Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

GIỚI TÍNH TRONG NGHỆ THUẬT PHẬT GIÁO TẠNG TRUYỀN ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.47 KB, 9 trang )

GIỚI TÍNH TRONG NGHỆ THUẬT
PHẬT GIÁO TẠNG TRUYỀN

Tara

Nhân đại lễ Vesak 2008, vừa qua Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam phối
hợp với nhà sưu tập Dương Phú Hiến đã cống hiến cho công chúng Hà
Nội một cuộc trưng bày chưa từng có về nghệ thuật Phật giáo châu á.
Với một số lượng lớn về tượng Phật Tạng truyền, triển lãm đã đem lại
cho công chúng từ sự kinh ngạc này tới sự kinh ngạc khác (1). Rất
nhiều câu hỏi được đặt ra trong triển lãm, gom góp những kiến thức rời
rạc, bài viết tập trung vào việc giải thích một trong những lý do làm
triển lãm thành một sự kiện văn hóa nổi bật nhất tháng 5 vừa qua.
Phật giáo Tạng truyền là khái niệm ban đầu chỉ dòng Phật giáo lưu
truyền ở Tây Tạng, Nepan, Bhutan, Sikkim. Giới tính trong nghệ thuật
Phật giáo Tạng truyền là một chủ đề nghiên cứu rất thú vị; vì tôn giáo
nói chung không mặn mà với vấn đề giới tính, tình dục, cứu cánh của
tôn giáo không ở trên giường mà là ở trên thiên đường. Phật giáo là
một tôn giáo hướng đến sự bình đẳng không phân biệt thành phần xuất
thân, đẳng cấp xã hội. Nhưng Phật giáo nguyên thủy không đặt ra vấn
đề bình đẳng giới. Phật giáo vốn là tôn giáo rất linh hoạt, khi vượt qua
những dãy núi cao ngất quanh năm tuyết phủ của dãy Himalaya đã hòa
nhập với tín ngưỡng và văn hóa bản địa nơi đây tạo nên những hình
tượng nghệ thuật Phật giáo vô cùng đặc sắc. Một trong những điều làm
nghệ thuật Phật giáo Tây Tạng mê hoặc người xem chính là sự cường
điệu nhân tố giới tính. Hay nói theo cách của giới trẻ là rất sexy.
1. Sơ lược vài nét về nghệ thuật Phật giáo.
Phật giáo tuy hình thành từ thế kỷ thứ 5 trước công nguyên nhưng tho
ạt
đầu là tôn giáo không chủ trương lập tượng. Đức Phật ban đầu được
thờ phụng với hình thức biểu tượng như Bánh xe hay chiếc ngai. Cho


đến thế kỷ thứ nhất sau CN, tôn giáo Đại Thừa tại Tây Bắc ấn Độ bắt
đầu hưng khởi, việc thờ các ngẫu tượng mới bắt đầu xuất hiện. Phật
giáo Đại thừa dùng nghệ thuật tạo hình như một phương tiện để truyền
giáo. Đây là lý do sự bùng nổ các loại tượng Phật của Phật giáo đại
thừa. “Nghi lễ giáo lý nhấn mạnh đến “ quán” và “quán tưởng”, tín đồ
khi tập trung ý chí để xem một bức tranh hay một bức tượng, sau đó
thông qua thiền định, đạt tới “ tâm nhãn” nhìn thấu cảnh giới chân
tướng của Phật và Bồ Tát, nhờ đó lĩnh ngộ được sự vĩ đại của Phật
pháp. Trong quá trình này thì các tượng thờ không chỉ là hình ảnh thay
thế của Phật hay Bồ tát, nó còn là một loại “ vật dẫn đạo”.(2) Bởi vậy,
Phật giáo buổi đầu đến Trung Quốc còn có tên gọi tượng giáo để phân
biệt với Đạo giáo một tôn giáo bản địa thoạt đầu không lập tượng thờ.
Với Đại thừa Phật giáo, không có tôn giáo nào có thể sánh được về sự
phong phú về chủng loại và sự đa dạng về phong cách. Và trong Phật
giáo Tạng truyền số lượng các loại tượng Phật còn đông gấp bội.
Thông thường có từ 300 tới 500 loại tượng Phật. Năm thứ ba đời vua
Càn Long nhà Thanh, Chương Gia, quốc sư đã chủ biên bộ sách “ Tam
bách tượng Phật tuyển” phỏng theo cách thức quy định của Phật giáo
Tạng truyền. Năm 2007 cuộc trưng bày bộ sưu tập 100 hiện vật nghệ
thuật Phật giáo Tạng truyền của ngôi chùa Bạch Tháp tự nổi tiếng (Bắc
Kinh) tại thành phố Thâm Quyến tại Bảo tàng Thâm Quyến. 100 hiện
vật hàng quốc bảo được tuyển chọn từ hơn một vạn hiện vật đã được
phân chia thành 7 nhóm tượng chính yếu. Một. Tượng Tổ sư. Hai.
Tượng. Mật tu bản tôn. Ba. Tượng Phật mẫu. Bốn. Tượng Phật tổ.
Năm. Tượng Bồ tát. Sáu. Tượng La Hán. Bẩy. Tượng Hộ pháp. Nghệ
thuật Phật giáo Tạng truyền mãi mãi là m
ột sức hấp dẫn đầy ma lực của
nghệ thuật Phật giáo. Triển lãm này tiếp sau triển lãm năm 2004 tại
Dung Hòa Cung ở Bắc Kinh đã cho công chúng chiêm ngưỡng vẻ đẹp
của nghệ thuật Phật giáo Tạng truyền. Sự say mê của nghệ thuật Phật

