Tải bản đầy đủ (.pdf) (23 trang)

GIAO LƯU TIẾP XÚC MỸ THUẬT VIỆT NAM - NHẬT BẢN docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.78 KB, 23 trang )

GIAO LƯU TIẾP XÚC MỸ THUẬT
VIỆT NAM - NHẬT BẢN

Thiếu nữ ngắm tranh-Sơn dầu
1938 của Tô Ngọc Vân

Việt Nam - Nhật Bản cùng trong khu vực, có nhiều điểm tương đồng
truyền thống á Đông. Trong lĩnh vực nghệ thuật tạo hình của hai nước
đã có quan hệ từ những năm đầu thập kỷ bốn mươi của thế kỷ trước,
với những cuộc gặp gỡ giao lưu tiếp xúc. Sự gặp nhau đều ở hướng
phát triển trên trục chính: từ nền tảng truyền thống, tiếp thu thế giới
sáng tạo và phát triển Mỹ thuật hiện đại, với bản sắc dân tộc. Từ 21-9-
1973 Việt Nam và Nh
ật Bản chính thức thiết lâp quan hệ ngoại giao hai
nước, sang năm 2008 là kỷ niệm tròn 35 năm (1973-2008). Tháng 10
năm 2007, chúng tôi được bạn mời sang Nhật tham quan, giao lưu tiếp
xúc các Bảo tàng Mỹ thuật và trao đổi về Mỹ thuật Việt Nam - Nhật
Bản. Nhân chuyến đi tốt đẹp và ý nghĩa này tôi ghi nhận đôi điều về
giao lưu tiếp xúc quan hệ Mỹ thuật Việt - Nhật trong sự phát triển Mỹ
thuật của hai nước.
1. Quan hệ giao lưu của các bậc thày trong lịch sử:
Ngay từ thời kỳ (1941-1945 ) ở Việt Nam, văn hoá nghệ thuật Nhật
Bản đã được truyền bá với nhiều hình thức trong đó có nghệ thuật tạo
hình. Tháng 10 năm 1941 Hoạ sĩ Nhật Bản Foujita danh tiếng và các
hoạ sĩ hiện đại Nhật Bản: Aoyama, Santa, Hiraoka, Kôno, Kinohita,
Shimazaki, Noma, Suda , Kumaoka, Oguis, Sato, Togo, Nakayama,
Miyamoto, Nakanishi đã tới Hà Nội. Họ mang tác phẩm sang làm
Triển lãm Hội hoạ Nhật (tại Hội quán Khai Trí Tiến Đức-Hà Nội). Hai
danh hoạ Foujita (Nhật Bản) và Nguyễn Nam Sơn (Việt Nam) gặp
nhau, sau một thời gian ngót 20 năm cùng học ở trường Mỹ Thuật
Quốc Gia Paris (năm 1924 -1925). Triển lãm của các hoạ sĩ Nhật Bản


được dư luận rất quan tâm, các báo chí ở Hà N
ội bấy giờ nói đến nhiều,
và ca ngợi (1). Triển lãm có những ấn tượng tốt từ hai phía về quan hệ
Mỹ Thuật Việt-Nhật. Tuy triển lãm là của các hoạ sĩ nước ngo
ài, nhưng
lại có những điểm gặp nhau bởi cùng trong dải đất á Đông, cũng từ
truyền thống đi lên tiếp thu nghệ thuật thế giới, đặc biệt là học tập mỹ
thuật Âu Tây. Các hoạ sĩ Nhật cũng vẽ sơn nhựa, lụa và khắc gỗ và cả
sơn dầu. ở đó có nhiều điểm để các hoạ sĩ Hà Nội và hoạ sĩ Nhật giao
lưu, bàn luận học thuật, trao đổi kinh nghiệm, để rút ra những điều bổ
ích cho sáng tác mỹ thuật hiện đại. Từ trung tuần tháng 10 năm 1941,
không khí mỹ thuật Hà Thành lúc bấy giờ có dịp trao đổi về Mỹ thuật
Việt Nam với hoạ sĩ Foujita tài danh (2).
Sau đó 2 năm, cuối tháng 6 đầu tháng7 -1943 được đáp lại bằng giao
lưu mỹ thuật tại Nhật Bản do Hoạ Sư Nam Sơn (Nguyễn Văn Thọ)
cùng 2 hoạ sĩ Lương Xuân Nhị và Nguyễn Văn Tỵ mang các tác phẩm
mỹ thuật Đông Dương đi triển lãm tại Nhật Bản (3). Họ được chào
mừng đón tiếp, và tình bạn hữu tiếp xúc nghệ thuật và giao lưu gi
ữa các
hoạ sĩ Nhật và Việt Nam. Các tác phẩm trưng bầy tại các thành phố:
Fukuoka, Kobe, Kyoto, Tokyo và Osaka. Được các nhân vật lãnh đạo,
giới mỹ thuật, và công chúng Nhật Bản rất hoan nghênh, thu hút hơn
một trăm ba mươi ngàn lượt người xem trong một tháng. Các báo chí
bấy giờ đều có bài giới thiệu và bình luận (4). Tiếp xúc với Triển lãm
Mỹ thuật hiện đại Đông Dương - nhà phê bình nghệ thuật Nhật bản
Kawaji Ryoto đã nói: “Chúng tôi nhận thấy là hội hoạ Pháp đã có ảnh
hưởng ở Đông Dương. Nhưng điều làm chúng tôi vui mừng nhận ra là:
các hoạ sĩ Đông Dương đã đạt được sự hài hoà giữa truyền thống của
họ với Mỹ thuật mới của phương Tây. Nói tóm lại còn nhiều điều cần
nghiên cứu - cũng như trong trường hợp của chúng ta - đây mới chỉ là

