Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Mỹ thuật nguyên thủy Việt Nam pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.44 KB, 15 trang )

Mỹ thuật nguyên thủy Việt Nam
Mở Đầu
Dân tộc Việt Nam chúng ta có truyền thống đấu tranh dựng nước và
giữ nước suốt mấy nghìn năm lịch sử. Trong suốt chiều dài lịch sử đó,
dân tộc ta không những chiến thắng hai cuộc chiến tranh trường kỳ ác
liệt, xây dựng một nước Việt nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, mà còn tạo nên một nền mỹ thuật phong phú,
đa dạng và đậm đà bản sắc dân tộc. Mặc dù mỗi lần đất nước bị xâm
lăng lại một lần nền văn hoá dân tộc bị thử thách, bị tàn phá, kẻ thù
luôn muốn đồng hoá nền văn hoá của chúng ta. Nhưng với tinh thần
đấu tranh anh dũng của dân tộc, cho nên đến nay nền văn hoá nghệ
thuật của chúng ta không những không bị đồng hoá mà bản sắc dân tộc
còn được khẳng định hơn. Chính vì thế ngày nay chúng ta giữ được
nhiều tác phẩm có giá trị kể các tác phẩm thời nguyên thuỷ.
Năm 1960, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã tìm thấy di tích núi Đo
thuộc xã Thiệu Khanh, Huyện Thiệu Hoá, Tỉnh Thanh Hoá. Hàng ngàn
khảo cổ được phát hiện. Mặc dù đó là Mảnh rước, Hạch Đá, các công
cụ chặt, nạo, rìu Được chế tác rất thô sơ và nghèo nàn về loại hình,
song nó đã chứng tỏ rõ sự có mặt làm ăn sinh sống của những người
nguyên thuỷ trải dài trên đất nước Việt Nam của chúng ta.Di chỉ núi Đo
được xếp tương đuơng với giai đoạn Sen và đầu Asơn thuộc do thời kỳ
đồ đá cũ, cách ngày nay khoảng 30 vạn năm. Mặc dù vậy phải trải qua
một thời gian dài chúng ta mới tìm được một số hình khắc những dấu
hiệu đầu tiên của mỹ thuật Việt Nam thời Nguyên Thuỷ. Trên cơ sở đó
đến cuối thời kỳ đồ đá mới, mỹ thuật đã phát triển hơn một bước nửa so
với thời kỳ trước, tuy vậy phải đến thời kỳ đồ đồng, chúng ta mới tìm
được nhiều tác phẩm mỹ thuật thuộc nhiều loại nghệ thuật tạo hình.
Những tác phẩm quý báu là nguồn tư liệu cho các thế hệ con cháu ngày
nay tìm hiểu và học tập vốn tinh hoa của nghệ thuật truyền thống ông
cha ta ngày xưa.
Quay về với thời kỳ xa xưa nhất của lịch sử mỹ thuật dân tộc, chúng ta


thử đi tìm hiểu về sử hình thành và phát triển của mỹ thuật Việt Nam,
những loại hình nghệ thuật tạo hình nào xuất hiện sớm nhất? Mỹ thuật
nguyên thuỷ Việt Nam có phong phú, đa dạng như nghệ thuật nguyên
thuỷ thế giới hay không? Trong xã hội thời nguyên thuỷ, trình độ mỹ
thuật phát triển ở mức độ nào? Mỹ thuật thời nguyên thuỷ có những
đặc điểm đặc trưng cơ bản nào?

