Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

nghiên cứu nuôi trồng nấm bào ngư nhật pleurotus abalonus trên cơ chất vỏ cà phê

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.64 MB, 71 trang )


Đồ án tốt nghiệp – GVHD: Th.S Khúc Thị An

Trần Thị Kim Chi
Lớp 49 Công nghệ sinh học – Đại học Nha Trang


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
VIỆN CÔNG NGHỆ SINH HỌC VÀ MÔI TRƯỜNG
= = = 





 = = =










TRẦN THỊ KIM CHI









NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG NẤM BÀO NGƯ NHẬT
PLEUROTUS ABALONUS TRÊN CƠ CHẤT VỎ CÀ PHÊ






ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH: CÔNG NGHỆ SINH HỌC










Nha Trang, năm 2011


Đồ án tốt nghiệp – GVHD: Th.S Khúc Thị An


Trần Thị Kim Chi
Lớp 49 Công nghệ sinh học – Đại học Nha Trang


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
VIỆN CÔNG NGHỆ SINH HỌC VÀ MÔI TRƯỜNG
= = = 





 = = =









TRẦN THỊ KIM CHI








NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG NẤM BÀO NGƯ NHẬT
PLEUROTUS ABALONUS TRÊN CƠ CHẤT VỎ CÀ PHÊ





ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH: CÔNG NGHỆ SINH HỌC




Cán bộ hướng dẫn:
ThS. KHÚC THỊ AN




Nha Trang, năm 2011


Đồ án tốt nghiệp – GVHD: Th.S Khúc Thị An

Trần Thị Kim Chi
Lớp 49 Công nghệ sinh học – Đại học Nha Trang


LỜI CẢM ƠN

Thế là bốn năm học cũng đã trôi qua thật nhanh, bốn năm với những kỉ
niệm vui buồn có lẽ tôi sẽ không bao giờ có thể quên được, giờ đây khi sắp phải
chia xa với bạn bè với thầy cô, với giảng đường thân thương này trong lòng tôi
lâng lâng một niềm bồi hồi khó tả, xin cám ơn tất cả các thầy cô những người
đang ngày đêm vất vả để dẫn dắt chúng em không những trên con đường học
thức mà còn trong lối sống nhân bản để làm sao trở thành một nhà tri thức có đủ
phẩm chất và năng lực làm việc, thầy cô đã tận tình giúp đỡ chúng em như
những anh chị đi trước truyền đạt kinh nghiệm cho đàn em tạo nên một mối
quan hệ gần gũi thân thương mà những năm học các cấp dưới chúng em không
cảm nhận được, bao nhiêu công ơn đó chúng em sẽ khắc mãi trong tim mình.
Để hoàn thành đề tài này ngoài sự nỗ lực của bản thân, tôi còn được sự
hỗ trợ rất lớn từ nhiều người, tôi chân thành gửi lời cám ơn tới:
Ban lãnh đạo viện Công Nghệ Sinh Học & Môi Trường, các thầy cô
trong bộ môn Công Nghệ Sinh Học, Đại học Nha Trang đã trang bị cho tôi
những kiến thức cơ bản, làm nền móng để tôi thực hiện đề tài và làm tốt công
việc sau này.
Đặc biệt tôi xin gửi lời cám ơn chân thành đến cô Th.S Khúc Thị An, xin
cám ơn cô đã tận tình hướng dẫn và cung cấp cho tôi những tư liệu quý giá, tạo
mọi điều kiện để cho tôi hoàn thành tốt đề tài này.
Cám ơn chị Nhật cán bộ phòng thí nghiệm Công nghệ sinh học đã luôn
giúp đỡ và tạo điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành đợt thực tập.
Các bạn Huyền, Chi, Dung…trong tập thể lớp 49SH, đã động viên giúp
đỡ tôi trong suốt khóa học.
Tôi cũng xin gửi lời cám ơn đến anh Hiến ở trại nấm Suối Tiên đã giúp đỡ
tận tình để tôi hoàn thành tốt đề tài.

Đồ án tốt nghiệp – GVHD: Th.S Khúc Thị An

Trần Thị Kim Chi
Lớp 49 Công nghệ sinh học – Đại học Nha Trang



Và sau hết con xin dành tình cảm thiêng liêng nhất xin cám ơn ba mẹ,
người đã không quản khó khăn vất vả nuôi nấng chúng con thành người, xin cám
ơn sự hi sinh của ba mẹ để con có điều kiện thật tốt để học hành không để con
thiếu thốn gì, những lời động viên an ủi của ba mẹ khi con gặp trở ngại trong
học tập, bế tắc trong cuộc sống là sức mạnh để con quyết tâm hơn mà không nản
lòng chùn bước.Con xin hứa sẽ luôn là người con ngoan của ba mẹ, luôn sống
tốt để không phụ lòng mong mỏi của ba mẹ và sẽ luôn là tấm gương sáng cho
các em.
Tôi xin chân thành cám ơn tất cả những sự giúp đỡ đó.
Nha Trang, tháng 06 năm 2011
Trần Thị Kim Chi










Đồ án tốt nghiệp – GVHD: Th.S Khúc Thị An

Trần Thị Kim Chi
Lớp 49 Công nghệ sinh học – Đại học Nha Trang


MỤC LỤC



Trang
Danh mục chữ viết tắt i
Danh mục bảng ii
Danh mục đồ thị iii
Danh mục hình iv
LỜI MỞ ĐẦU
Phần 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU 1
I. Tổng quan về nấm Bào ngư Nhật ( Pleurotus abalonus) 1
I.1. Vị trí phân loại, chu trình đời sống, hình thái và giá trị dinh dưỡng của
nấm Bào ngư Nhật 1
I.1.1.Vị trí, phân loại 1
I.1.2. Hình thái nấm Bào ngư Nhật 1
I.1.3. Chu trình sống nấm Bào ngư 3
I.2. Nhu cầu dinh dưỡng của nấm Bào ngư Nhật 4
I.3. Giá trị của nấm Bào ngư Nhật 8
I.3.1. Giá trị dinh dưỡng nấm Bào ngư Nhật 8
I.3.2. Giá trị dược liệu nấm Bào ngư 10
I.4. Khả năng chuyển hóa môi trường của nấm Bào ngư 11
I.5. Một số điểm lưu ý khi trồng nấm bào ngư Nhật 13
1.6. Bảo quản chế biến nấm bào ngư Nhật 15
1.6.1 Bảo quản nấm bào ngư Nhật 15
1.6.2. Chế biến nấm bào ngư Nhật 15
I.7 Thực trạng công nghệ sản xuất và chế biến nấm bào ngư Nhật của Việt
Nam và thế giới 16
1.7.1. Tình hình trong nước 16
1.7.2. Tình hình trên thế giới 16
1.7.3. Thị trường tiêu thụ nấm bào ngư Nhật 17
I.8. Tình hình sản xuất và chế biến nấm trên địa bàn tỉnh Gia Lai 18