giáo này có phần bởi sự hấp dẫn của những nhân tố giới tính trên hệ
thống đồ tượng,
2. Sự cường điệu giới tính trong nghệ thuật Phật giáo Tạng truyền.
Những bức tượng Phật hiện diện gần như khỏa thân là điều chưa từng
biết đến ở Việt Nam. ở Việt Nam tượng Thích Ca sơ sinh là tượng Phật
hài đồng mới không mặc quần áo. Nhưng hiện nay nhiều chùa bắt
tượng này khoác một chiếc áo choàng. Nên phần đông công chúng tới
thăm triển lãm đều không ít băn khoăn, thậm chí có người còn cho r
ằng
nó không phải là tượng Phật.
Có hai loại tượng gây sốc về giới tính trong triển lãm này: một là tư
ợng
Phật nữ gần như khỏa thân, hai là tượng song thân một nam một nữ
dính chặt vào nhau.
Trước tiên xin đề cập tới tượng Độ mẫu Tara có nguồn gốc từ ấn Độ
sau đó phát triển rất mạnh ở Tây Tạng. Trong triển lãm Ngh
ệ thuật Phật
giáo châu á vừa qua, chú thích ban đầu cho bức tượng chỉ ghi đơn giản
“ tượng Phật” đã làm thắc mắc bao khán giả. Tượng với đôi gò bông
đảo căng phồng, bụng thon mông nở, đùi căng mặt tươi rói gợi cho ta
hình ảnh của một thanh nữ hơn là những khuôn mặt tiết hạnh, trìu mến
ân cần của các tượng Phật bà quan âm. Theo “ Tạo tượng độ kinh”(3)
phần qui định về hình tượng Độ mẫu ghi rõ “ hình tướng nh
ư các cô gái
đồng trinh tuổi mười sáu”. Vẻ đẹp của tượng Độ mẫu làm người viết
không khỏi liên tưởng tới chất nhục cảm của các pho tượng Tứ Pháp
Việt Nam. Nhưng Tây Tạng trong lịch sử không bị sự kiềm tỏa của
Nho giáo như Việt Nam nên chất nhục cảm không phải ẩn giấu mà cứ
phơi phới, hừng hực phô bày. Độ mẫu Phật có nhiều loại theo mỗi mầu
khác nhau mà theo đó có những công năng và ý nghĩa cầu chúc khác