Kỳ Đồ Đá Cũ
Di tích núi Đo – Thanh Hoá được xếp vào thời kỳ đồ đá cũ. Đây là nơi
cư trú của người việt cổ, đồng thời cũng là nơi chế tạo ra các công cụ
bằng đá thô sơ, đó là những mảnh tước, công cụ chặt, rìu tay, nạo
Thời kỳ này cách chúng ta mấy vạn năm và là thời kỳ tổ chức xã hội
đang hình thành. Trải qua quá trình phát triển, con người dần dần bước
vào chế độ thị tộc nguyên thuỷ. Để có thể tồn tại trong điều kiện khắc
nghiệt của thiên nhiên, con người phải tụ họp lại với nhau sống thành
những bầy người trong các hang động tự nhiên với công cụ thô sơ, họ
sống chủ yếu bằng săn bắn, hái lượm.
Đến thời kỳ đồ đá cũ, người Việt cổ đã cư trú trên một địa bàn khá
rộng. Các di tích khảo cổ học đã cho chúng ta thấy di tích của thời kỳ
này có ở nhiều nơi : Miền Bắc từ Phú Thọ, Sơn La, Lai Châu đến Bắc
Ninh, Bắc Giang. Miền Trung từ Thanh Hoá, Nghệ An đến Quảng Trị.
Thời kỳ này các bầy người Nguyên Thuỷ đã tập hợp lại với nhau, thành
các thị tộc, bộ lạc, mỗi thị tộc gồm vài ba thế hệ cùng huyết thống.
Nhiều thị tộc đã hợp lại thành một bộ tộc. Đến thời kỳ này kỹ thuật chế
tác đồ đá đã tiến thêm một bước. Nếu thời kỳ núi Đo người nguyên
thuỷ dùng đá ba gian để chế tạo công cụ, thì thời kỳ này con người lại
dùng các đá cuội tìm được ở các bãi sông. Những viên đá cuội được
ghẽ đẹo cẩn thận trở thành các công cụ lao động hiệu quả hơn so với
thời kỳ trước. Các di tích của các bộ lạc thời kỳ này được gọi là văn
hoá SơnVi. Văn hoá Sơn Vi thuộc xã Sơn Vi, Huyện Sông Thao, Tỉnh

Phú Thọ. Đây cũng là nơi đầu tiên phát triển ra những hiện vật của văn
hoá cuối thời kỳ đồ đá cũ. Văn hoá Sơn Vi cách ngày nay chừng một
vạn năm đến 18000 năm.
Ngày nay, nhờ sự hỗ trợ của khoa học kỹ thuật, với nhiều phương tiện,
thiết bị và điều kiện làm việc các nhà khảo cổ học đã phát hiện thêm
nhiều di tích văn hoá Sơn Vi: Năm 1993 tìm được di tích văn hoá ở
huyện Do Linh (Quảng Trị), năm 1994 phát hiện thêm di tích văn hoá
Sơn Vi ở đảo Cồn Cỏ. Những phát hiện mới này cho thấy rõ hơn về
lịch sử thời kỳ đầu tiên của dân tộc chúng ta.

Thời kỳ đồ đá giữa
Sau văn hoá Vi Sơn, Người Việt cổ bước vào thời kỳ đồ đá giữa, tương
đương với nền văn hoá Hoà Bình. Xã hội Nguyên Thuỷ chuyển sang
thời kỳ Hoà Bình đã tiến thêm một bước cao hơn. Ngoài cuộc sống săn
bắn, hái lượm, các cư dân văn hoá Hoà Bình đã bắt đầu làm nông
nghiệp. Những dấu vết về một nền nông nghiệp sơ khai được tìm thấy
ở nhiều nơi như: Hang Sủng Sàm – Hoà Bình (11.365 ± 80 năm cách
ngày nay, Hang Thẩm Khương – Lai Châu, hoặc hang Xóm Trại – Hoà
Bình
Đến thời kỳ văn hoá Hoà Bình , con người đẫ định cư lâu dài hơn so
với thời kỳ đồ đá cũ. Nếu ở núi Đo – Thanh Hoá không có kết cấu tầng
văn hoá, thì đến văn hoá Hoà Bình có tầng văn hoá dày tới 3,7 m. Năm
1930, Cô-La-Ni khai quật ở Quảng Bình, Ninh Bình cũng gặp di chỉ
văn hoá tương tự như ở Hoà Bình. Ngoài dấu vết của văn hoá Hoà
Bình, còn tìm thấy ở Hạ Long, Nghệ An. Con người thời kỳ này thường
làm lều, nhà cửa ở Hang gần sông suối. Bên cạnh các công cụ Lao
động bằng đá còn tìm được các công cụ, vũ khí bằng tre, nứa, xương,
sừng rất phong phú. Đồ trang sức bằng vỏ sò, ốc, xương thú. Điều này
cho thấy cuộc sống của các bộ lạc người Việt Cổ đã phát triển thêm
một bước. Cùng với săn bắn, hái lượm, con người đã biết trồng trọt.