1.8.1. Thuận lợi 18

Đồ án tốt nghiệp – GVHD: Th.S Khúc Thị An

Trần Thị Kim Chi
Lớp 49 Công nghệ sinh học – Đại học Nha Trang


1.8.2. Khó khăn 18
I.9. Vỏ cà phê 19
I.9.1. Đặc điểm cấu trúc thành phần vỏ cà phê 19
I.9.2 . Thành Phần hóa học trong vỏ cà phê 24
PHẦN 2.VẬT LIỆU & PHƯƠNG PHÁP 25
I. Địa điểm và thời gian thực hiện đề tài 25
I.1. Địa điểm 25
I.2. Thời gian 25
II. Vật liệu và phương pháp 25
II.1. Vật liệu nghiên cứu 25
II.2. Phương pháp nghiên cứu 28
II.2.1. Bố trí thí nghiệm 28
II.2.2. Tính hiệu suất sinh học của nấm bào ngư Nhật trồng trên vỏ cà phê .34
II.2.3. Phương pháp xử lý số liệu 35
PHẦN 3. KẾT QUẢ & THẢO LUẬN 36
I. Tốc độ tăng trưởng hệ sợi nấm của Bào ngư Nhật P. abalonus trên môi
trường thạch (PGA) 36
II. Tốc độ tăng trưởng hệ sợi nấm bào ngư Nhật P. abalonus trên môi trường
hạt lúa 39
III. Tốc độ lan và đặc điểm tơ nấm bào ngư Nhật P. abalonus trên môi trường
cọng mì 43
III. Nuôi trồng thử nghiệm 47

III.1. Tốc độ tăng trưởng hệ sợi nấm Nhật P. abalonus trên môi trường giá
thể tổng hợp 47
III.2 Sự tạo quả thể 48
PHẦN 4. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 53
4.1. Kết luận 53
4.2.Kiến nghị 54
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


Đồ án tốt nghiệp – GVHD: Th.S Khúc Thị An

Trần Thị Kim Chi
Lớp 49 Công nghệ sinh học – Đại học Nha Trang


CHỮ VIẾT TẮT


P. eryngii, P. e : Pleurotus eryngii
P. abalonus : Pleurotus abalonus
P. ostreatus : Pleurotus ostreatus
P. sapidus : Pleurotus sapidus
P. sajor-caju : Pleurotus sajorcaju
P. florida : Pleurotus florida
PE : Polyetylen

PGA : Potato Glucose Agar
Pleurotus spp : Pleurotus special plural
Pleurotus sp, P. sp : Pleurotus special

PP : Polypropylen
DAP : Diamino phosphate







i

Đồ án tốt nghiệp – GVHD: Th.S Khúc Thị An

Trần Thị Kim Chi
Lớp 49 Công nghệ sinh học – Đại học Nha Trang


DANH MỤC BẢNG


Trang

Bảng 1. Nguồn đạm bổ sung thích hợp trên mỗi loài nấm của nhiều tác giả khác nhau 5
Bảng 2: Nhiệt độ thích hợp cho ủ tơ và ra quả thể của vài loài nấm bào ngư 7
Bảng 3: Độ ẩm thích hợp cho sự phát triển của nấm bào ngư 8
Bảng 4: Thành phần dinh dưỡng của một số loài nấm Bào ngư (%) 9
Bảng 5. Thành phần các chất trong vỏ cà phê 24
Bảng 7. Thành phần môi trường nhân giống cấp 3 30
Bảng 8. Thành phần môi trường cơ chất tổng hợp 32
Bảng 9. Tốc độ sinh trưởng hệ sợi nấm Bào ngư P. abalonus trên môi trường

thạch PGA 36
Bảng 10. Tốc độ sinh trưởng hệ sợi (mm) của nấm bào ngư Nhật P. abalonus
trên môi trường hạt lúa 40
Bảng 11:Tốc độ tăng trưởng của hệ sợi nấm bào ngư Nhật P. abalonus trên môi
trường cọng 44
Bảng 12. Tốc độ tăng trưởng hệ sợi nấm Bào ngư Nhật P. abalonus trên cơ chất
tổng hợp vỏ cà phê 47




ii

Đồ án tốt nghiệp – GVHD: Th.S Khúc Thị An

Trần Thị Kim Chi
Lớp 49 Công nghệ sinh học – Đại học Nha Trang


DANH MỤC ĐỒ THỊ

Trang

Đồ thị 1: Tốc độ tăng trưởng của hệ sợi nấm bào ngư Nhật trên môi trường thạch PGA 36
Đồ thị 2. Tốc độ lan tơ của nấm Bào ngư Nhật P. abalonus trên môi trường hạt
lúa (mm/ngày) 40
Đồ thị 3 : Tốc độ tăng trưởng của hệ sợi nấm bào ngư Nhật P. abalonus trên môi
trường cọng mì 44
Đồ thị 4 : Tốc độ tăng trưởng của hệ sợi nấm bào ngư Nhật P. Abalonus trên cơ
chất tổng hợp vỏ cà phê 47












iii

Đồ án tốt nghiệp – GVHD: Th.S Khúc Thị An

Trần Thị Kim Chi
Lớp 49 Công nghệ sinh học – Đại học Nha Trang



DANH MỤC HÌNH
Trang

Hình 1. Các giai đoạn phát triển của quả thể nấm Bào ngư 2
Hình 2 : Nấm bào ngư Nhật (Pleurotus abalonus ) 2
Hình 3. Chu trình sống của nấm Bào ngư Nhật 4
Hình 4: Công thức hóa học của pleurotin 10
Hình 5: Tai nấm bị khô quéo 13
Hình 6: Bề mặt mũ nấm bị bíến dạng do nhiễm phèn 14
Hình 7: Cấu trúc phân tử cellulose 21