nhau như mầu xanh, mầu trắng mầu đỏ, mầu vàng. Cách biểu thị đa
dạng mầu sắc này cũng lại làm ta nhớ tới cách tô mầu tượng B
à Mây bà
Mưa, Bà Sấm, Bà Chớp trong tín ngư
ỡng Tứ Pháp hay cách tô mầu cho
các vị tượng Mẫu của người Việt (4)
Một pho tượng đồng khá lớn trong triển lãm này cũng làm người xem
bối rối là bức tượng Vajrayogini trong hình ảnh của một cô gái khỏa
thân hiên ngang mạnh mẽ. Đây là một biểu tượng của chiến thắng vô
minh của Phật giáo. Tượng này có khởi nguồn từ ấn Độ khoảng thế kỷ
thứ 10-12. Cũng giống như Tara, hình ảnh của Vajrayogini là một cô
gái 16 tuổi trăng tròn, ngực để trần, căng mọng hiên ngang đứng thẳng
trong quầng lửa mặt hướng lên trời.
So với các nền nghệ thuật Phật giáo trên thế giới, tượng Phật Tạng
truyền rất đàn ông và cũng rất đàn bà. Về điểm này Phật giáo Trung
Hoa lại phát triển theo hướng nhòe mờ giới tính. Các bức tượng không
những bị phủ kín vải vóc mà ngay cả các khuôn mặt các tượng Phật
vốn là nam cũng dần mang chất nữ. Xu hướng suy giảm giới tính này
của nghệ thuật tượng phật Trung Hoa biến chuyển từ Tây sang Đông,
từ Nam Bắc triều đến thời Tống Minh. Chẳng hạn như tượng đức Phật
ở Vân Cương, Đại Đồng tỉnh Sơn Tây thời Bắc Ngụy thì còn vẻ uy
nghi cương nghị của một nam nhi. Càng về sau và càng đi vào sâu
trong lục địa, tượng Phật Trung Hoa càng mềm mại hơn. Khuynh
hướng này cũng đã ảnh hưởng ít nhiều tới tượng Phật Việt Nam. Xu
hướng nữ hóa các tượng Phật về thực chất là sự trung hòa giới tính
trong nghệ thuật Phật giáo thế giới, nó đã diễn ra ở rất nhiều nền nghệ
thuật Phật giáo, kể cả Thái Lan, Lào, Cămpuchia, những đất nước của
Phật giáo tiểu thừa.
Nếu như tượng Độ mẫu hay tượng Quan âm thể hiện sự mềm mại, dịu
dàng của nữ giới thì tượng Kim Cương (Vajrapani) - (5) lại là thái cực

ngư
ợc lại thể hiện sự mạnh mẽ, quyết liệt. “ Vajra nhận lấy đặc tính của
kim cương mà ý nghĩa của nó là đức tính tinh khiết bất diệt, còn gọi là
tri thức tuyệt đối hoặc là tuệ, cắt đứt vô minh”. (6)
Nhóm tượng thứ hai, tượng Song thân Phật phần lớn làm bằng vàng
hay hợp kim vàng là tượng. Song thân Phật hay cũng gọi là tư
ợng Hoan
hỉ Phật là cách gọi không thực sự chuẩn của Trung Quốc đại lục đã từ
lâu. Tượng có cấu trúc của một hình nữ và một nam. Từng có một thời
ở Trung Quốc lục địa gắn cho tượng này với ý nghĩa dâm lạc. Đây là
loại tượng đồ rất tiêu biểu của Phật giáo Tạng truyền, thể hiện sâu sắc
minh triết về giới tính của Phật giáo Mật tông, biểu tượng cho hai nhân
tố âm dương đối đãi, và nó không liên quan gì tới những hành vi dâm
dục của thế tục.
Khi Phật giáo Tạng truyền phát triển mạnh ở các nước phương Tây, thì
một trong những chủ đề được các học giả chú ý là vai trò của nữ giới
trong Phật giáo Tây Tạng. Thật vậy, ngay từ buổi bình minh Phật giáo
ở trên mái nhà thế giới, vai trò của các nữ tu hành đã được đề cao.
Khảo sát về danh xưng các nữ sỹ xuất gia trong tiếng Tạng, bà De Ji
Zhou Ma ( Đắc Cát Trác Ma) phát hiện ra nhiều cách gọi thể hiện sự
tôn kính như btsun-ma ( nữ tôn giả), dg-ma (thiện nữ), jo-mo (Phật
mẫu), ma-jo (thân mẫu), A-n-jo-mo (cô mẫu). Cách gọi kính trọng này
duy chỉ có trong ngôn ngữ Tạng. Cách xưng hô nói lên một nét
văn hóa
bản địa nơi đây và cho chúng ta tin vào những cứ liệu lịch sử rằng Phật
giáo du nhập vào Tây Tạng đầu thế kỷ thứ 7 thì vào giữa thế kỷ thứ 8
đã có nhiều nữ sỹ xuất thân trong các gia đình quyền thế quý tộc xuất
gia tu hành. Vào triều đại của Songtsn Gampo, một đức vua sùng tín
đạo Phật có hai hoàng hậu từ hai nước Phật giáo là Nepan và Đại
Đường Trung Hoa đã làm đạo Phật lan truyền nhanh chóng trong giới