Nền văn minh nông nghiệp bắt đầu được hình thành. Tín ngưỡng tôn
giáo bắt đầu xuất hiện với hình thức sơ khai nhất : tô tem giáo (thờ vật
cổ).

Thời kỳ đồ đá mới
Thời kỳ đố đá mới bắt đầu vào khoảng thiên niên kỷ VI trước công
nguyên. Địa bàn cư trú của người Việt cổ lan rộng trong cả nước, từ
miền núi tới miền biển và miền trung du, dân số ngày càng tăng. Sách
Lịch Sử – Nhà Xuất Bản Giáo Dục, xuất bản năm 1988 viết các bộ lạc
chủ nhân văn hoá Hoà Bình đã tạo nên văn hoá Bắc Sơn từ trong quá
trình tiến hoá của họ. Công cụ sản xuất thời kỳ văn hoá Bắc Sơn đã tiến
bộ hơn trước rất nhiều. Vẫn là
Những công cụ bằng đá cuội, song kỹ thuật chế tác không dừng lại ở
ghè, dẻo. Các cư dân thời kỳ này đã biết sử dụng kỹ thuật mài đá tạo ra
các lưỡi rìu, mài có tra cán. Với công cụ lao động mới, năng suất lao
động đã tăng lên rất nhiều. Chăn nuôi, trồng trọt phát triển mạnh. Thời
kỳ này được gọi là thời kỳ cách mạng đồ đá . Ngoài công cụ và đồ
dùng bằng đá, dân cư thời này đã biết chế tạo ra đồ gốm. Như vậy, có
thể nói cuộc sống sinh hoạt, làm ăn của cư dân thời kỳ đồ đá mới tiến
bộ hơn rất nhiều so với thời kỳ trước. Bên cạnh việc săn bán , hái lượm,
nhiều nghề mới xuất hiện như trồng trọt, chăn nuôi, đánh cá. Nghề
nông bắt đầu hình thành trong thời kỳ đồ đá giữa đến nay tiếp tục phát
triển và trở thành một trong những ngành chính. Cây trồng quan trọng
và chủ yếu chính là cây lúa. Đời sống vạt chất phát triển, kéo theo sự
phát triển cảu đời sống tinh thần. Đồ trang sức được chế táởctên nhiều
chất liệu phong phú như Đá, đất nung, vỏ trai, và nhiều thể loại khác
nhau như : vòng tay, vòng cổ, khuyên tai, Điều này chúng tor nghề thủ
công đã rất phát triển. Ngoài việc chế tạo công cụ lao động, công cụ gia
đình, đồ trang sức, đồ gốm, con người kỳ này còn biết dệt vải.
Trong các mộ cổ được khai quật và qua cách chôn người chết, chúng ta

có thể hiểu thêm nhữn quan niệm người việt cổ về cuộc sống sau khi
chết của con người. Trong ngôi mộ chúng ta đã tìm được nhiều xương
sọ và các xương khác được tô màu đỏ cùng các vật dụng, công cụ lao
động. Điều đó cho thấy trong tư duy của người Nguyên Thuỷ đã hình
thành quan niệm về một thế giới khác tồn tại chỉ khi con người từ giã
cuộc sống ở thế giới đó con người vẫn làm ăn sinh sống như thế giới
thực tại.
Thời kỳ đồ đá mới là giai đoạn cuối của thời kỳ Nguyên thuỷ. Tư duy
của con người ngày một phát triển phong phú hơn. Bàn tay ngày một
khéo léo hơn. Phân công lao động trong một bộ lạc ngày một rõ ràng,
cụ thể và chuyên môn hoá hơn. Đời sống ổn định lâu dài hơn. Tất cả
những điều đó là sự chuẩn bị cho việc ra đời một chế độ xã hội mới và
sự hoàn thành nhà nước ở giai đoạn sơ khai nhất.