Hình 8: Tủ cấy đơn giản 26
Hình 9: Lò hấp bịch meo giống 26
Hình 10: Cấu tạo của lò hấp khử trùng 27
Hình 11: Lò hấp bịch phôi 27
Hình 12: Phân lập giống từ tổ chức mô của nấm bào ngư 29
Hình 13: Nhân giống cấp hai 30
Hình 14: Cấy giống từ chai giống cấp hai sang chai giống cấp ba 31
Hình 18: Tạo lỗ hình nón ở giữa bịch phôi 33
Hình 19: Tiến hành ủ vỏ cà phê 34
Hình 20: Xếp bịch phôi lên kệ và ủ 34
Hình 21: Tơ nấm bào ngư Nhật xuất hiện dịch đen 38
Hình 22: Tơ nấm bào ngư nhật trên môi trường thạch PGA 39
Hình 23: Tơ nấm bào ngư Nhật trong môi trường hạt 42
Hình 24: Tơ nấm bào ngư Nhật xuất hiện dịch đen 43
Hình 26: Tơ nấm bào ngư Nhật trên môi trường cọng mì 46
Hình 27:Bịch phôi nấm bào ngư Nhật trồng trên cơ chất vỏ cà phê 49
Hình 28: Các dạng quả thể nấm bào ngư Nhật trên vỏ cà phê 50


iv

Đồ án tốt nghiệp – GVHD: Th.S Khúc Thị An

Trần Thị Kim Chi
Lớp 49 Công nghệ sinh học – Đại học Nha Trang


LỜI MỞ ĐẦU
Trong những năm gần đây nấm ăn được người tiêu dùng xem như loại rau
sạch và an toàn, giàu dinh dưỡng nên được tiêu thụ mạnh.Chính vì thế nghề trồng

nấm ở nước ta ngày càng trở nên phổ biến, góp phần tạo công ăn việc làm ổn định
cho nhiều lao động ở nông thôn.Sản lượng nấm hàng năm của nước ta khoảng 150
nghìn tấn/năm.Nhu cầu tiêu thụ các loại nấm ăn và nấm dược liệu trong đó có nấm
bào ngư ngày càng lớn, nhất là các khu đô thị, thành phố lớn.Nhu cầu về nấm ăn và
nấm dược liệu trên thế giới còn rất lớn, hàng năm trên thị trường tiêu thụ hàng triệu
tấn nấm điển hình là Mỹ, Italia, Anh, Ailen, Đài loan Mỗi năm nước ta xuất khẩu
khoảng vài trăm tấn, khu vực xuất khẩu có sản lượng nấm lớn là đồng bằng Nam
Bộ, giá bán xuất khẩu tùy vào từng loại nấm và chất lượng nấm với khoảng từ 3 – 7
USD/kg.Ở nước ta nấm là một trong những mặt hàng có tỉ trọng, giá trị xuất khẩu
cao trong nhóm các mặt hàng thực phẩm rau, củ, quả.
Sản phẩm nấm Bào ngư Nhật là một trong những mặt hàng nấm xuất khẩu
có giá trị cao, có thị trường tiêu thụ rộng lớn ít bị cạnh tranh.Loại nấm này có nhiều
đặc tính ưu việt hơn các loại nấm bào ngư khác như chân nấm to hơn, tai dày hơn,
vị giòn và thơm, chứa hàm lượng dinh dưỡng cao, và không bị dập nát trong quá
trình vận chuyển.Chính vì thế loại nấm này đang được phát triển ở nước ta.
Nước ta là một nước nông nghiệp với nguồn phế phụ phẩm giàu xenlulozo
và lignin phong phú nên nguyên liệu để trồng nấm vô cùng dồi dào trong đó vỏ cà
phê là một phế phụ phẩm có trữ lượng rất lớn.Nước ta là một trong những nước có
sản lượng cà phê cao trên thế giới chính vì thế phế thải từ cà phê cũng vô cùng
lớn.Hàng năm có hàng trăm tấn vỏ cà phê được thải ra tuy nhiên nguồn phế phụ
phẩm này vẫn chưa được xử lý đích đáng.
Cà phê là mặt hàng chủ lực chiếm giá trị kim ngạch xuất khẩu lớn trên địa
bàn Gia Lai. Toàn tỉnh hiện có khoảng 76.000 ha cà phê, dự kiến diện tích cây cà
phê đến năm 2015 là 77.000 ha, trong đó diện tích cho thu hoạch đạt 76.400 ha, sản
lượng đạt 177.700 tấn/năm, vỏ cà phê chiếm khoảng 40-45% trọng lượng hạt cà
phê. Nên số lượng vỏ cà phê thải ra khoảng 89.000 tấn/năm. So với các phế phẩm

Đồ án tốt nghiệp – GVHD: Th.S Khúc Thị An

Trần Thị Kim Chi

Lớp 49 Công nghệ sinh học – Đại học Nha Trang


nông nghiệp khác, chất thải này phân hủy lâu hơn, gây ô nhiễm môi trường, đây là
nguồn phế thải quan trọng. Trong khi các nước trên thế giới đã có những công trình
xử lý vỏ cà phê để sản xuất thức ăn cho gia súc gia cầm, trồng nấm ăn, ứng dụng lên
men tạo phân bón; sản xuất hương thơm tự nhiên, nghiên cứu ứng dụng nhiệt
năng thì ở nước ta, rất ít công trình nghiên cứu đến việc ứng dụng của phế phẩm này.
Người nông dân nước ta thường đem đốt vỏ cà phê thành tro hoặc đổ hết ra
vườn, phế thải này chậm phân hủy nên phát sinh nhiều mầm bệnh gây ô nhiễm môi
trường. Vậy để khắc phục được điều này, biện pháp kinh tế và an tòan hơn cả là tận
dụng vỏ cà phê làm môi trường nuôi trồng nấm sẽ góp phần quan trọng trong việc
xử lý vỏ cà phê và góp phần bảo vệ môi trường. Do đó chúng tôi thực hiện đề tài:
“Nghiên cứu nuôi trồng nấm bào ngư Nhật P. abalonus trên cơ chất vỏ cà phê ”
nhằm mục đích:
1. Chuyển hóa vỏ cà phê thành cơ chất dinh dưỡng để nuôi trồng nấm bào
ngư Nhật.
2. Xây dựng quy trình trồng nấm bào ngư Nhật phù hợp với thực tế tình
hình nguyên liệu vỏ cà phê ở Gia Lai.
3. Góp phần giảm thiểu các vấn đề ô nhiễm môi trường do vỏ cà phê gây ra.


