Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

VẺ ĐỘC ĐÁO CỦA KIẾN TRÚC CHÙA ĐẠI BI VÀ THỨC "TIỀN PHẬT HẬU THÁNH" pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.7 KB, 7 trang )

VẺ ĐỘC ĐÁO CỦA KIẾN TRÚC
CHÙA ĐẠI BI VÀ THỨC "TIỀN
PHẬT HẬU THÁNH"


tam quan chùa Đại Bi

Trên một vùng đất rộng và bằng phẳng ở xã Châu Đàm huyện Tây Châu trấn Sơn
Nam (nay là thị trấn Nam Giang huyện Nam Trực tỉnh Nam Định), vào năm
Thông Thụy thứ ba đời vua Lý Thái Tông, thiền sư Từ Đạo Hạnh đã lập nên Đại
Bi tự mà dân gian quen gọi là chùa Bi.

Theo lịch sử thì chùa được xây dựng vào thời Lý trên địa thế đất hình rồng, mà v
ết
tích này còn lại cho đến ngày nay là hai giếng mắt rồng hai bên phía trước ngôi
chùa. Tiếc là ngày nay chỉ còn lại một giếng nằm bên phải chùa, giếng kia đã bị
UBND xã lấp để xây nhà văn hóa. Dấu tích còn lại của ngôi chùa hiện nay phần
lớn mang phong cách thời Lê Mạt và Nguy
ễn, duy có một số chân tảng ở hậu cung
bằng đá chạm khắc hình hoa sen có thể là di tích còn sót lại từ buổi đầu xây dựng.
Các chân tảng này chạm cánh sen kép nhỏ và để trơn. Chùa có dạng mặt bằng
“Nội công ngoại quốc” với 60 gian được xây dựng bằng gỗ, trải rộng theo trục
chính, cao dần từ ngoài vào trong bao gồm tam quan, điện Phật, hành lang tả vũ
hai bên. Điểm kết của thức kiến trúc “Nội công ngoại quốc” này là Gác chuông
được dựng theo lối chồng diêm hai tầng tám mái cong vút lên thanh thoát. Phía
sau gác chuông hiện nay là những công trình mới xây dựng sau này gồm nhà tổ và
tăng phòng.
Tam quan chùa Bi
Không giống với các chùa tiền Phật hậu thánh khác như chùa Thầy (không có tam
quan) hay chùa Keo Hành Thiện, chùa Bối Khê, chùa Láng vừa có tam quan vừa
có nghi môn, chùa Đại Bi chỉ có một tam quan. Nhìn bề ngoài, tam quan này còn


có vẻ khiêm tốn cả về hình thức cũng như kích cỡ và được dựng chếch sang bên
trái so với trục đường thần đạo vào chùa. Tam quan chùa Bi có lối kết cấu vì kèo
ba hàng chân cột. Nhìn một cách tổng quát có thể dễ dàng nhận ra chiều cao mái
tam quan chiếm tỉ lệ 1/2 chiều cao công trình. Điều này cho phép ph
ỏng đoán rằng
tam quan được xây dựng vào cuối thế kỉ XVII, đầu thế kỉ XVIII khi kỹ thuật kiến
trúc dân gian đã ít nhiều hoàn chỉnh. Trên thượng lương của công trình hiện còn
ghi: “Thiên tử vạn niên, tuế thứ ất Sửu trọng đông nguyệt cốc nhất lương thời thụ
trụ thượng lương đại cát” tức “ngày lành, giờ tốt, tháng giữa đông năm ất Sửu,
dựng cột, bắc nóc”. Tuy nhiên, theo văn bia trong chùa thì vào năm Bính Dần
niên hiệu Bảo Đại (1926) tam quan chùa lại được trùng tu, vì vậy ta còn th
ấy nhiều
thành phần kiến trúc gỗ ở đây mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn.
Do được kết cấu dạng vì kèo ba hàng chân cột, nên hai cột cái của hai vì gi
ữa cũng
được xem như cột trụ nóc đỡ thượng lương, hai cột cái của hai bộ vì hai bên thì
thấp hơn. Từ những cột cái này, các nghệ nhân dân gian đã t
ạo ra một hệ thống các
xà nách, các xà nách rường cụt giá chiêng liên k
ết các cột quân kết hợp với các cột
trốn để tạo ra bộ khung của tam quan. Trên bộ khung này, bằng hệ thống bẩy góc,
bẩy hiên và tàu đao mái lá, người ta đã tạo nên độ cong rất đẹp mắt của bốn góc
tam quan tạo vẻ nhẹ nhàng thanh thoát. Từ các hàng cột cái của các bộ vì, ngư
ời ta
đã tạo ra một khung gian giữa lắp cửa dạng bức bàn, còn gian hai bên tạo nên hai
bức tường bằng những hàng chấn song. Phía trên của bộ cửa này người ta ghép
ván để tạo ra những bức chạm giữa xà thượng và xà hạ của bộ khung. Những
chạm khắc độc đáo nhất là những chạm khắc mang phong cách nghệ thuật thế kỉ
XVII, thường là những bức chạm lộng cả hai bên để khi bước qua tam quan, ngư
ời