sự phác thảo cho một lời hứa đầy đủ với tương lai Mỹ thuật Đông
Phương; nhưng ngay từ bây giờ, chúng ta đều công nhận là cuộc tiếp
xúc trực tiếp với các hoạ sĩ Đông Dương đã có một ảnh hưởng đáng
mừng” (Bài in trong Thông báo Mỹ Thuật số 6 năm 1943).
Tiếp xúc hội hoạ Nhật, ba hoạ sĩ Việt Nam nhanh chóng có thiện cảm
trước các tác phẩm của các bậc thầy Nhật Bản thuộc các thể loại
(truyền thống), cũng như của các hoạ sĩ Nhật (tiếp thu theo ph
ương tây,
mà đa số thuộc trường phái hiện đại)(5). Mỗi người đều có thu hoạch
với những điều học tập, khai thác mà họ đã có chu
ẩn bị trong chuyến đi
lịch sử đó. Ba hoạ sĩ cũng đã vẽ nhanh một số tranh về đất nước con
người Nhật Bản.
Ba hoạ sĩ đã làm triển lãm tại Nhà hát lớn thành phố Hà N
ội những bức
vẽ dịp đi Nhật. Triển lãm dưới sự chủ toạ của ông Yokoyama chủ tịch
Viện Văn Hoá Nhật, và ông Charton- Giám đốc giáo dục khai mạc
ngày 11/12/1943, Toàn Quyền Đông Dương Decoux và đại sứ Nhật
Yoshizawa đã tới thăm. Cuộc trưng bày có ý nghĩa văn hoá, là những
bông hoa tươi thắm, cho quan hệ Đông Dương và Nhật Bản. Cùng sự
đáp lại giao lưu của mỹ thuật Đông Dương (tức Mỹ thuật Hà Nội) với
triển lãm tại Nhật đã đặt dấu ấn quan trọng trong quan hệ quốc tế của
mỹ thuật Việt Nam - Nhật Bản.
2. Giao lưu tiếp xúc các bảo tàng Mỹ thuật Nhật Bản:
Tháng 10-2007 chúng tôi đến Nhật Bản rất thuận lợi, được ngài ITOH
Toyo kinchi nhà sưu tập mỹ thuật châu á nhiệt tình mời dẫn tham quan
tiếp xúc mỹ thuật tại các Bảo tàng và trao đổi về Mỹ thuật Việt Nam -
Nhật Bản. Theo bước các bậc thầy xưa trên đất Phù Tang, tuy không y
hệt những nơi họ đến, song chúng tôi cũng đã đến các trung tâm của
các thành phố có Bảo tàng mỹ thuật, và chắc chắn khác xưa rất nhiều.

Những bậc thày Nhật Bản và Việt Nam gặp gỡ, giao lưu năm 1943 nay
cả hai phía đều không còn ai. Nhà cửa, đường xá có nhiều đổi mới, so
với những bức ảnh mà hoạ sĩ Lương Xuân Nhị chụp khi xưa. Hồi ấy
chưa thấy sự to lớn của các Bảo tàng Mỹ thuật như bây giờ, và trong
hồi ký của các thày không thấy nhắc gì đến tiếp xúc Bảo tàng. Từ Bảo
tàng Mỹ thuật quốc gia Tokyo, đến Bảo tàng M
ỹ thuật châu á Fukuoka,
và nhiều Bảo tàng khác thì 65 năm qua cùng với tốc độ đi lên mạnh mẽ
của công cuộc xây dựng đất nước Nhật Bản, đã thay đổi rất nhiều. Bên
cạnh bảo tồn những vốn cổ chăm chút tu bổ, thì cũng rất mạnh mẽ
trong phát triển hiện đại. Sự bảo tồn thành phố cổ như Kyoto, hay Nara
cũng có những nét mới. Có thể nói Nhật Bản bây giờ đâu đâu cũng
như
thành phố, đều xây dựng đi lên hiện đại. Sự tiện nghi nội- ngoại thất,
trong lao động, sản xuất, ăn, ở, sinh hoat, vui chơi, tiêu dùng được chú
trọng phát triển đáp ứng mọi nhu cầu. Tại các thành phố lớn, với các
trung tâm nhà cao tầng san sát. Tokyo thành phố hiện đại nhà nhiều
tầng đồ sộ vươn cao dựng lên như rừng, đa dạng kiểu cách. Ban đêm
thành phố lên đèn thắp sáng màu sắc rực rỡ như sao sa. Tokyo còn có
cả thành phố ngầm trong lòng đất. Có những con đường ngầm xuyên
biển. Giao thông trật tự ngăn nắp, ý thức chấp hành tự giác cao của
người dân. Tokyo đặc biệt còn rất nhiều chim Quạ, với tiếng kêu “quà
quà “ quen thuộc. Loài chim này không mấy nơi còn, thế mà tại đây
chúng sống và bay lượn gần gũi với con người. Bất giác tôi nhớ đến
hình ảnh thôn nữ chân quê Việt Nam với trang phục: “chiếc khăn mỏ
quạ, cái quần nái đen”. Tôi kể cho cô gái Nhật hướng dẫn viên xinh đ
ẹp
khi đưa chúng tôi đi thăm khu Thiên Hoàng, v
ề điển tích chiếc khăn mỏ
quạ, từ Tình mẫu tử của loài chim này. Quạ mẹ rất chăm lo săn sóc Qu


con từ khi nhỏ cho đến khi trưởng thành. Khác với loài chim khác, Qu

con khi đã đủ lông cánh bay đi kiếm mồi được, thì dù thế nào vẫn luôn
nhớ ơn và trở lại chăm sóc Quạ mẹ. Sự hiếu nghĩa trong Tình mẫu tử
của loài Quạ như một đạo đức làm con người cảm phục. Trang phục
của phụ nữ truyền thống Việt Nam có khăn mỏ quạ, có quần thâm đư
ợc
người xưa mô phỏng. Chiếc khăn mỏ quạ là tấm vải vuông nhuộm đen,
khi đội lên đầu được gấp đôi thành hình tam giác cân, phía trứơc lộ ra
giống hình mỏ quạ. Người mẹ cúi xuống nhìn con âu yếm đang bú thì
đầu khăn mỏ quạ cũng cúi theo, và khi đứa con đã bú no ngước nhìn
lên mẹ cũng thấy khăn mỏ quạ đội trên đầu mẹ. Sự gặp nhau của hình
ảnh đó, như mách bảo liên tưởng đến điển tích. Chiếc khăn mỏ quạ
truyền tự bao đời như lời giáo huấn về tình thương và trách nhiệm
trong tình mẫu tử.
Trong chuyến giao lưu tại các thành phố lớn Nhật Bản, chúng tôi chủ
yếu tiếp xúc với các Bảo tàng Mỹ thuật, để có cái nhìn tổng quan, trao
đổi cùng các chuyên gia nghiên cứu. Các thời kỳ Hội hoạ Nh
ật Bản: bắt
đầu năm 552 mở đầu vay mượn du nhập Trung Hoa. Thời đại Suiko:
(552 - 645) là nghệ thuật Phật giáo sơ kỳ. Thời đại Nara: (646 - 793)
nghệ thuật Phật giáo ảnh hưởng nghệ thuật Đường. Thời kỳ Tempyo
(725 - 794) thời hoàng kim nghệ thuật, nổi tiếng chùa Todaiji (Đông
Đại Tự). Thời đại Heian: (794 - 893) nghệ thuật Phật giáo Mật Tông.
Thời đại Fujiwarra: (894 - 1185) là nghệ thuật cung đình. Thời đại
Kamakura: (1168 - 1133) nghệ thuật hiện thực theo cảm hứng tôn giáo
mới. Số lượng lớn về tranh cuốn Emakimono. Thời đại Muromachi:
(1134 - 1573) nghệ thuật Thiền tông, chi phối bởi những nguyên tắc
của Thiền đạo. Bức “Thác Nachi” của một nhà sư (TK 13) là bức