Đồ án tốt nghiệp – GVHD: Th.S Khúc Thị An

Trần Thị Kim Chi
Lớp 49 Công nghệ sinh học – Đại học Nha Trang
1

Phần 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU


I. Tổng quan về nấm Bào ngư Nhật ( Pleurotus abalonus)
I.1. Vị trí phân loại, chu trình đời sống, hình thái và giá trị dinh dưỡng của nấm
Bào ngư Nhật
I.1.1.Vị trí, phân loại
Nấm Bào ngư Nhật (còn gọi là nấm bào ngư chân dày, nấm đùi gà) thuộc chi
Pleurotus, họ Pleurotaceae, bộ Agaricales, lớp phụ Hymenomycetidae, lớp
Hymenomycetes, ngành phụ Basidiomycotina, ngành nấm thật Eumycota, giới nấm
Mycota hay Fungi.
Có khoảng 39 loài nấm Bào ngư khác nhau và chia thành 4 nhóm, trong đó
có 2 nhóm lớn:
• Nhóm ôn hòa (ưa nhiệt trung bình), kết quả thể ở 10 – 20
0
C.
• Nhóm “ưa nhiệt”, kết quả thể ở 20 – 30
0
C
Ở Việt Nam, cho đến nay đã ghi nhận khoảng 15 loài nấm bào ngư [Trịnh
Tam Kiệt, 1998; Lê Duy Thắng, 1999] P. abalonus, P. cornucopia, P. cytidiosus,
P. djamor, P. eryngii, P. floridanus, P. globulifer, P. limpidus, P. ostreatus, P.
pulmonarius, P. sajor-caju, P. salmoneostramineus, P. spicilifer, P. versiformis, và
một số loài đang xếp trong các chi gần gũi khác thì số loài nấm Bào ngư ở Việt nam
có thể vượt quá 15.
I.1.2. Hình thái nấm Bào ngư Nhật
Nấm Bào ngư Nhật có đặc điểm là tai nấm dạng phễu lệch, phiến mang bào
tử kéo dài xuống chân. Cuống nấm gần gốc có lớp lông mịn. Tai nấm còn non có
màu sắc tối, nhưng khi trưởng thành màu trở nên sáng hơn. Gặp điều kiện nuôi cấy
không thích hợp nấm Bào ngư Nhật có thể mọc thành các dạng dị hình. Quả thể
nấm Bào ngư Nhật phát triển qua nhiều giai đoạn, dựa theo hình dạng tai nấm mà có
tên gọi cho từng giai đoạn (hình 1).



Đồ án tốt nghiệp – GVHD: Th.S Khúc Thị An

Trần Thị Kim Chi
Lớp 49 Công nghệ sinh học – Đại học Nha Trang
2


Hình 1. Các giai đoạn phát triển của quả thể nấm Bào ngư
• Dạng san hô (hình 1a): quả thể mới tạo thành, dạng sợi mảnh hình chum.
• Dạng dùi trống (hình 1b): mũ xuất hiện dưới dạng khối tròn, còn cuống
phát triển cả về chiều ngang và chiều dài nên đường kính cuống và mũ không khác
bao nhiêu.
• Dạng phễu (hình 1c): mũ mở rộng, trong khi cuống còn ở giữa (giống cái phễu).
• Dạng bán cầu lệch (hình 1d): cuống lớn nhanh một bên và bắt đầu lệch so
với vị trí trung tâm của mũ.
• Dạng lá lục bình (hình 1e): cuống ngừng tăng trưởng, trong khi mũ vẫn
tiếp tục phát triển, bìa mép thẳng đến dợn sóng.
Từ giai đoạn phễu sang bán cầu lệch có sự biến đổi về chất (giá trị dinh
dưỡng), còn từ giai đoạn bán cầu lệch sang dạng lá có sự nhảy vọt về khối lượng
(trọng lượng tăng), sau đó giảm dần. Vì vậy, thu hái nấm Bào ngư Nhật nên chọn
lúc tai nấm vừa chuyển sang dạng lá.

Hình 2 : Nấm bào ngư Nhật (Pleurotus abalonus )

Đồ án tốt nghiệp – GVHD: Th.S Khúc Thị An

Trần Thị Kim Chi
Lớp 49 Công nghệ sinh học – Đại học Nha Trang
3


I.1.3. Chu trình sống nấm Bào ngư
Chu trình sống của nấm Bào ngư Nhật cũng như các loài nấm đảm khác, bắt
đầu từ đảm bào tử hữu tính, nảy mầm cho hệ sợi tơ dinh dưỡng (sơ và thứ cấp).
“Kết thúc” bằng việc hình thành cơ quan sinh sản là tai nấm. Tai nấm sinh ra các
đảm bào tử và chu trình lại tiếp tục.
Bào tử đảm gặp điều kiện thuận lợi sẽ nảy mầm, hình thành sợi sơ cấp với
các tế bào đơn nhân, đơn bội (n). Sợi sơ cấp tồn tại ngắn trong chu trình sống. Sau
đó chúng mau chóng tiếp xúc với sợi khác tính, giao phối sinh chất, song hạch hóa
để tạo ra sợi song nhân đơn bội (n + n) – sợi thứ cấp.
Sợi thứ cấp phát triển rất mạnh và tồn tại lâu dài trong chu trình sống. Ở
phần lớn các loài, tế bào đỉnh sẽ hình thành tế bào mấu nhỏ – thường gọi là khóa
hay cầu nối giữa 2 nhân khác tính. Sau đó các nhân khác tính này đều phân chia
nguyên nhiễm 1 lần để tạo thành 4 nhân con, 2 nhân khác tính trong 4 nhân con ở
lại đỉnh sợi, 1 trong 4 nhân đi vào mấu, 1 trong 4 nhân còn lại đi xuống gốc tế bào,
song song với quá trình nó hình thành nên 2 vách ngăn để tạo thành 3 tế bào: tế bào
đỉnh với 2 nhân đơn bội khác tính, tế bào mấu và tế bào gốc hòa tan màng với nhau,
để tạo thành 1 tế bào song nhân đơn bội, dấu tích tế bào mấu để lại gọi là khóa.
Tế bào đỉnh với 2 nhân đơn bội trở thành tế bào mẹ của đảm khi 2 nhân đơn
bội, khác tính kết hợp với nhau để tạo thành 1 nhân lưỡng bội. Nhân lưỡng bội tồn
tại trong thời gian rất ngắn, sau đó chúng phân chia liên tục 2 lần, lần đầu giảm
nhiễm, để tạo thành 4 nhân đơn bội – song song với quá trình này là tế bào đỉnh lớn
lên và được gọi là tế bào tiền đảm. Sau đó tế bào tiền đảm hình thành 4 mấu lồi ở
đỉnh, mỗi nhân con cùng với một ít nguyên sinh chất của tế bào đỉnh chuyển vận
vào trong mấu lồi và cuối cùng tạo thành bào từ đảm. Các bào tử đảm được hình
thành bên ngoài đảm, nên khi chín mùi sinh lý được phát tán một cách chủ động vào
môi trường.
Các đảm có thể được sắp xếp thành dạng bờ dậu trên mặt giá thể (trường hợp
các nấm đảm không hình thành thể sinh sản trong chu trình sống) hoặc tập trung
thành lớp sinh sản trong thể sinh sản – quả thể (Hình 2).


