + vừng hè thu + lạc L14 thu đông nên người dân ở đây đã từng bước thoát
nghèo. Công thức trên đã mang lại hiệu quả kinh tế cho người dân, giúp Nghi Lộc
từng bước chinh phục toàn bộ diện tích đất màu (3.500 ha) chuyển sang trồng lạc.
Cây lạc mới thực sự trở thành một trong những điều kiện quan trọng giúp người
dân vùng màu thuộc các xã ven biển của huyện Nghi Lộc vươn lên làm giàu và xây
dựng nông thôn mới.
5. Kết luận và Triển vọng phát triển của cây lạc
− Hiện tại cây lạc đã và đang trở thành một cây trồng giúp nhiều bà con nông dân cải
thiện được cuộc sống và từng bước vươn lên làm giàu , bởi năng xuất và hiệu quả
kinh tế mà nó đem lại , và nó cũng là loại cây dễ trồng , dễ chăm sóc ,không tốn

kém lại ít sâu bệnh… nên việc canh tác lạc tương đối dễ dàng cho bà con.
− Ngoài ra nó còn là một cây trồng có khả năng cải tạo đất bởi lẽ là khả năng cố định
N từ khí quyển và thân lá rễ lạc đều là loại phân xanh tương đối tốt cho đất .Củ lạc
có giá trị xuất khẩu cao.
− Bởi lẽ đó việc phát triển trong tương lại của cây lạc sẽ trở thành cây trồng đem lại
hiệu quả kinh tế và giúp nông dân xóa đói giảm nghèo

23
Quốc gia Sản lượng (tấn) Cước chú
Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa
13.090.000
Ấn Độ
6.600.000
Nigeria
3.835.600
Hoa Kỳ
1.696.728
Indonesia
1.475.000
Myanmar
1.000.000
Argentina
714.286
Việt Nam
490.000
Sudan
460.000
Chad
450.000

Thế giới
34.856.007
24

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×