phong cảnh đẹp về thiên nhiên. Các sư tăng Nhật học nghệ thuật Trung
Hoa từ các thành tựu Đường, Tống, Nguyên, Minh cải biến thành hội
hoạ Nhật. Họ là danh sư, lại là bậc thầy cổ điển hội họa truyền thống
Nhật bản như Toyo Sesshu (1420-1506), Sotatsu Nonomura (1576-
1645), Honami Koetsu (1555-1637), Korin Ogata (1658-1716) tạo
nên ánh sáng trong tranh vừa rực rỡ vừa sang trọng, trang nghiêm. Th
ời
đại Yedo: (1615 - 1687) là nghệ thuật Bình dân. Thời đại Genroku:
(1688 - 1703) được đánh giá văn hoá vào thời đỉnh cao. Tiền kim loại
đi vào đời sống kinh tế. Bước tiến mới là phát triển nghệ thuật Bình
dân
Ukiyo-e. Nghệ thuật có cá tính tinh tế, lộng lẫy, hàm súc. Thời đại
Meiji - Taisho: (1704-1926) nghệ thuật thời đại mới. Hiện là ngh
ệ thuật
Đương đại.
Nhật Bản hiện nay có khá nhiều bảo tàng thuộc nhà nước và tư nhân.
Bảo tàng Nghệ thuật Quốc gia Tokyo đồ sộ với số lượng lớn các tác
phẩm trưng bày, với nhiều thể loại, của các giai đoạn nghệ thuật.
Những tác phẩm đang trưng bày Thư Hoạ thế kỷ 11 và 12. Hươu núi
thế kỷ (13-14). Tranh nhân vật thế kỷ (15-16) vẽ theo lối mảng nét, bố
cục viễn cận tẩu mã. Hoa lá thế kỷ 17. Phong cảnh (thế kỷ 19). Các
tranh Cận đại, Hiện đại và Đương đại. Bảo tàng lịch sử Quốc gia Nhật
Bản (National Museum of Japanese Hisstory) cũng là nơi có nhi
ều hiện
vật gốm cổ và một số tranh cổ. Bảo tàng Nghệ thuật hiện đại (Sezon
Museum of Modern Art) chuyên về nghệ thuật hiện đại, có gian trưng
bày nghệ thuật đương đại. Lần này trưng bày các tác phẩm của hai hoạ
sĩ: Mitsumasa và Eri watanabe tranh mang nhiều chất trang trí biểu
hiện.
Lại có bảo tàng chuyên về một loại hình, như Bảo tàng Nghệ thuật Đồ

Hoạ ở Machida (Machida city Museum of Graphic Arts) trưng bày
nhiều loại tranh khắc (gỗ,đá, kim loại), Apphích Tiếp xúc và trao đổi
với chuyên viên YUKIE Takagi tại gian trưng bày, với các tác phẩm
của các hoạ sĩ Nhật Bản truyền thống và hiện đại, Có cả tranh khắc của
các hoạ sĩ thế giới, được sưu tập, là những cố gắng lớn của bảo tàng.
Các tác phẩm của Picatsô (Picasso), Đuyrơ (Đure), Mun (Edvard
Munch) một sự đối chiếu nghệ thuật tranh khắc Đông- Tây. YUKIE
Takagi cho biết hiện bảo tàng chưa sưu tập được một bức Đồ hoạ nào
của Việt Nam. Hệ thống của bảo tàng với các loại Đồ hoạ (Vẽ-khắc-
in)
được dựng thành chương trình lưu trên các băng đĩa nghiệp vụ, dành
một phòng chiếu Vidio để người quan tâm đến nghệ thuật Đồ hoạ được
xem. Bảo tàng Machida Graphic Arts còn có xưởng thể nghiệm nghiên
cứu về các loại tranh khắc. Khuôn viên bảo tàng có sân, vườn rộng đặt
tượng ngoài trời, có Đài biểu tượng chuyển động cuốn nước với không
gian thanh thoáng.
Nhật Bản nổi tiếng với Tranh khắc gỗ Ukiyo-e: v
ới sự phát triển từ thời
Keicho đến thời đại Moireki (1596 - 1657) mở đầu tranh mộc bản
(ichimai-e). đen trắng tô bằng tay thêm màu đỏ đục gọi là tranh (tan-e).
Sau đó Okumura Masanobu (1686 - 1764) cho thêm các màu: vàng,
tím, lục, đỏ sẫm, và đen bóng (gọi là:Uushi-e). Ngh
ệ thuật khắc gỗ mộc
bản với tên tuổi: Harunobu Suzuki (1725-1770) là hoạ sĩ tiên phong đ
ặt
nền móng, với tranh in đỏ. Từ thời Kwambun đến thời đại Gembun
(1661 - 1740) thịnh đạt vẽ màu. Từ thời Kwampo đến thời đại Tempo
(1741 - 1843) vẽ màu phát triển Từ thời Kokwa đến thời đại Meiji
(1846 - 1912) thì suy thoái. Đề tài tranh khắc gỗ Ukiyo-e: lúc đầu vẽ
những người đẹp nổi danh ở Yoshiwara, hay những diễn viên sân khấu