Đồ án tốt nghiệp – GVHD: Th.S Khúc Thị An

Trần Thị Kim Chi
Lớp 49 Công nghệ sinh học – Đại học Nha Trang
4


Hình 3. Chu trình sống của nấm Bào ngư Nhật

I.2. Nhu cầu dinh dưỡng của nấm Bào ngư Nhật
Nấm sử dụng nitơ để cấu tạo nên màng sợi nấm dưới dạng các hợp chất
kitin. Ngoài ra, còn tham gia vào thành phần cấu trúc của tế bào, cơ thể dưới dạng
protein, coenzyme… Do đó, nguồn nitơ còn phụ thuộc vào hydrate carbon và các
yếu tố trong quá trình nuôi cấy.
Đối với nấm Bào ngư là loài có khả năng sử dụng lignin mạnh, nhất là thời
gian khởi đầu của việc tạo quả thể nấm. Thí nghiệm của Zadrazil (1980) cho thấy
hầu hết các cơ chất nuôi trồng nấm Bào ngư đều có sự giảm lignin một cách đáng kể.
Ở gỗ mà nấm thường mọc, hầu như rất nghèo đạm. Vì vậy, để nấm mọc tốt
cần có thêm nguồn đạm thích hợp. Nhiều thí nghiệm bổ sung muối Nitrat, muối
Amonium và Urea cho thấy: tơ nấm tăng trưởng tốt nhất trên nguyên liệu có thêm
Urea. Bột đậu nành, bột lông vũ cũng là nguồn bổ sung rất tốt cho Bào ngư. Ngoài
ra, mỗi tác giả cũng tìm thấy một loại đạm thích hợp cho nấm.
Martínez MJ và cộng sự (1990) tiến hành khảo sát khả năng sinh enzyme
Manganese peroxydase của P. eryngii thì cho thấy: khi dùng Ammonium tartrate
làm nguồn nitơ thì khả năng sinh enzyme này hầu như không có, thay vào đó, nếu
dùng N – base thì hàm lượng enzyme này sinh ra rất cao, lên tới 3 U/ml dịch nuôi cấy.

Đồ án tốt nghiệp – GVHD: Th.S Khúc Thị An


Trần Thị Kim Chi
Lớp 49 Công nghệ sinh học – Đại học Nha Trang
5

Shoji Ohga (1998) đã nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng các loài mùn
cưa của nhiều loại gỗ khác nhau làm cơ chất trồng P. eryngii. Kết quả cho thấy
trồng trên mùn cưa từ cây Gryptomeria japonica là tốt nhất và trên Larix kaempferi
là kém nhất, thế nhưng kết quả chỉ ra rằng không có loại gỗ nào hoàn toàn không
phù hợp, mở ra triển vọng hàng loạt các loại gỗ có thể được sử dụng làm cơ chất
trồng nấm P. eryngii.
Nguồn đạm thích hợp nhất cho sự tăng trưởng của Bào ngư theo các tác giả
khác nhau (bảng 1).
Bảng 1. Nguồn đạm bổ sung thích hợp trên mỗi loài nấm của nhiều tác giả khác nhau

Nguồn đạm
Công thức
hóa học
Nấm trồng Tác giả
Ammonium phosphate

(NH
4
)
2
PO
4
P. ostreatus Hong (1978)
Ammonium (NH
4
)

2
C
4
H
4
O
6
P. ostreatus Hashimoto &Takahashin (1976)
Ammonium (NH
4
)
2
HC
6
H
5
O
7
P. ostreatus Voltz (1972)
Potassium nitrate KNO
3
P. sajor-caju Giandaik & kapoor (1976)
P. ostreatus Hashimoto & Takahashin (1976)

Peptone
P. ostreatus Hong (1978) & Sugimori (1971)
Urea NH
2
CONH
2

P. florida Voltz (1972) & Eger (1970)
(Nguồn: Nguyễn Lân Dũng, 2001)
Tuy nhiên, khi trồng trên nguyên liệu chưa khử trùng thì nhiều tác giả cho
rằng không nhất thiết phải bổ sung đạm, chính các vi sinh vật cố định đạm trong
không khí làm tăng nguồn đạm cho nấm Bào ngư. Điều này còn phải kiểm tra lại.
Do đó, tùy cách xử lý nguyên liệu (thanh trùng kỹ ở nhiệt độ cao hay chỉ hấp
Pasteur ở nhiệt độ thấp, có lên men hay không ) mà tính đến việc bổ sung đạm vào
cơ chất.
Tỷ lệ nguồn cacbon đối với đạm (C/N) tốt nhất là khoảng 20 – 30 và không
quá 50.
Đối với nguồn khoáng, chủ yếu các muối vô cơ, thì tác dụng lên sự tăng
trưởng không nhiều lắm, theo Kurtzman, nó làm nấm kết quả thể sớm hơn bình

Đồ án tốt nghiệp – GVHD: Th.S Khúc Thị An

Trần Thị Kim Chi
Lớp 49 Công nghệ sinh học – Đại học Nha Trang
6

thường. Nấm Bào ngư có thể cho quả thể sớm hơn bình thường 10 ngày khi thêm
KCl.Nếu thêm vào cơ chất: NaCl, MgCl
2
hoặc CaCl
2
, P. ostreatus kết quả thể sớm
hơn 5 ngày hoặc P. sapidus sớm hơn 2 ngày khi bổ sung MgCl
2
.
Năm 2006, Rodriguez A. E. Estrada và cộng sự đã nghiên cứu trên cơ chất
chứa 62% hạt bông vải, 27% mùn cưa, 6% đậu tương, 4% bột ngô, 1% CaSO

4
, thì
việc bổ sung 150 – 250 µg Mn và 4 – 12% Cu thì tốc độ phát triển, năng suất và khả
năng kháng bệnh của P. eryngii là cao hơn so với việc không bổ sung hay bổ sung
với lượng Cu < 8% và Mn < 150µg.
Năm 2007, JIN Ping và cộng sự qua nghiên cứu đã kết luận rằng nguồn C và
N bổ sung tốt nhất là từ bột bắp và NH
4
Cl, KH
2
PO
4
là muối khoáng phù hợp nhất,
tiếp theo là MgSO
4
.7H
2
O. Tỷ lệ phối trộn phù hợp nhất theo nhóm tác giả là bột bắp
5%, NH
4
Cl 0,3%, KH
2
PO
4
0,05% và MgSO
4
.7H
2
O 0,15%.
Ngoài các chất dinh dưỡng, sự tăng trưởng và phát triển của nấm còn liên