thượng lưu, quyền quý. Tì khâu ni (Bhikkhuni - nữ tu sỹ) kiệt xuất
Zhuo Sa Jiang Ju đã cùng với 30 nữ sỹ xuất gia khác lập nên tăng đoàn
tì khâu ni đầu tiên
ở Tây Tạng. So với một lịch sử non trẻ của Phật giáo
Tây Tạng lúc đó thì đây là một sự kiện trọng đại. Nó cũng là một nhân
tố quan trọng thúc đẩy nghệ thuật Phật giáo Tây Tạng đề cao hình vị trí

nữ giới trong thế giới tôn giáo vốn luôn là nơi ngự trị của các đấng m
ày
râu.
Lý giải về sự xuất hiện đậm nét những biểu hiện giới tính trong Phật
giáo Tây Tạng là một chủ đề lớn mà người viết tự thấy vượt quá khả
năng của mình. Trong phần kết này, tôi xin đư
ợc nhắc đến bối cảnh lịch
sử và vị trí địa lý của Tây Tạng. Khi Phật giáo bắt đầu suy tàn ở ấn Độ
trước sức mạnh của lưỡi gươm của những tên cướp nhân danh Hồi
giáo, Phật giáo đã tìm thấy ở Tây Tạng một nơi trú ngụ vĩnh hằng. Các
hòa thượng ấn Độ đã tìm thấy sức sống mới ở đây, những cô gái Tây
Tạng phải chăng đã thay đổi suy nghĩ của họ về vai trò của nữ giới với
sự phát triển của đạo Phật. Thực ra, ở ấn Độ xu hướng khẳng định
nguyên lý nữ tính (shakti) là lực lượng chủ yếu trong vũ trụ của phái
Kim Cương thừa đã ảnh hưởng rất lớn tới cả nghệ thuật Phật giáo và
Bà la môn giáo từ sau thế kỷ thứ 7. Tây Tạng với điều kiện thiên nhiên
khắc nghiệt với độ cao trung bình là 4900m, có nhiệt độ cao trong mùa
hè nhưng cực lạnh về mùa đông, tỷ lệ tăng dân số thấp. Phật giáo nếu
muốn đứng được ở đây nó không thể đi theo con đường của diệt dục v
à
khổ hạnh. Nó tìm được những ý nghĩa tôn giáo trong cuộc sống thường
nhật và đó cũng là một lý do khiến Latma giáo Tây Tạng có sức hấp
dẫn lớn ở Phương Tây hiện nay.


Trần Hậu Yên Thế
(1) Tác giả không bàn tới niên đại và tính nguyên gốc của bộ sưu tập
trong bài viết này
(2) Zhenyan - Diện mạo Trung Hoa qua các văn vật lịch sử
(3) Tạo tượng lượng độ kinh là sách làm thời Càn Long thứ 7 năm 1742
(4) Nhà nghiên cứu Phan Cẩm Thượng nhắc tôi về những nét tương
đồng giữa nghệ thuật Tây tạng và Việt Nam. Có thể đây cũng là một
hiện tượng cần được khảo cứu thêm
(5) Tượng này gắn bó với Kim Cương thừa khởi nguyên từ ấn Độ do
lấy Vajra (lưỡi tầm sét hoặc kim cương) làm biểu tượng trung tâm
(6) Roy C.Craven. Mỹ thuật ấn Độ NBXB Mỹ thuật tr 209

×