Quá trình phát triển mỹ thuật nguyên thuỷ
Thời ky Nguyên thuỷ lẽ là thời kỳ dài nhất trong lịch sử phát triển của
xã hội loài người. Đồng thời cũng là thời kỳ sự phát triển chậm chạp
nhất. Mặc dù vậy cùng với sự nhích dần chậm chạp ấy, con người cũng
đã dần tiến tới một đời sống thẩm mỹ. Cùng với lao động, với cái có
ích, với cái đẹp cũng dần xuất hiện. Trải qua một thời gian lâu dài đến
thời kỳ đồ đá giữa, con người đã bắt đầu sáng tạo ra những hình khắc
đầu tiên, mở đầu cho một nền mỹ thuật phát triển sau này.
Mỹ thuật thời kỳ đồ đá giữa ( cách ngày nay khoảng một vạn năm )
năm 1926 nhà khảo cổ học người Pháp, Ma - Đô- Len – Cô La Ni, đã
đổ nhiều tâm sức nghiên cứu về nền văn hoá Hoà Bình, và đến năm
1932, Hội nghị Quốc tế đã công nhận những nghiên cứu khảo cổ học
của bà. Thuật ngữ văn hoá Hoà Bình chỉ chung cho cả vùng văn hoá
Đông Nam á, trong đó có Việt Nam với những di tích khảo cổ ở Hoà
Bình, Ninh Bình.
Trong lịch sử mỹ thuật thế giới đến cuối thời kỳ đồ đá cũ, đã xuất hiện

những dấu vết đầu tiên về nghệ thuật tạo hình ở Việt Nam, thời kỳ đồ
đá cũ của văn hoá Sơn Vi, tìm được chủ yếu là Hòn Nghè và các công
cụ chặt. Để chia các giai đoạn văn hoá các học giả cho rằng nếu chỉ dựa
vào hình thái công cụ là chưa đủ mà phải dựa vào cấu tạo địa tầng di
tích hoá của động thực vật ở tầng văn hoá. Văn hoá Hoà Bình được xếp
với thời kỳ đồ đá giữa và dần dần phát triển sang thời kỳ đồ đá mới.
Trong nhiều di tích thuộc nền văn hoá Hoà Bình chúng ta đã tìm được
những dấu hiệu mỹ thuật đầu tiên. Mặc dù đó chỉ là những hình khắc
đơn giản về nội dung và bằng trình độ tạo hình sơ khai, nhưng sự xuất
hiện của những hình khắc đã khẳng định được sự ra đời của nghệ thuật
tạo hình của người Việt cổ. Văn hoá Hoà Bình là một khâu phát triển
nằm trong truyền thống văn hoá nghệ thuật đá cuội nảy sinh ở Đông
Nam á và phát triển từ sơ kỳ đồ đá cũ đến thời đại đồ đá mới.
Thời kỳ này con người vẫn ở trong hang động nghệ thuật văn hoá Hoà
Bình cũng chính là nghệ thuật Hang Động. ở hang động Lan Gan ( Hoà
Bình), người ta tìm được mũi dùi làm từ xương thú. Hình sống các lá
mọc so le đan thành hình ngọn cây được khắc ở đầu nhọn của mũi dùi .
Mặc dù rất nhỏ, song hình lá được khắc rõ, chi tiết. Bốn trong sáu chiếc
lá còn lại còn khắc cả đường gân song song. Những hình khắc đó vừa
mang lại vẻ đẹp cho mũi dùi, lại còn có tác dụng về mặt kỹ thuật. hay
nói cách khác ở thời kỳ sơ khai của nghệ thuật tạo hình dân tộc, mỹ
thuật luôn chỉ dùng cái có ích, hình chạm với công cụ lao động một
cách hữu cơ và tạo nên một nền tổng thể.
Mặc dù vậy, phải đến các hình khắc trong hang động nơi thuộc xã
Đồng Tâm, huyện Lạc Thuỷ, tỉnh Hoà Bình, chúng ta mới chứng kiến
được hình vẽ, nhưng tác phẩm hoàn thiện và độc lập hơn, chúng tỏ sự
phát triển thêm một bước của mỹ thuật Nguyên thuỷ. Trên vách đá lớn
đi vào hang Đồng Nội có bốn hình khắc với nét sâu và to. Trong đó có
3 hình mặt người và một hình mặt thú. Mặt người ngoài
cùng, có lẽ do mưa nắng nên đến nay chỉ còn một nửa. Ba hình khắc