quan đến nhiều yếu tố khác của môi trường như: nhiệt độ, ẩm độ, pH, ánh sáng, oxy.
Năm 1998, Lewinsohn D. và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu tốc độ sinh
trưởng trên 60 kiểu gen của loài P. eryngii ở Israel trong khoảng nhiệt độ từ 4 –
37
0
C thì cho kết quả nấm phát triển tốt ở 27
0
C, nhóm tác giả đã so sánh với 12 kiểu
gen cùng loài ở Châu Âu ở cùng nhiệt độ 27
0
C, kết quả những loài ở Châu Âu có
tốc độ phát triển cao hơn so với những loài ở Israel, tuy nhiên khi khảo sát ở nhiệt
độ 37
0
C thì P. eryngii phát triển mạnh và khả năng phục hồi tốt hơn khi đưa về
nhiệt độ 27
0
C. Nhóm tác giả đã kết luận các kiểu gen của P. eryngii ở Israel thích
nghi với khí hậu nóng và khô tốt hơn các kiểu gen ở Châu Âu.
Năm 2005, Zadrazil F. đã khảo sát sự ảnh hưởng của nồng độ CO
2
lên sự
phát triển của tơ nấm, kết quả chỉ ra rằng:
 Tăng nồng độ CO
2
trong không khí có tác động tích cực cho sự phát triển
tơ nấm.
 Nồng độ CO
2
tối ưu là từ 16 – 22%.

 Với nồng độ CO
2
> 36% sẽ gây ức chế sự phát triển của tơ nấm.

Đồ án tốt nghiệp – GVHD: Th.S Khúc Thị An

Trần Thị Kim Chi
Lớp 49 Công nghệ sinh học – Đại học Nha Trang
7

Độ ẩm cũng rất quan trọng đối với sự phát triển của quả thể. Trong thời kỳ
tưới đón nấm, độ ẩm không khí không được dưới 70%, tốt nhất ở 70 – 95%. Độ ẩm
thấp hơn 70% quả thể bị vàng và khô mép. Ở 50% nấm ngừng phát triển và chết,
dạng bán cầu lệch và dạng lá bị khô mặt và cháy vàng ở bìa mép mũ nấm. Ngược
lại, độ ẩm cao (95%) chưa hẳn đã tốt cho nấm, tai nấm dễ bị nhũn và rũ xuống.
Bảng 2: Nhiệt độ thích hợp cho ủ tơ và ra quả thể của vài loài nấm bào ngư
Loài nấm bào ngư Nhiệt độ thích
hợp cho sự lan tơ
Nhiệt độ thích
hợp ra nấm
Nhiệt độ thích
hợp sản xuất
P.ostreatus
P.florida
P.sajor-caju
P.cortinatus
P.cystidionsus
P.flabellatus
P.eryngii


P.tuber-regium
P.abolonus
P.cornucopiae

20 – 30
0
C
25 – 30
0
C
25 – 30
0
C
27 – 32
0
C
27 – 32
0
C
20 – 28
0
C
20 – 30
0
C
35
0
C
27 – 32
0

C
25
0
C
15
0
C
20
0
C
25
0
C
28
0
C
25 – 28
0
C
20 – 25
0
C
20 – 22
0
C
28 – 30
0
C
25 - 28
0

C
15 – 25
0
C
20
0
C ± 5
0
C
25
0
C ± 5
0
C
30
0
C ± 5
0
C
30
0
C ± 5
0
C
30
0
C ± 5
0
C
25

0
C ± 5
0
C
25
0
C ± 5
0
C

30
0
C ±5
0
C
20
0
C ± 5
0
C
[Nguồn : Lê Duy Thắng, 1999]
Cơ chất khi chế biến thường có những biến đổi về pH. Đối với nấm bào ngư
Nhật, khả năng chịu đựng sự giao động pH tương đối tốt, pH môi trường có thể
giảm xuống 4,4 hoặc tăng lên 9 thì tơ nấm vẫn mọc được. Tuy nhiên pH thích hợp
đối với hầu hết các loài nấm bào ngư trong khoảng 5 – 7, pH thấp làm quả thể
không hình thành và ngược lại pH quá kiềm tai nấm bị dị hình.
Philippoussis A. và cộng sự (2001) đã tiến hành trồng P. eryngii trên 3 môi
trường cơ chất khác nhau là môi trường rơm lúa mì, bông phế thải và vỏ hạt đậu
phụng. Kết quả cho thấy tốc độ phát triển tốt nhất là trên môi trường rơm lúa mì.


Đồ án tốt nghiệp – GVHD: Th.S Khúc Thị An

Trần Thị Kim Chi
Lớp 49 Công nghệ sinh học – Đại học Nha Trang
8

Bảng 3: Độ ẩm thích hợp cho sự phát triển của nấm bào ngư
Độ ẩm tương đối (%) của không khí
Loài nấm

Độ ẩm thích hợp
của cơ chất (%)
Thích hợp cho sự
sinh trưởng của hệ
sợi nấm
Thích hợp cho sự
phát triển của quả
nấm
P.abalonus
P.sajor-caju
P.ostreatus
60-70
70
60-70
70-80
70-80
70-80
90
80-95
85-90

[Nguồn : Lê Duy Thắng, 1999]
Ánh sáng: yếu tố này chỉ cần thiết trong giai đoạn ra quả thể nhằm kích thích
nụ nấm phát triển. Nhà nuôi trồng nấm cần có ánh sáng khoảng 200 – 300 lux (ánh
sáng khuếch tán – ánh sáng phòng). Còn ánh sánh yếu làm chân nấm dài ra và mũ hẹp.
I.3. Giá trị của nấm Bào ngư Nhật
I.3.1. Giá trị dinh dưỡng nấm Bào ngư Nhật
Nấm bào ngư Nhật có mùi thơm của quả hạnh, vị ngọt và giòn của bào ngư.
Dinh dưỡng nấm bào ngư Nhật rất cao không kém hơn dinh dưỡng các sản phẩm từ
động vật. Kết quả phân tích cho thấy nấm bào ngư Nhật có hàm lượng protein
chiếm khoảng 25%, đặc biệt có chứa hơn 18 loại acid amin, ngoài ra còn có
carbohydrate, nhiều vitamin và các khoáng chất khác. Sử dụng nấm không những
không tăng cân mà còn ngăn ngừa một số bệnh như: giảm cholesterol trong máu,
tiểu đường, béo phì, đau bao tử, rối loạn gan, ung thư, v.v , đồng thời người ăn nấm
thường xuyên sẽ giúp cơ thể tăng tính miễn dịch, điều hòa huyết áp, dễ tiêu hóa và
chống lão hóa.
Nấm ăn nói chung và nấm bào ngư nói riêng là loại thực phẩm có giá trị
dinh dưỡng cao. Hàm lượng protein chỉ đứng sau thịt, cá, giàu các chất khoáng và
các acid amin tan trong nước, các acid amin không thay thế như lyzin, tryptophan,
các acid amin chứa nhóm lưu huỳnh. Ngoài ra chúng còn chứa một lượng lớn các
vitamin quan trọng.