ta có thể nhìn được cả mặt trước và mặt sau của nó. Ví như bức chạm khắc hình lá
cúc mang tính cách điệu cao được thể hiện khá tự do, thoải mái; trên đỉnh của h
ình
chạm là hình tượng một người phụ nữ trong tư thế hai tay chắp trước ngực. Mảng
chạm này khiến ta liên tưởng tới những mảng chạm ở đình Hưng Lộc – Nam Định
có niên đại cuối thế kỉ XVII có chung chủ đề. Ngo
ài ra trên ván xà, xà nách và các
đầu dư ta còn thấy sự hiện diện của những hình rồng, phượng có cùng phong cách
chạm khắc.
Xen kẽ với những mảng chạm mang phong các Hậu Lê là những hình khắc mang
dấu ấn nghệ thuật Nguyễn. Hình ảnh “Rồng ngậm chữ thọ” hay chim phượng, hoa
lá cách điệu… khiến đề tài chạm khắc ở tam quan phong phú và sinh động. Phía
ngoài của tam quan, cùng với việc tạo ra những con vật linh giống với thức kiến
trúc ở đình làng, thì ở khu đĩ của mái, người ta tạo ra một mặt hổ phù bằng sắt
đậm dấu ấn thời Nguyễn. Có thể thấy tam quan chùa Đại Bi là một công trình ki
ến
trúc đặc sắc trong tổng thể di tích.
Thiết kế chữ công độc đáo của Thượng điện
Trung tâm chùa là điện Phật. Thoạt nhìn, ta có thể thấy điện thờ Phật chùa Đại Bi
được xây dựng theo dạng mặt bằng hình chữ công. Nhưng sau khi quan sát kĩ, thì
dạng chữ công của Đại Bi tự dường như khác hoàn toàn với cách kết cấu của các
ngôi chùa khác. Đó là cách thiết kế ba tòa nhà hoàn toàn độc lập nhưng đư
ợc ghép
lại với nhau thành dạng mặt bằng hình chữ công.
Trong một thiết kế chữ công bình thường, gian ống muống (tòa Thiêu Hương)
thường chỉ có 2-3 hàng chân cột. Nhưng ở đây ta lại thấy một tòa thiêu hương độc
lập rộng hơn rất nhiều cả về chiều dài lẫn chiều rộng so với một gian ống muống
thông thường. Đồng thời việc thiết kế hệ thống các cửa bức bàn có chấn song
khiến cho ánh sáng tự nhiên lọt vào đã làm cho không gian của tòa thiêu hương
này một không gian thoáng đãng và r