kịch Kabuki, hoặc phong tục tập quán, sinh hoạt theo lối hiện thực lý
tưởng của hoạ sĩ. Sau còn có đề tài về Thánh, Bồ tát, Đạt Ma. Tranh
khắc Ukiyo-e thường phối hợp: người vẽ, người khắc, người in. Ba hoạ
sĩ tiêu biểu nhất được nhắc đến nhiều với sự nghiệp sáng tác là: hoạ sĩ
Kitagawa Utamaro (1753-1806): vẽ tranh về người đẹp bán thân, mỹ
nữ, nét thanh nhã rất đặc trưng Nhật. Các tranh phụ nữ: khâu vá, làm
bếp, với con. Tranh hoa bốn mùa. Các bộ tranh “12 gương mặt phụ
nữ”, “Những người mò trai”. Danh hoạ Katsushika Hokusai (1760-
1849): với 30.000 bức tranh, có cả minh hoạ sách truyện. Vẽ cảnh sinh
hoạt, lao động, nghỉ ngơi, chợ búa, lễ hội, muông thú, cây cỏ, ma quỷ.
Bộ tranh “36 cảnh núi Fuji” (1823), và Bộ tranh “100 cảnh núi Fuji”
(1834). Danh hoạ Ando Hiroshighe (1797-1858): Tranh phong cảnh
thơ mộng tự nhiên. Các tập tranh “8 cảnh hồ Biwa”, “53 chặng nghỉ
trên con đường Tocaido” (1834), “8 cảnh ngoại vi Edo”. Các tranh:
Trăng sớm ở cầu Ryogoku, Trăng tròn ở Takanawa, Mưa trên cây
Thông ở Karasaki, Mưa đêm ở Azuma Nomori, Hoa trà và chim, cây
Anh đào hoang, Hoa mẫu đơn và chim công, Tuyết trên núi Hira buổi
chiều,
Bảo tàng ISHIBASHI (Ishibashi Museum of Art) ở Nonaka machi
Krume shi - Fukuoka mở cửa từ 1956. Bảo tàng sưu t
ập nhiều tác phẩm
Hội hoạ, đồ hoạ với nhiều thể loại của các hoạ sĩ Nhật Bản. Trong đó
có các tác phẩm của các bậc thày truyền thống như: Sơn Thuỷ vẽ lối
thuỷ mạc của danh hoạ Sesshu (thế kỷ 15) thể hiện tài tình những ngọn
núi gần- xa, cao- thấp, những cây những mái nhà đượm vẻ phương
Đông. Các tác phẩm về đề tài Chim- Hoa như bức: Đôi chim Công và
hoa Phù Dung của Maruyama. Mỹ thuật hiện đại với các tác phẩm vẽ
sơn dầu theo khuynh hướng hiện thực, mà mỗi hoạ sĩ lại khác nhau
trong cách nhìn và thể hiện, như: Thiếu nữ đứng bên cây của
Fujishima, Những người khiêng cá của Aoki Shigeru, Khâu áo của

Kuroda Seiki, Những con ngựa hoang của Sakamoto Hanjiro. Hoặc
cũng có hoạ sĩ vẽ sơn dầu nhưng thiên vào mảng, pha chất trang trí nh
ư
bức: Đêm của Koga Harue. Bảo tàng có ý thức sưu t
ập những bức trong
quá trình thể nghiệm sáng tác cùng một đề tài của hoạ sĩ đương đại các
năm 1990-1995. Tại đây còn trưng bày một số bức sưu tập của hoạ sĩ
thế giới. Khuôn viên Bảo tàng rộng lớn, ngoài ba khu nhà hai tầng d
ành
trưng bày tác phẩm, chung quanh là vườn rộng, có tượng vườn, tượng
đài, có hồ nuôi cá lớn làm cảnh. Nơi đây còn là một trung tâm văn hoá.
Sự phát triển của các Bảo tàng cho thấy: bên cạnh những tác phẩm mỹ
thuật của các thế hệ nghệ sĩ tạo hình Nhật Bản, còn có những tác phẩm
hội hoạ thế giới mà một số Bảo tàng sưu tập. Một ý thức sưu tập, lưu
giữ và trưng bày nhằm vào thúc đẩy phát triển mỹ thuật ở Nhật Bản.
Những triển lãm hội hoạ thế giới trưng bày Bảo tàng, đều có áp phích
dán tại các trung tâm, nhà ga, nơi công cộng để biết đến xem
Sự chú ý đến nghệ thuật Nhật Bản của tôi bắt đầu từ năm 1978, khi đó
tôi sáng tác bức tranh “Thu hoạch lúa mùa ở Định Công” (65 x 90 cm)
thể hiện trên Lụa, bày tại Bảo tàng của trường Đại học Mỹ thuật Hà
Nội. Dịp đó Đoàn Đảng cộng sản Nhật Bản đến và đã chọn mua bức
tranh này. Hoạ sĩ Nguyễn Trọng Cát nói với tôi: “Nước Nhật là nơi nổi
tiếng về tranh lụa, người Nhật sang đây lại chọn mua tranh lụa của
Nguyễn Văn Chiến là vinh dự lắm”. Sau lần ấy, tìm hiểu về Nhật Bản
của tôi ngày càng đậm dần lên. Những gì đã đọc qua sách vở báo chí,
đã nghe qua đài, đã thấy ở phim ảnh, Ti vi về Nhật Bản có đư
ợc trong
tôi, khi đặt chân dến đất nước Nhật thì sự sống động nhân lên r
ất nhiều.
Được tiếp xúc trực tiếp với nghệ thuật, với thiên nhiên - đất nước - con