Đồ án tốt nghiệp – GVHD: Th.S Khúc Thị An

Trần Thị Kim Chi
Lớp 49 Công nghệ sinh học – Đại học Nha Trang
9

Thành phần các chất dinh dưỡng chính của một số loài nấm Bào ngư bao
gồm: carbonhydrate, protein, amino acid, chất béo, khoáng chất, hoạt chất và các
vitamin được nhiều nhà dinh dưỡng học quan tâm nghiên cứu, nhằm đánh giá vai

trò của nấm như nguồn thực phẩm cho con người.
Carbonhydrate và protein là thành phần chính, chiếm từ 70 đến 90% trọng
lượng khô quả thể, tro khoảng 10% chứa nhiều loại chất khoáng. Chất béo có hàm
lượng thấp trong hầu hết các loài, dao động trong khoảng 1 - 2%, ngoại trừ P.
limpidus (9,4%).
Giá trị về mặt năng lượng được đánh giá trên cơ sở thành phần protein thô,
chất béo và carbohydrate, trị số này thấp khoảng từ 261 - 367 Kcal/100g chất khô
[Cao Ngọc Minh Trang, 2002].
Bảng 4: Thành phần dinh dưỡng của một số loài nấm Bào ngư (%).
Tên loài Nước Protein thô

Chất béo Đường tổng số Chất xơ
P. cystidiosus

90,2

31 9 17 13
P. abalonus
91,7

32 4 19 3
P. blaoensis
89 25 4 11 8
[Lê Duy Thắng, 1999]
Hàm lượng protein thô của nấm ăn dao động trong khoảng 18,4 - 61,5. Từ
dẫn liệu ở bảng 4 cho thấy hàm lượng protein thô ở cả 3 loài nấm trên có giá trị
trung bình 25 - 32%, trị số này có ý nghĩa về mặt dinh dưỡng. Trong đó Pleurotus
abalonus có hàm lượng đạm cao nhất 32% và thấp nhất là ở Pleurotus blaoensis
điều này có thể do Pleurotus blaoensis là loài hoang dại mới được đưa vào nuôi
trồng chủ động so với 2 loài còn lại đã được thuần hóa sớm hơn.

Hàm lượng chất béo nhìn chung là khá thấp, trị số này cao nhất ở loài
Pleurotus cystidiosus (9%) và bằng nhau ở Pleurotus abalonus và Pleurotus
blaoensis.

Đồ án tốt nghiệp – GVHD: Th.S Khúc Thị An

Trần Thị Kim Chi
Lớp 49 Công nghệ sinh học – Đại học Nha Trang
10

Hàm lượng carbonhydrat cao nhất ở Pleurotus abalonus và thấp nhất là ở
Pleurotus blaoensis ; hơn nữa, hàm lượng chất xơ trong Pleurotus abalonus là thấp
nhất, do vậy mà về mặt cảm quan cho thấy nấm Pleurotus abalonus có mùi vị thơm
ngon nhất trong 3 loài, tiếp đến là Pleurotus cystidiosus.
Hàm lượng nước của 3 loài trên dao động trong khoảng 89 - 91.7% nghĩa
là lượng sinh khối khô chỉ vào khoảng 10% song tỷ lệ chất dinh dưỡng rất đáng kể
và cân đối, vượt hơn hẳn các loại rau quả. Do đó quan niệm trước đây coi nấm như
là một loại rau là không chính xác. Hàm lượng protein thô của nấm Bào ngư nếu
như so với các loại thịt cá lượng protein đạt xấp xỉ 40% trọng lượng khô, trị số sinh
năng lượng khá thấp, chỉ cung cấp năng lượng ở mức tối thiểu, đây là một trong
những ưu điểm của loài nấm ăn này, thích hợp cho người ăn kiêng.
I.3.2. Giá trị dược liệu nấm Bào ngư
Ngoài giá trị dinh dưỡng phong phú nấm Bào ngư Nhật còn có giá trị dược
liệu. Ở nấm bào ngư Nhật còn phát hiện được chất kháng sinh, gọi là pleurotin. Chất
này ức chế hoạt động của vi khuẩn Gram dương (Robins và cộng sự, 1947). Bên
cạnh đó, Yoshioka và cộng sự (1975) cũng tìm thấy hai polysaccharide có tính
kháng ung bướu. Cả hai đều có nguồn gốc là glucose. Trong đó chất được biết
nhiều nhất, bao gồm 69% β (1-3) glucan, 13% galactose, 6% mannose, 13% uronic
acid [Lê Duy Thắng, 1999].


Hình 4: Công thức hóa học của pleurotin
Ngoài ra, nấm còn chứa nhiều acid folic, rất cần cho người thiếu máu
Nhiều loài nấm Bào ngư Nhật có tác dụng ức chế sự phát triển của không ít
loài vi khuẩn như: Staphylococcus, Mycobacterium phlei, Bacillus subtilis,
Klebsiella pneumoniae, Escherichia coli, Bacillus mycoides, Mycobacterium

Đồ án tốt nghiệp – GVHD: Th.S Khúc Thị An

Trần Thị Kim Chi
Lớp 49 Công nghệ sinh học – Đại học Nha Trang
11

smegma, Photobacterium fischeri Vòng ức chế vi khuẩn ở nấm Bào ngư non cao
hơn ở nấm trưởng thành.
I.4. Khả năng chuyển hóa môi trường của nấm Bào ngư
Ở Việt Nam, hàng năm có khoảng 50 triệu tấn phế thải nông lâm nghiệp, chỉ
một phần rất nhỏ được tái sử dụng trong nuôi trồng nấm.
Những công trình cơ bản về nuôi trồng các nấm Bào ngư đã mở ra những
triển vọng chuyển hóa các phế liệu gây ô nhiễm môi trường. Công trình nghiên cứu
khả năng phân ly các chất hữu cơ độc hại của loài nấm này rất đáng chú ý. Sự phát
triển của công nghệ nấm trong 20 năm qua ở Việt Nam là một trong những giải
pháp xử lý sinh học phế liệu xơ - sợi và các nguồn phụ phế liệu (vỏ hạt cà phê, mạt
cưa, bã mía ), có tầm quan trọng thực tiễn to lớn, đặc biệt với những ứng dụng hổ
trợ của các kỹ thuật hạt nhân như chiếu xạ và đồng vị đánh dấu.
Công trình nghiên cứu của các nhà khoa học cho thấy khả năng phân hủy các
cơ chất sơ sợi giàu cellulose và lignin (Camarero và cộng sự, 1994; Guitíerrez và
cộng sự, 1994; Lê Xuân Thám, 2000). Trong quá trình chuyển hóa lên men phân
hủy các phức polysaccharides, các loài Pleurotus còn tạo ra hàng loạt các chất thơm
bay hơi, góp phần tạo nên hương vị hấp dẫn của quá trình lên men (Guillén và cộng
sự, 1992; Gutíerrez và cộng sự, 1994). Đặc biệt nhờ vào hệ Aryl – Alcohol Oxidase