được xếp
thành một nhóm. Mặt to nhất với kích thước 31 cm.

các chi tiết mặt mũi miệng rõ ràng cân đối. Nét khắc dứt khoát, khoẻ,
khuôn mặt vuông vức, đôi mày đậm gợi cho người xem cảm giác đây là
chân dung người đàn ông. Hai mặt người hai bên có đặc điểm tạo hình
khác với hình ở giữa, Hình bóng (cao 13cm rộng 18cm) nét khắc mảnh
và mềm mại hơn. Nét cong của khuôn mặt được thể hiện rõ gợi khuôn
mặt nữ hơn, Nét cong của chi tiết của nét mặt mũi miệng, gần nhau.
Đặc biệt phía trên đầu của 3 hình khắc đều có hình gần giống chữ Y.
Hình này gợi nhớ đến hình sừng thú, có nhiều giả thuyết về hình này,
song tập trung gồm hai giả thuyết. Đây là một cách hoá trang để có thể
lại gần các con thú. Đồng thời cũgn có thể là một nghi lễ với một hình
thức thờ phụng gì đó củangười Việt coỏ. Nhóm thứ 2 là hình khắc mặt
thú có kích thước to nhất ( cao 57 cm, rộng 51cm) với đặc điểmmiệng
rộng, mắt tròn, cái mũi to và có sừng. Dưới miệng các nghệ nhân còn
khắc 2 rạch dọc, tạo được sự cân bằng cho bố cục.
Bốn hình khắc ở hang động Đồng Nội một mặt chửng tỏ tư duy hình
tượng và nghệ thuật của người Việt thời Nguyên thuỷ đã tiến thêm một
bước. Từ những hình đơn giản độc lập đã tiến thêm một bước có ý
thức. Mặt khác, trong các hình khắc đã bộclộ khả năng quan sát và tỷ lệ
thể hiện mặt người, thú tương đối cân đối và hoàn thiện. Ngoài ra còn
thể hiện tài năng khéo léo của bàn tay qua nét khắc khoáng đạt và
phong phú về độ sâu, độ to nhỏ, cứng cáp hoặc mềm mại. Chỉ bằng bón
hình khắc đơn giản nhưng gợi cảm người nghệ nhân Nguyên thuỷ đã
cho chúng ta ngày nay nhiều hiểu biết, suy đoán về con người và cuộc
sống Nguyên thuỷ xưa.
Mỹ thuật thời kỳ đồ đá (cách ngày nay khoảng 5000 năm) theo các nhà
khảo cổ học, thời kỳ đồ đá mới trên thế giới bắt đầu từ thiên niên kỷ VI
đến thiên niên kỷ III trước công nguyên (TCN) ở thời kỳ này nghệ