người Nhật Bản, đã ùa vào tôi vừa lạ vừa quen, kích lên sự ham học,
ham vẽ đến chừng nào. Cái truyền thống á Đông quả có những tương
đồng, cũng như truyền thống dân tộc của Việt - Nhật trở thành nổi bật
là bản sắc độc đáo. Điều đó càng thấm đậm khi mỗi lần giao lưu tiếp
xúc, để tiếp tục phát triển trong sáng tạo nghệ thuật Hiện đại.
Đến đất nước Phù tang, của núi Phú Sĩ (Fuji), của hoa Anh đào, v
ới bao
danh lam thắng cảnh miền ôn đới của miền quốc đảo trong tôi muốn
vẽ tranh về Nhật Bản, muốn thu gom nhiều tài liệu, và hình ảnh về:
nghệ thuật, về đất nước con người Nhật Bản, tìm những cái mới để
phong phú thêm, cho nghệ thuật của mình. Trên các tuyến đi đến các
thành phố lớn của nước Nhật có Bảo tàng, với chặng đường dài từ
Narita đến Tokyo, Shinjuku, thăm Kasumigaoka, Shibuya-ku, Minato-
ku, Ueno, Asuka, Chiyodo, Subways, Yodobashi Akiba, Yokohama,
vịnh Tokyo, hoặc qua các tỉnh thành ph
ố: Okinawa, Narasaki, Hokaido,
Kyoto đến Nikko, Hakone và Fukuoka đi qua các vùng miền của
Nhật Bản (bằng xe bus, tàu điện, và cả bằng máy bay) thì cũng là dịp
thăm quan. Được ngắm nhìn những phong cảnh thiên nhiên trên đất
nước đảo biển tươi đẹp, gặp gỡ người Nhật Bản cần cù, vui và mến
khách, và thấy sự xây dựng hiện đại hoá của đất nước Nhật. Tokyo
thành phố của Nhật Bản, với những nhà cao tầng hiện đại chót vót, lại
còn có rất nhiều Quạ với tiếng kêu quà quà quen thuộc. Loài chim này
không mấy nơi còn, thế mà tại đây chúng sống và bay lượn gần gũi với
con người. Thăm quan các danh lam thắng cảnh, hay các di tích nổi
tiếng cũng là dịp tiếp xúc với nghệ thuật cổ Nhật Bản. Tôi không kịp
vẽ, chỉ có thể ghi bằng máy ảnh, lưu lại những hình ảnh những nơi
mình đến. Nghệ thuật truyền thống Nhật Bản với các nghệ thuật kiến
trúc- tạo hình- chạm khắc trang trí đều nằm ở các Đền, Chùa cổ. Các
thành phố Kyoto, Nara, Nikko, Hakone nơi còn nhiều di tích Phật

giáo.
Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc Phật giáo Nhật Bản có những nét
riêng. Chùa cổ Horayuzi ở Nara có những Bích hoạ. Các Chùa thì kiến
trúc- điêu khắc và trang trí đều hoà quện với cảnh trí thiên nhiên. Nhi
ều
tượng Phật ở Nikko trong Chùa hay những hàng tượng đá cổ lộ thiên
đặt ở các triền núi. Bên cầu Đại Tiên Kiều, có những hàng tượng đá cổ
cầu may mắn, có tảng đá khắc chữ: Minh Trị đã đến đây. Quần thể
chùa ở Nikko có các kiến trúc chùa với nhiều tượng tròn và chạm
khắc., có tháp 5 tầng, có Cột trụ đá khắc chữ: Đông chiếu cung, có
những cây thông chừng 800 tuổi. Những hàng đèn cao đ
ục bằng đá, đặt
thành hàng dài quanh chùa. Mỗi cây đèn do các hãng hay công ty lớn
của Nhật cung tiến chùa được tạc theo mẫu cổ. Tại Kyoto có vườn
Maruyama, có các đền: Tionin, Yasaka, Heianjingu. Chùa
Sanzusangendo với pho tượng quan âm lớn ở giữa, chung quanh có
nhìều pho tượng khác. Đền Naritasan Shinshoji ở Narita, hoặc đền
Asakusa Kannon, và Zojoji ở Tokyo vẫn là những kiến trúc cổ bên
những kiến trúc mới xây dựng. ở Fukuoka những: Đền Chùa với nghệ
thuật kiến trúc điêu khắc truyền thống. ở Đình ngự có hòn đá kh
ắc chữ:
Rượu nhạt cao cấp đó là nguồn nước khoáng tự nhiên chảy liên tục
không cạn, để đãi khách đến chùa. Lại có Cỗ Kiệu cao lớn, trên đó
trang trí lộng lẫy với nhiều hình tượng người và lễ vật. Kiệu được
khiêng ra rước trong ngày hội. Lại có những hòn đá kh
ắc chữ, hoặc viết
chữ của các vận động viên Sumo truyền thống, lại có hòn đá để thử sức
rất ấn tư
ợng. Những nghệ thuật truyền thống Nhật Bản luôn luôn tồn tại
song hành với phát triển hiện đại.

Núi Phú Sĩ được coi như một biểu tượng của Nhật Bản. Ngắm nhìn từ
trên cao để bao quát toàn cảnh ngọn núi hiển hiện cao vọi trên nền trời
xanh bao la, cảnh vật chung quanh thấp phía dưới, đã rộn lên bao cảm
xúc tạo hình về phong cảnh đặc biệt độc đáo này. Rất tiếc tôi không có
thời gian dùng sơn dầu để vẽ trực tiếp ngọn núi nổi tiếng này, mà chỉ
ghi ký hoạ, và chụp ảnh. Sự liên tưởng nghệ thuật, đến các tranh khắc
gỗ - tác phẩm của danh hoạ Hôkusai - thể hiện núi Phú Sĩ. Ngọn núi
Phú Sĩ to lớn độc đáo vút hiện trên nền trời, nửa trên là màu trắng, nửa
dưới là màu núi sẫm xanh, với nhiều nếp núi tạo những nét của đá núi,
rất gần và thuận lợi cho loại khắc gỗ màu. Bất giác tôi nghĩ cảnh này
hay chăng? vẽ sơn dầu chắc không độc đáo bằng khắc gỗ màu như
Hôkusai đã chọn. Không chỉ ở chỗ truyền thống á Đông về khắc gỗ, m
à
đặc biệt là tài năng bậc thày như HôKuSai, đã cho ta thấy lợi thế của
loại hình này. Các nghệ sĩ Nippon đều giữ được điệu nghệ riêng, giản
dị mà có tính chất đặc trưng, có tài quan sát tạo vật, Nét khắc gỗ linh
hoạt tinh tế ở cả nét đen và bản màu, thể hiện với các nhân vật rất đặc
trưng Nhật. Họ còn độc đáo với vẽ lụa và vẽ thuỷ mạc.
Sự đặc sắc của Thiền đạo, Trà đạo, và vườn cảnh Bonsai Nhật Bản
cũng gắn bó với ý thức nghệ thuật, ăn sâu trong thẩm mỹ tạo hình. Các
yếu tố truyền thống đó luôn được kế thừa và phát huy cho sáng tác hi
ện
đại. Trong các công trình kiến trúc hiện đại luôn gắn với ánh sáng,
thiên nhiên và vườn cảnh Bonsai. Thậm chí trên tầng 2 còn trồng cả
cây thân gỗ to, hoặc tầng 7 vẫn thấy những cây Hồng cao sai quả. Trên
các tầng cao đó khi bước ra các sảnh rộng, không có cảm giác trên tầng
cao mà như ở tầng 1 trên mặt đất. Nhiều Bảo tàng bên cạnh kiến trúc
dành trưng bày tác phẩm tạo hình, còn có hồ và vườn cảnh. Những toà
nhà cao ngất ở Tokyo và các trung tâm các công trình kiến trúc đều
hiện đại, hay ở tranh, tượng, trên văn hoá ẩm thực và du lịch với các