và Dehydrogenase chủng P. eryngii có khả năng khử các hợp chất thơm ở dạng
aldehyde acid thành các gốc rượu thơm tương ứng mở ra triển vọng công nghiệp
hương liệu (Gutíerrez và cộng sự, 1996). Kết hợp với Mn trong quá trình lên men
nó còn có khả năng phân hủy thuốc trừ cỏ Atrazine nhờ vào sự gia tăng của các
enzyme P – 450 của hệ Cytochrome, Oxygenase và Peroxydase (Sannia và cộng sự,
1990). Ngoài ra, nhờ vào hoạt động của hệ enzyme đa dạng mà Pleurotus có khả
năng chuyển hóa nhiều loại cơ chất. Đây cũng là triển vọng mới trong công nghệ
sản xuất enzyme ngoại bào cho các nhà nghiên cứu. Điều này cho thấy tiềm năng
của Pleurotus spp trong xử lý môi trường là rất cao.
Nhóm hydro đa vòng thơm là nhóm các hợp chất hữu cơ ô nhiễm môi trường
được nghiên cứu rộng rãi nhất hiện nay. Chúng được hình thành từ quá trình cháy

Đồ án tốt nghiệp – GVHD: Th.S Khúc Thị An

Trần Thị Kim Chi
Lớp 49 Công nghệ sinh học – Đại học Nha Trang
12

hoàn toàn cúa các hợp chất hữu cơ ở nhiệt độ cao. Những nguồn chính thải ra các
nhóm này là: các phương tiện giao thông sử dụng xăng dầu, các lò đốt chất thải
Do có tính phổ biến trong môi trường, đặc biệt một số chất có thể gây ung thư như:
pyrene, fluoren, antraxen nên chúng được xếp vào danh sách các hợp chất ô nhiễm
hàng đầu hiện nay của các tổ chức bảo vệ môi trường trên Thế giới. Qua các nghiên
cứu của các nhà khoa học thì nấm Bào ngư có khả năng chuyển hóa các chất hữu cơ
độc hại nhờ các enzyme được tiết ra từ chúng (Masaphy và cộng sự, 1996; Bezalel
và cộng sự, 1996).
Trong công nghiệp, thuốc nhuộm được thải ra cũng ảnh hưởng nhiều đến
môi trường, theo các nghiên cứu thì nấm Bào ngư P. ostreatus có khả năng chuyển
hóa thuốc nhuộm trong công nghiệp dệt (Vyas B. R. M. và Molitoris H. P., 1995).
Năm 1990, Sannia và cộng sự đã tiến hành quá trình lên men P. eryngii kết

hợp với Mn thì kết quả thu được là P. eryngii có khả năng phân hủy thuốc trừ cỏ
Atrazine nhờ vào sự gia tăng của các enzyme P – 450 của hệ Cytochrome,
Oxygenase và Peroxydase, mở ra triển vọng trong việc xử lý ô nhiễm môi trường từ
thuốc trừ cỏ.
Năm 1996, Gutíerrez và cộng sự đã khám phá ra khả năng khử các hợp
chất thơm ở dạng Aldehyde acid thành các gốc rượu thơm tương ứng nhờ vào hệ
enzyme Aryl – alcohol oxydase và Dehydrogenase có trong P. eryngii, mở ra triển
vọng mới trong nghành công nghiệp hương liệu.
Cùng năm, Heinfling A. và cộng sự đã phát hiện ra Manganese – oxidizing
peroxidase có thể khử Mn
2+
, phenol, thuốc nhuộm và các hợp chất thơm khác với ái
lực rất cao.
Năm 2003, Rodríguez E. và cộng sự đã nghiên cứu khả năng phân hủy các
chất gây ô nhiễm môi trường 2,4 – Dichorophenol và Penzo pyrene trong môi
trường nuôi cấy lỏng P. eryngii. Sau 2 tuần ủ thì khả năng chuyển đổi 2 hợp chất
trên về dạng trung gian không gây ô nhiễm môi trường lên tới 75%, là nhờ vào hệ
enzyme Laccase và Peroxidase.

Đồ án tốt nghiệp – GVHD: Th.S Khúc Thị An

Trần Thị Kim Chi
Lớp 49 Công nghệ sinh học – Đại học Nha Trang
13

Hiện nay, sự ô nhiễm kim loại nặng, các chất hữu cơ độc hại khó phân hủy
như thuốc nhuộm, thuốc trừ sâu, các chất gây ung thư đang là vấn đề quan tâm
của các nhà sinh học môi trường. Nấm là một trong những đối tượng sinh vật có
tiềm năng làm sạch môi trường đang được quan tâm nhờ vào khả năng chuyển hóa
phong phú và đa dạng các loại phế thải công nông nghiệp nhờ vào hoạt động của hệ

enzyme đa dạng.
I.5. Một số điểm lưu ý khi trồng nấm bào ngư Nhật
Nấm bào ngư rất nhạy cảm với môi trường. Khi nấm ở dạng san hô, nếu
nhiệt độ lên trên 32
0
C trong 1 một giờ, nụ nấm bị khô quéo lại như cỏ úa (hình 1.5).
Cũng như trong giai đoạn này, nếu độ ẩm tăng lên trên 90% nhiều giờ thì nấm non
sẽ bị thối nhũn.
Đặc biệt nước tưới nhiễm phèn hơi nặng (pH axit), thì tai nấm ngã vàng, tai
bị dị dạng, mũ nấm khô nứt. Trường hợp phèn nhẹ cũng làm trên bề mặt mũ nấm có
những nốt sần mở ra thành hốc nhỏ (hình 1.6).

Hình 5: Tai nấm bị khô quéo
Nấm bào ngư Nhật còn đặc biệt nhạy cảm với các tác nhân gây ô nhiễm
môi trường như hóa chất, thuốc trừ sâu, các kim loại nặng… cả trong nguyên liệu,
cũng như không khí nơi nuôi trồng. Tai nấm thường sẽ bị biến dạng hoặc ngừng tạo
quả thể.

×