ực rỡ. Để khắc phục tính chất độc lập của các
ngôi nhà không nối mái, giữa các gian tiền đường, thiêu hương thượng điện, ngư
ời
ta đã thiết kế một hệ thống hệ thống ống máng để thoát nước ở điểm nối liền giữa
các tòa nhà.
Như vậy lối kiến trúc rời này đã kiến tạo cho ngôi chùa những giá trị mới, vừa
rộng rãi, thoáng đãng hơn, nhưng cũng vẫn mang dáng nét của một điện thờ Phật
truyền thống. Theo văn bia hiện nay được dựng ở chùa thì toàn bộ điện thờ phật
ngày nay đã được trùng tu sửa mới gần như hoàn toàn trong thế kỷ XIX. Thượng
điện chùa Đại Bi được trùng tu năm 1860, niên hiệu Tự Đức thứ 13. Tiền đường
được sửa chữa năm Bính Tý niên hiệu Tự Đức thứ 29 (1876). Thiêu hương trùng
tu năm Kỷ Sửu niên hiệu Thành Thái (1899). Với niên đại thế kỷ XIX trải dài
trong các năm trùng tu, thì càng cho ta có thể khẳng định rằng cách thiết kế ống
máng giữa các tòa nhà này là một kỹ thuật được kế thừa từ nhu cầu mở rộng
không gian kiến trúc từ cuối thế kỷ XVIII. Điều này có thể nhận thấy những sự
tương đồng trong kiến trúc chùa Kim Liên ở Hồ Tây, Hà Nội. Tuy nhiên chùa Đại
Bi lại hoàn toàn khác với các ngôi chùa c
ủa thế kỷ XVIII, bởi dạng thức chữ công,
tức được dựng lại trên nền xưa của ngôi chùa cũ. Đây cũng là nét độc đáo trong
lịch sử kiến trúc gỗ cổ truyền của người Việt.
Kiến trúc “tiền Phật hậu Thánh”:
Vào thế kỉ XVII, khi các cao tăng có công khai sáng chùa, được truyền thuyết với
phép nhiệm màu, giờ đây trở thành “Đức Thánh” linh thiêng được dành nơi trang
trọng và thâm nghiêm nhất của chùa để thờ. Hình thức chùa Tiền Phật hậu Thánh
ra đời. Cùng do Từ Đạo Hạnh lập ra vào thời Lý và cùng có kiểu kiến trúc “tiền
Phật hậu Thánh”, ta hãy thử liên hệ kiến trúc chùa Đại Bi với kiến trúc chùa Thầy
- nơi có tính chất tương đồng về việc thờ Thánh Từ Đạo Hạnh.
ở chùa Thầy, trên cùng một trục với ban thờ Phật, toàn bộ hậu cung là nơi thờ Từ
Đạo Hạnh. Cung Thánh là một không gian đóng kín, với diện tích nhỏ có v
ẻ huyền

bí, linh thiêng, tượng Từ Đạo Hạnh được bày ở chính giữa, phía sau là tư
ợng Phật.
ở chùa Bi có một sự thay đổi trong cách thức bày đặt tượng Phật. Vì sao lại có sự
biến đổi như vậy?
Thượng điện chùa Bi có kiến trúc khá đặc biệt, được chia làm ba gian: gian giữa
là ban thờ Phật, bên phải ban thờ Phật là ban thờ Quan Âm và bên trái là Cung
thánh tổ thờ đức Từ Đạo Hạnh. Việc đặt gian thờ Thánh Từ đạo Hạnh nép vào m
ột
gian riêng của tòa nhà cuối cùng chắc hẳn là có lý do. Có thể ban đầu chùa Đại Bi
có cách thức sắp xếp hệ thống tượng giống như chùa Thầy, nhưng do những sự
biến động trong tôn giáo tín ngưỡng sau thế kỷ XVII, Phật điện dần trở nên đông
đúc thì nhu cầu về không gian trong chùa cũng thay đổi. Một điểm đặc biệt không
thể không nhắc đến là chùa Đại Bi có nghi lễ riêng thờ Từ Đạo Hạnh, nghi lễ đó
thường diễn ra trong mật thất của ngôi chùa. Do đó, cùng với việc gia tăng của
điện Phật ở thượng điện, họ thiết kế một không gian cho hậu cung thờ Thánh. Hậu
cung này hoàn toàn đóng kín, tách hẳn với ban thờ Phật bởi hệ thống tường và c
ửa
gỗ; ban thờ được đẩy hẳn ra phía trước, cửa chính được sơn son thiếp vàng và
trang trí cầu kì, bên trong đặt di tượng Từ Đạo Hạnh và nhân dân chỉ được phép
thờ vọng từ ngoài vào.
Chùa Bi là một ngôi chùa chung của ba xã Vân Chàng, Giáp Ba và Giáp Tự. Chùa
còn giữ một số mặt nạ rối cổ. Hội chùa hàng năm được tổ chức từ ngày 21 đến 24
tháng Giêng âm lịch, nhân dân ba “giáp” đều về dự lễ hội với các trò chơi đánh
vật, múa sư tử, múa rối (hát sự tích Từ Đạo Hạnh), Từ đêm 21, hát rối được tr
ình
diễn ở trong chùa, trước bàn Tam bảo. Khi biểu diễn thì các cụ mắc tấm màn che
vào hai cây cột giữa tiền đường trong lòng chùa, người cầm rối múa, hát, gõ nhạc
cụ đứng sau tấm màn đó, mặt quay về phía ban thờ Phật và ban thờ đức thánh Từ
Đạo Hạnh (thế nên mới gọi là múa rối hầu thánh, mục đích là để “thánh xem” chứ
không phải chỉ cho “người xem”).