dáng vẻ hiện đại vẫn thấy tổng hoà các yếu tố gắn bó với thiên nhiên.
Trong cảnh yên bình đền chùa của các thành phố cổ, hay hiện đại của
Nhật Bản đều như toát lên tinh hoa tâm hồn Nhật. Đã để lại trong tôi
những cảm xúc tạo hình và có liên tưởng đến phản ánh nghệ thuật của
các nghệ sĩ tạo hình Nhật Bản về đất nước họ. Cũng bồi hồi liên tưởng
đến chuyến đi của các bậc thày Nam Sơn, Lương Xuân Nhị, Nguyễn
Văn Tỵ đến Nhật Bản 65 năm trước. Những địa điểm mà các bậc thầy
đã qua, cũng gần trùng với nơi chúng tôi được đến. Những so sánh tư
liệu với hiện tại, ghi nhận về sự phát triển của đất nước Nhật Bản. Đặc
biệt quan hệ giao lưu Mỹ thuật của hai nước Việt - Nh
ật. Chúng tôi học
tập được rất nhiều điều bổ ích cho công việc sáng tác và nghiên c
ứu của
mình.
3. Mỹ thuật Việt Nam tại Bảo tàng Mỹ thuật Châu á Fukuoka Nhật
Bản:
Tiếp xúc một số Bảo tàng Nhật Bản đã có sưu tập tranh nước ngoài, kể
cả Bảo tàng ISHIBASHI có sưu tập mỹ thuật khu vực Asian nhưng
không có tranh Việt Nam. Chỉ có Bảo tàng Mỹ thuật Châu á Fukuoka
(Fukuoka Asian Art Museum) (Viết tắt là FAAM) là bảo tàng duy nhất
không chỉ ở Nhật mà với cả thế giới, là nơi dành quy tụ nghiên cứu và
trưng bày Mỹ thuật khu vực á Châu hiện đại và đương đại (như ấn Độ,
Trung Quốc, Inđônêxia, Malaixia, Sanhgapo, Thái Lan, Cămpuchia,
Lào ). Bảo tàng Mỹ thuật Châu á quy mô tại thành phố Fukuoka đã có
sưu tập những tác phẩm từ trước, nhưng cũng mới mở cửa năm 1999.
Việt Nam từ sau 1986 đi vào thời đổi mới, nên có những nhà sưu tập
mỹ thuật nước ngoài vào mua tranh, trong đó có Nhật Bản. Bảo tàng
Mỹ thuật Châu á bước đầu đã có tranh hiện đại và đương thời của các
hoạ sĩ Việt Nam. Trong gặp gỡ trao đổi về mỹ thuật tại Bảo tàng Châu
á Fukuoka với giám đốc ISHIDA Takehisa, cùng các chuyên viên của

bảo tàng như: YAMAKI Yuko, KURODA Raiji, nhà sưu tập ITOH
Toyo kinchi, ITOH Tamiko cho biết tác phẩm của các hoạ sĩ Việt
Nam, được lưu giữ có hệ thống, in ảnh tác phẩm để bên danh mục lưu
trữ, và bảo quản an toàn trong kho của Bảo tàng FAAM. Được bảo t
àng
FAAM cung cấp tư liệu về tranh Việt Nam, có chừng 80 bức của nhiều
tác giả với nhiều chất liệu. Nổi bật có 10 bức hội hoạ c
ủa 7 hoạ sĩ Đông
Dương là: Nguyễn Phan Chánh với 3 tranh lụa: Chơi ô ăn quan, T
ổ đan
Mây, Kỳ lưng. Tô Ngọc Vân với 2 tranh sơn dầu của: Thiếu nữ ngắm
tranh Nhật, Hai Thiếu nữ và em bé. Lương Xuân Nh
ị với: Thiếu nữ đọc
sách (sơn dầu). Lê Phổ với: Hai em bé (sơn dầu). Mai Trung Thứ với:
Thiếu nữ (sơn dầu). Nguyễn Khang với: Bác Hồ với bản làng (sơn
mài). Bùi Xuân Phái với bức: Diễn viên Chèo (sơn dầu). Bảo tàng còn
sưu tập: 8 bức hội hoạ của các hoạ sĩ trẻ. Sơn khắc có 1 bức: Thái
Nguyên của Nguyễn Như Huân. Đồ hoạ và tranh khắc và có 22 bức
(trong đó có 4 bức của Phạm Văn Đôn, và 1 bức: Festival Nhật của Lê
Thanh Đức). Tranh cổ động có 34 bức của nhiều tác giả. Điêu khắc: có
1 tượng tròn và 3 uốn sắt. Bên cạnh những tác phẩm mỹ thuật Việt
Nam của FAAM sưu tập, còn phải kể công lao sưu tập mỹ thuật một số
nước Đông á của ITOH Toyo kinchi từ nhiều năm qua, đã đưa vào Bảo
tàng Mỹ thuật Châu á Fukuoka. Đó là bộ sưu tập hội hoạ Việt Nam
gồm 190 tác phẩm của nhiều tác giả. Bảo tàng FAAM dành riêng mỗi
nước trong khu vực châu á có một gian trưng bày.
Chuyên viên nghiên cứu của bảo tàng YAMAKI Yuko đã dẫn đi thăm
quan giới thiệu, tôi được mang băng nghiệp vụ Bảo tàng đ
ể có thể chụp
ảnh. Tại phòng sưu tập tranh Việt Nam của ITOH Toyo kinchi, hiện