thuật tạo hình phát triển đa dạng, phong phú đề tài rộng sâu hơn. Trong
các tác phẩm chú ý đến tính đối xứng và nhịp điệu, sự lặp lại các yếu tố
hình tượng.
ở Việt Nam, thời kỳ đồ đá mới để lại dấu vết của nhiều nền văn hoá :
Văn hoá Bắc Sơn , văn hoá Quỳnh Lưu, Văn hoá bàu Tró, văn hoá Hạ
Long đến cuối thời kỳ đồ đá mới trên toàn bộ nước ta đã tụ cư nhiều
nhóm bộ lạc trồng lúa. Họ có kỹ thuật chế tạo đồ đá, đồ gốm tương tự
như nhau. trên cơ sở đó, nghệ thuật tạo hình cũng phát triển ở nhiều nơi
khác nhau từ miền núi đến miền biển, đồng bằng, dấu vết của văn hoá
Bắc Sơn tìm được ở nhiều nơi như Thái Nguyên, Lạng Sơn, Hoà Bình,
Thanh Hoá, Quảng Bình. Tuy vậy di tích nổi tiếng của văn háo Bắc
Sơn là hang Chàm Khách huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn.
ở thời kỳ này, người Nguyên thuỷ đã biết làm đồ gốm. Dấu vết về đồ
gốm tìm thấy ở nhiều nơi như ở Quỳnh Văn ( Quỳnh Lưu – Nghệ An),
Bàu Tró (Đồng Hới – Quảng Bình) hang Mai Pha (Lạng Sơn, hang
Ninh Cầm ( Quảng Bình), Cùng với sự phong phú về kiểu dáng là hệ
thống đa dạng các hoa văn trang trí trên đồ gốm như hoa văn khắc
vạch, dấu vặn thừng(Bàu Tró), hoa văn song song, ô quả trám, hình chữ
S (Hạ Long), hoa văn hoa thị bốn cánh (Mai Pha – Lạng Sơn) hoa văn
hình tròn nhỏ (Nghệ Tĩnh) hoa văn ô trám, gân lá, hoa văn hoa sáu cách
vặn thừng (Minh Cầm)
Cùng với ặ ngẫu nhiên người Nguyên thuỷ phát hiện ra đồ gốm, những
hoa văn đầu tiên cũng ngẫu nhiên xuất hiện. Bắt đầu là những dấu nan
đan, dấu vân tay còn lại trong quá trình nặn, làm đồ đựng nước dần dần
được thay đổi, phát triển thành một hệ thống hoa văn phong phú. Tất cả
đều được bắt nguồn từ hiện thực, từ những hình mẫu có sẵn trong tự
nhiên được đơn giản hay cách điệu hoá. Các hao văn này ngoài mục
đích trang trí cho đồ gốm, còn tạo sự tiện dụng như bưng đồ di
chuyển,
Một số đồ gốm được tìm thấy ở Minh Cầm, Bàu Tró còn được trang trí

bằng những băng màu đỏ rộng từ 10mm đến 25mm, hoặc những đường
song song. Ngoài ra còn tìm được những vỏ ốc, rùi đá được nhuộn màu
đỏ cùng với những miếng thổ hoàng đỏ, những mảnh đá, vỏ sò, vỏ
ngoà, dùng để nghiền màu, đựng màu. Những vỏ ốc, rùi đá tô màu đỏ
lằnhngx vật chèn theo người chết. Như vậy đên thời kỳ đồ đá mới
ngoài khẳ năng tạo hình và trang trí, người Nguyên thuỷ đã biết dùng
màu sắc, nhất lầmù đỏ thổ hoàng. Theo cô giáo sư Chu Quang Trứ, một
số nước một số dân toọc trên thế giới như người Mê – La – Niêng –
Diêng, người Tân - Đê lan dùng sả phẩm màu đỏ trong một số tục lệ
liều thị sức sống và sự tái sinh. Người Việt từ thời Nguyên thuỷ đến
nay vẫn sử dụng màu đỏ nhiều trong đám tang, có lẽ không nằm ngoài
mong muốn đó. Thế giớ tìm được rất nhiều hình vẽ chứng tỏ sự có mặt
của một nền hội hoạ, nhưng về nghệ thuật chạm khắc trên đất đá, ở mỹ
thuật Nguyên thuỷ Việt Nam lại thấy khá nhiều. Có tác phẩm thì đơn
giản như chạm trên viên cuội dài 10cm ở Đông Kỳ ( Thái Nguyên).
Trên viên cuội có hình khắc ở cả hai mặt. Mặt này là những hình họ,
chủ yếu là hình vuông, được sắp xếp như một mặt người theo kiểu kỷ
hà. Mặt kia là một chân dung người đã chỉ nét mắt, mũi, miệng được
tạo bởi những chấm chấm. Tuy sự thể hiện còn rất đơn giản, tỉ lệ chưa
chuẩn xác, nhưng hình chạm ở đây đã có biểu cảm. Một số tác phẩm
còn thể hiện ở tính trang trí và tượng trưng như tác phẩm bằng đất sét
vàng (10 x 4 x 0,7 cm ) tìm thấy ở Nghinh Tắc (Thái Nguyên).
Bố cục trên bề mặt tác phẩm được chia làm hai phần. Phía ngoài là 15
nhóm khắc vạch xếp xung quanh. Mỗi nhóm có 34 vạch khắc. Bên
trong được bố trí thành 8 đường song song. Mỗi đường được tạo nên
bởi những hình giống chữ kể liên tiếp. Nhìn vào tác phẩm này có thể
gợi cho chúng ta liên tưởng đến một khu vườn, một mảnh ruộng với
những hàng cây đều đặn và hàng rào xung quanh. Tuy vậy mọi sự áp
đặt so sánh đều không chính xác, đôi khi còn giảm giá trị nghệ thuật.
Nhưng vượt lên tất cả những điều đó, tác phẩm đã cho chúng ta thấy