Hầu hết các thành phần kiến trúc trong điện Phật mang phong cách Nguyễn.
Riêng cung thờ Từ Đạo Hạnh còn sót lại một số cấu kiện kiến trúc cuối thế kỉ
XVII. Đó là những mảng chạm khắc độc đáo còn sót lại trên ván bưng. Rất tiếc
bản chạm đã bị tháo dỡ đi một phần nên ta không biết chính xác hoạt cảnh được
chạm trên tác phẩm. Mặc dầu vậy hình ảnh chủ đạo ở đây là hình tượng rồng. Con
rồng phía trước ngẩng đầu về phía hai nhân vật bí ẩn lẫn trong đám cúc, rồng có
năm móng đang nắm một lưỡi đao lửa tựa hình ảnh rồng vuốt râu, từ đầu rồng các
lưỡi đao mác vươn thẳng lên gần như hòa lẫn vào khóm cúc, vượt ra ngoài
“khung” hình bức chạm và làm nền cho các nhân vật. Bên trái, những lưỡi đao lửa
từ đầu rồng phía sau tỏa ra nhiều hướng khác nhau chạy ngang theo mảng chạm
uyển chuyển sinh động, rồng đang ngậm ngọc phía sau như bị cuốn theo, quần tụ
cùng những mảng chạm phía trước. Hình tượng rồng ở đây cho ta liên tưởng tới
truyền thuyết về sự tái sinh của Từ Đạo Hạnh trở thành vua Lý Thần Tông sau
này, làm tăng thêm ý nghĩa cho kiến trúc hậu cung nơi thờ Từ Đạo Hạnh – một
trong ba vị thánh tổ nước ta thời Lý.
Kiến trúc tiền Phật hậu Thánh là thức kiến trúc khá đặc biệt trong kiến trúc Phật
giáo Việt Nam và cho đến nay cũng chưa có một mẫu hình chuẩn về kiểu kiến
trúc này. Cùng với hai chùa Keo Hành Thiện và Keo Thái Bình, chùa Thầy, chùa
Láng… Kiểu thức tiền Phật hậu thánh ở chùa Đại Bi đã làm phong phú thêm cho
loại hình kiến trúc Phật giáo ở đồng bằng Bắc Bộ.
V Ũ THỊ HẰNG
Tài Liệu tham khảo:
1. Chu Quang Trứ, Kiến trúc ngôi chùa trong l
ịch sử Việt Nam, Trích “Tập văn Lễ
Vu lan, mùa báo hiếu báo ân, PL. 2533-1989”.
2. Trang Thanh Hiền, Tam quan chùa Keo Thái Bình - một góc nhìn đ
ối sánh, Tạp
chí Mỹ thuật số 197 (5-2009).
3. Đặng Thị Phong Lan, Nghệ Thuật Kiến Trúc Chùa Thầy Với Phật Giáo Mật
Tông,

4. Vũ Lâm, Về Nam Giang, xem Rối Đầu Gỗ hầu thánh!, TT&VH Cuối tuần.

×