thấy bày các tác phẩm của hoạ sĩ Đông Dương như: Thiếu nữ Hà Nội
(sơn dầu) của Lưu Văn Sìn, Đập lúa đêm (sơn mài) của Nguyễn Tiến
Chung, Thiếu nữ (sơn dầu) của Nguyễn Sáng, Cổng Ô quan Chưởng
(sơn dầu) của Bùi Xuân Phái, Chùa Thiên Mụ (lụa) củaTú Duyên. Hoạ
sĩ khoá kháng chiến có Lê Huy Hoà với Tắm gội tất niên (sơn dầu) v
à
một số tranh của các hoạ sĩ trẻ. Vì khuôn viên của phòng tr
ưng bày, nên
số lượng mỹ thuật mỗi nước không thể bày hết một lúc, mà bày luân
chuyển.
Sưu tập Mỹ thuật Việt Nam của ITOH Toyo kinchi, không chỉ ở Bảo
tàng Mỹ thuật Châu á Fukuoka, mà còn có sưu tập gồm 50 tác phẩm
hội hoạ Việt Nam tại Bảo tàng Mỹ thuật Okinawa. Hoặc ITOH Toyo
kinchi dành 50 bức tranh khắc gỗ Việt Nam mà ông sưu tập, tặng cho
các trường tiểu học ở Nigata, và Hokaido để ngay từ nhỏ các em đã bi
ết
đến nghệ thuật Việt Nam. Có được thành tựu đó, phải kể đến bà YTo
Tamiko - người bạn đời của ông, đã động viên, chia sẻ, c
ùng chăm chút
công việc sưu tập Mỹ thuật. YTo Tamiko còn là tác giả của những bức
tranh sơn dầu vẽ phong cảnh, tĩnh vật, và con cái. Sự yêu quý Mỹ thuật
Việt Nam của gia đình YTo Toyo Kinchi- Tamiko, đã có sưu tập tranh
Việt Nam và đưa vào Bảo tàng Mỹ thuật Châu á Fukuoka, Bảo tàng M

thuật Okinawa, tặng tranh khắc cho các trường tiểu học Nigata,
Hokaido là việc làm hết sức có ý nghĩa, truyền bá nghệ thuật Việt Nam
tại Nhật. Chúng ta ghi nhận công lao của YTo Toyo Kinchi – Tamiko
tích cực vì sự nghiệp mỹ thuật Việt Nam. Đó là tấm gương sáng, là cầu
nối giao lưu quan hệ mỹ thuật Việt Nhật.
4. Giao lưu Mỹ thuật kết quả từ sự quan tâm của hai phía: Để có hệ

thống khoa học của Bảo tàng với Mỹ thuật thế giới và khu vực Châu á,
các chuyên viên nghiên cứu Bảo tàng Nh
ật rất quan tâm đến vấn đề học
thuật đến tình hình phát triển của các nước có tác phẩm sưu tập. Trên
cơ sở đó có hướng sưu tập bổ sung những tác phẩm có giá trị nghệ
thuật vào Bảo tàng của mình. Đó là sự hình thành và phát triển nghệ
thuật qua các thời kỳ, với tác phẩm, tác giả tiêu biểu của từng nước.
Cùng nhau xác định: Bảo tàng Mỹ thuật phải là pho sử sống bằng tác
phẩm chất lượng, chứ không phải là nơi cất giữ những hoạ phẩm kém
giá trị.
Bảo tàng Mỹ thuật Châu á đã có quan tâm tìm hiểu Mỹ thuật Việt Nam
hiện đại và đương thời. Cụ thể là hình thành và phát triển từ Mỹ thuật
Đông Dương đến nay. Điều mà không chỉ Việt Nam, nghệ thuật Nhật
Bản có những điểm tương đồng, bởi khởi đầu của mỹ thuật hiện đại
Nhật bản cũng từ học tập nghệ thuật Tây Âu, và tiếp thu tinh hoa
truyền thống để xây dựng mỹ thuật hiện đại. Các chuyên gia nghiên
cứu Nhật Bản quan tâm nghiên cứu học thuật, nâng cao chất lượng sưu
tập mang tính hệ thống. Bộ sách Bình luận Mỹ thuật (2 tập) của tôi
nghiên cứu về Mỹ thuật Việt Nam. Trong đó có Mỹ thuật truyền thống,
và quá trình hình thành và phát triển Mỹ thuật hiện đại, với tiếp nối từ
cuối thế kỷ 19 đến hết thế kỷ 20. Tôi đã dành tặng các Bảo tàng khi đ
ến
quan hệ giao lưu tiếp xúc, nhằm giúp bạn tìm hiểu về nghệ thuật đất
nước mình. Phía bạn đón nhận sách rất ngưỡng mộ và trân trọng. Giám
đốc Bảo tàng Mỹ thuật Châu á Fukuoka ngài ISHIDA Takehisa nói:
“Bộ sách Bình luận Mỹ thuật là những giá trị nghiên cứu học thuật quý
báu về Mỹ thuật Việt Nam mà chúng tôi rất cần cho công việc nghiên
cứu và sưu tập của Bảo tàng Mỹ thuật Châu á. Đây là sự đóng góp trí
tuệ cho bảo tàng của chúng tôi, giúp chúng tôi hiểu sâu hơn về nghệ
thuật tạo hình của đất nước các bạn. Xin trân trọng cám ơn hoạ sĩ- nhà