một khẳ năng tạo hình, trang trí của người Việt Nguyên thuỷ . Cho dù
nó biểu hiện cái gì nhưng có một điều rõ ràng là ở đây có sự sắp xếp
các mảnh khắc vạch cân đối, thuận mắt thuận nhìn với ý thức bố cục cụ
thể, Điều này dễ nhận thấy khi ta quan sát tác phẩm.
Mỹ thuật Nguyên thuỷ Việt Nam tuy có những đột phá, nhưng so với
mỹ thuật Nguyên thuỷ thế giới chúng ta còn thua xa vì ở Việt Nam thời
kỳ này đỉnh cao là khắc mặt người, tỉ lệ chưa cân đối, nhưng mỹ thuật
Nguyên thuỷ thế giới đã tác đựơc tượng, tuy tỉ lệ còn ước lượng như
tượng "vệ nữ ViLen – Doóc'.
Họ đã biết cách vẽ những con vật gần gũi với cuộc sống của họ, hình
vẽ mang tính chất tả thực như hình "Đàn Hươi qua sông – Hang Mêri"
qua đó ta thấy so với nghệ thuật Nguyên thuỷ thế giới thì mỹ thuật
Nguyên thuỷ còn kém xa. Ngoài ra mỹ thuật Nguyên thuỷ thế giới về
chất liệu điêu khắc phong phú hơn. Họ có thể khắc trên xương, sừng,
ngà voi, hay đá mềm. Còn ở Việt Nam thời Nguyên thuỷ họ chỉ mới
biết khắc trên đá cuội, trên hang đá. Về nghệ thuật điêu khắc thì chưa ra
đời (thời kỳ Văn Lang Âu Lạc), An Dương Vương đứng đầu tồn tồn từ
thế kỷ thứ III TCN đến năm 179 TCN chúng ta mới thấy những hình
khắc trên trống đồng, tượng ở trên các vật dụng trong đời sống như :
tượng người thổi kèn trên cán môi.
(hình minh hoạ.)
đặc điểm của thời kỳ nguyên thuỷ việt nam
Những thành tựu của người khảo cổ Việt Nam đã chứng minh được sự
có mặt của người Nguyên thuỷ trên dải đất của chúng ta, cách đây
khoảng 30 vạn năm với di tích Núi Đo (Thanh Hoá). Tuy vây, trải qua
một thời gian dài, lao động và sinh sống đên thời kỳ đồ đá giữa, mới
thấy xuất hiện những biểu hiện đầu tiên chứng tỏ sự xuất hiện của nghệ
thuật tạo hình.
* Về loại hình nghệ thuật
Trong giai đoạn sơ khai của mỹ thuật, chúng ta mới tìm được một số