lịch sử mỹ thuật Nguyễn Văn Chiến tác giả bộ sách quý giá này”.
Những trao đổi gặp nhau trong quan hệ giao lưu Mỹ thuật Việt - Nhật
về: sự phát triển của Mỹ thuật hiện đại Việt Nam- Nhật Bản, về danh
hoạ Nam Sơn, về các tác giả tác phẩm tiêu biểu: Mỹ thuật Đông
Dương, Mỹ thuật cách mạng, và nghệ thuật đương đ
ại. Kể từ năm 1924
Nguyễn Nam Sơn đi Pháp học Mỹ thuật tại Paris để chuẩn bị cho việc
mở trường CĐMT Đông Dương, đã cùng học với Từ Bi Hồng (Trung
Quốc) và Fujita (Nhật Bản). Cả ba tài danh hiện đại này sự điển hình
của 3 nước, họ đều có những ước vọng cho sự phát triển Mỹ thuật hiện
đại của đất nước mình. Nam Sơn và Từ Bi Hồng sau thời học mỹ thuật
ở Paris, chỉ có thư từ trao đổi qua lại, các dự định giao lưu không thực
hiện được. Chỉ có Nam Sơn và Fujita thực hiện bằng hai cuộc giao lưu:
với Fujita đưa tranh Nhật Bản sang Việt Nam (năm 1941) và Nam Sơn
đưa tranh Việt Nam sang Nhật Bản (năm 1943). Bảo tàng Châu á
Fukuoka mong muốn sưu tập được tác phẩm tiêu biểu của các hoạ sĩ
của Việt Nam, đặc biệt của danh hoạ Nam Sơn (đ
ã cùng Victor Tardieu
sáng lập trường CĐMTĐD, giáo sư Mỹ thuật đầu tiên của Việt Nam,
có tranh vào bảo tàng Paris và giải thưởng huy chương bạc của hội hoạ
sĩ Pháp 1932, là người bạn của danh hoạ Nhật Bản Fujita đã đến Nhật
giao lưu triển lãm 1943) là vinh dự cho sưu tập Mỹ thuật Việt Nam của
Bảo tàng. Những trao đổi học thuật về các điểm tương đồng và những
nét riêng về sáng tác của mỹ thuật hiện đại hai nước về sự tiếp xúc,
giao thoa nghệ thuật, để ngày càng được mở rộng bằng nhiều con
đường giữa các nền văn hoá nghệ thuật. Sự phát triển Mỹ thuật tuỳ
thuộc vào hoàn cảnh, thời điểm và mức độ cụ thể của từng nước(6).
Sự gắn bó của nghệ thuật trong quan hệ Việt- Nhật còn có thể kể: vào
năm 1956 Uỷ ban hoà bình thế giới ở Việt Nam, nhân kỷ niệm về 2
danh hoạ thế giới là Rembrant của Hà Lan thế kỷ 17, và Sesshu của

Nhật Bản thế kỷ 15, có tổ chức nói chuyện Mỹ thuật tại Hội quán Khai
Trí Tiến Đức. Hoạ sĩ Quang Phòng đã thuyết trình về: Sesshu danh hoạ
tiên phong khai sáng và tiêu biểu của hội hoạ Nhật Bản. Hoạ sĩ Quang
Phòng còn nghiên cứu về tranh khắc gỗ Nhật Bản, đã có bài đăng trên
tạp chí Mỹ thuật. Năm nay ông 84 tuổi, là một trong 5 hoạ sĩ Đông
Dương cuối cùng còn lại. Tháng 5-1962 hoạ sĩ Nguyễn Khang đi Nhật
tìm hiểu về Sơn mài. Năm 1990 hoạ sĩ Trần Đông Lương v
ẽ chân dung:
Tomocoa Somora theo lời mời của ngài đại sứ Nhật ở Việt Nam. Bức
chân dung đẹp, vẽ trực tiếp phu nhân ngài đại sứ, và thể hiện trên lụa,
tranh được trân trọng đưa về Nhật. Năm 1996 nhà nghiên cứu gốm
Gakuji Hasebe Giám đốc bảo tàng Quốc gia Tokyo (Director curatoral
Board Tokyo National Museum) trong chương trình nghiên cứu gốm
Đông Nam á đã đến Việt Nam, tìm hiểu trao đổi, có tiếp xúc với nhà
nghiên cứu gốm Nguyễn Bá Vân và chúng tôi ở Viện Mỹ thuật. Tại Hà
Nội hiện có Quỹ bảo vệ di sản văn hoá dưới lòng đất Đông Nam á tại
Việt Nam. Các năm: 1999, 2002 và 2005 có một số hoạ sĩ trẻ tham gia
triển lãm chung tại Nhật. Cuốn sách: 50 năm hội ho
ạ hiện đại Việt Nam
“50 years of Modern Vietnamese Painting” (1925-1975) ngoài các
trang in tranh, phần chữ có dịch sang chữ Nhật. Một số sách nghệ thuật
Nhật Bản cũng đã nhập vào Việt Nam
Tất cả những cuộc giao lưu tiếp xúc thuộc vấn đề nêu trên đều là nh
ững
dấu ấn Mỹ Thuật trong quan hệ Việt - Nhật, để ngày càng thêm g
ắn bó.
Đây cũng là thể hiện cụ thể chào mừng nhân dịp kỷ niệm 35 năm chính
thức lập quan hệ hai nước Việt-Nhật (21-9-1973 / 21-9-2008).
Nguyễn Văn Chiến


Chú dẫn:
(1) Báo Trung Bắc Tân Văn (Số 90, ngày 7- 12-1941) với bài:”Phê
bình Nghệ thuật vẽ sơn của hoạ sĩ Nhật” họa sĩ Tô Ngọc Vân viết bài
ca tụng bút pháp điêu luyện của hoạ sĩ Nhật Bản. Trên báo: La Volote’
Indochinoise (ý nguyện Đông Dương) cũng có loạt bài về triển lãm
này, với các số như : Ngày 17/10/1941 bài: Cuộc đàm thoại với Foujita
về nghệ thuật A Nam và Nhật Bản “Une intervie de Foujita de L’art
Ananmite a L’ art Japonais parmontparnasse” của DeJean Lassaire.
Ngày 21-10-1941 bài Cuộc nói chuyện của bậc thày Foujita “Une
Conference du maitre Foujita” của Paul Munier. Ngày 22-10-1941 bài
Triển lãm tranh hội hoạ của Nhật Bản “L’exposition de peinture
Japonaise contemporaine” của Paul Munier; và bài: Toàn quyền Đông
Dương Decoux đến dự khai mạc Triển lãm hội hoạ Nhật Bản “Le
Gouverneur general et Mine Jean Decoux assitent au vernissage de L’
exposition de peinture Japonaise”. Ngày 26-10-1941 bài: Vừa qua diễn
ra một cuộc triển lãm hội hoạ sơn dầu Nhật Bản “Hier eut lien le
vernissage de la peinture Japonaise à I’ huile” ) Tạp Chí Thanh Nghị
(số 6, tháng 1-1942) tác giả Nghệ Sĩ với bài: “Tranh Nhật với công
chúng An Nam” đã nhiệt tình nói về triển lãm và giới thiệu cách xem
tranh Nhật Bản như thế nào mới thấy đẹp.
(2) Trong bài: Nói chuyện Mỹ thuật Việt Nam đăng trên báo Tin Mới
(số ra ngày thứ sáu 14 /11 / 1941) Trúc Đình viết: “Cố nhiên về cao
thấp, các nghệ sĩ nước nhà khônh thể “một nhảy” mà đã muốn lừng
danh như Hokusai về thời cổ, Foujita về thời kim.

×