tác phẩm nghệ thuật chạm khắc trên chất liệu đá, xương thú. Đất nước
ta còn một lịch sử đấu tranh dựng nước giữ nước lâu dài và là một đất
nước nghèo đang phát triển. Suốt trong khoảng 4000 năm lịch sử từ đời
vua Hùng dựng nước đến nay, dân tộc ta liên tục đấu tranh chống giặc
ngoại xâm. Điều này hạn chế nhiều đến việc khảo cổ bảo tàng, bảo tồn
các di sản văn hoá. Hi vọng trong điều kiện phát triển hiện nay, chúng
ta sẽ tìm được nhiều hơn các tác phẩm, di sản văn hoá của cha ông, tổ
tiên còn ẩn sâu trong lòng đất. Căn cứ trên các hiện vật tìm được cho
đến ngày nay, ta chưa thấy có nghệ thuật hội hoạ hoặc điêu khắc tượng
tròn. Bên cạnh các hình chạm khắc, đến cuối thời kỳ đồ đá mới nghệ
thuật đồ gốm và trang trí gốm phát triển đã để lại nhiều hoa văn đơn
giản, nhưng lại phong phú về thể loại. Như vậy ta có thể thấy trong thời
kỳ Nguyên thuỷ , nghệ thuật chạm khắc và trang trí trên gốm đã hình
thành và dần phát triển.
* Về đề tài, nội dung
Hình chạm khắc chủ yếu đi vào đề tài chân dung con người hoặc khái
quát hình tượng đầu thú. Một số tác phẩm mang hình trang trí và tượng
trưng đề cập tới đề tài cây lá, thiên nhiên. Hoạ tiết trang trí phong phú
hơn, song đều bắt nguồn từ hiện thực sinh động của cuộc sống : dấu
nan đan, bàn tay, sóng nước, vặn thùng, ràng lược, ô quả trám, hình hoa
thị, khắc vạch,
* Về cách thể hiện
Bước đầu nghệ thuật Nguyên thuỷ đã bộc lộ khả năng quan sát, thể
hiện đặc trưng của một số sự vật, hình tượng, tỉ lệ tương đối cân đối. ở
một số hình còn thể hiện ý thức về bố cục. Lúc đầu còn những hình đơn
lẻ, riêng biệt, Dần dần xuất hiện một số tác phẩm chạm khắc hoàn
thiện. Ngoài khả năng về các hình các nghệ nhân Nguyên thuỷ còn bắt
đầu tìm cách sử dụng màu để vẽ hoặc nhuộm trên các hình gốm, vỏ sò,
những vật thiêng dành cho người đã mất. Các hoa văn trang trí thể hiện
khả năng khái quát và cách điệu của người Nguyên thuỷ từ những quan

sát chính trong cuộc sống.
Kết Luận :

Với một số tác phẩm tiêu biểu mong muốn tìm được và giữ đến ngày
nay của mỹ thuật Nguyên thuỷ, cho chúng ta có điều kiện tìm hiểu về
những bước đi chập chừng của tổ tiên ta. Mặc dù còn rất ít tác phẩm,
nhưng chừng ấy cũng đã khẳng định sự hình thành và phát triển một
đời sống thẩm mỹ vào thời kỳ đồ đá. Những tác phẩm chạm khắc đều
được thể hiện đơn giản, song đó chính là sự bộc lộ nhận thức, cảm nhận
về thế giới xung quanh của người Việt cổ. Hơn nữa còn chứng tỏ khă
năng quan sát thực tế, chính xác, khă năng tư duy hình tượng và sự
khéo léo của đôi bàn tay khi biểu hiện cảm nhận đó lên nhiều chất liệu :
Đất đá, xương thú, ngà voi, tất cả yếu tố đó đủ dể tạo nên tác phẩm
nghệ thuật, tuy còn vụng về trong cách thể hiện song lại rất chân thực,
đường nét phong phú, sinh động, thể hiện cảm xúc trong sáng, tinh
khiết, của con người thời kỳ này. Mặc dù rất lâu sau xã hội mới hình
thành những dấu vết của nghệ thuật tạo hình mới xuất hiện, nhưng hoạt
động sáng tạo này đã đặt những viên gạch đầu tiên để tạo nền móng
nghệ thuật tạo hình dân tộc sau này tiếp tục phát triển và đạt được
những thành công đáng kể. Những tác phẩm tuy ít nhưng quý báu, là
nguồn tư liệu cho thế hệ con cháu tìm hiểu và học tập vốn tinh hoa của
nghệ thuật truyền thống ông cha ngày xưa. Tất cả điều đó đã khẳng
định tài năng mỹ thuật của cha ông, khiến chúng ta thêm tự hào về
truyền thống văn hoá nghệ thuật mà tổ tiên

×