Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

nghiên cứu, xác định một số giống và loại phân bón lá thích hợp cho đậu tương vụ đông vùng đất huyện yên lạc tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.08 KB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP HÀ NỘI

TRẦN THỊ PHƯƠNG
NGHIÊN CỨU, XÁC ĐỊNH MỘT SỐ GIỐNG VÀ LOẠI
PHÂN BÓN LÁ THÍCH HỢP CHO ĐẬU TƯƠNG VỤ ĐÔNG
VÙNG ĐẤT HUYỆN YÊN LẠC TỈNH VĨNH PHÚC
LUẬN VĂN THẠC SĨ NÔNG NGHIỆP
Chuyên ngành: TRỒNG TRỌT
Mã số: 60.62.01
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. ĐOÀN THỊ THANH NHÀN
HÀ NỘI - 2011
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, số liệu và kết quả nghiên cứu trình bày trong luận văn này
là trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi xin cam đoan, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được
cám ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đều đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Tác giả
Trần Thị Phương
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Đoàn Thị Thanh Nhàn, người
đã tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài, cũng như
trong quá trình hoàn chỉnh luận văn tốt nghiệp.
Tôi xin chân thành cám ơn các thầy cô giáo Khoa Sau Đại học; Khoa Nông
học, đặc biệt là các thầy cô trong Bộ môn Cây công nghiệp (Trường Đại học Nông
nghiệp Hà Nội); các bạn bè, đồng nghiệp, gia đình và người thân đã nhiệt tình giúp
đỡ tôi trong thời gian thực hiện đề tài và hoàn chỉnh luận văn tốt nghiệp.
Tôi cũng xin chân thành cám ơn cán bộ huyện Yên Lạc, các hộ dân ở các xã
trong địa bàn huyện đã giúp đỡ tạo điều kiện cho tôi hoàn thành tốt các thí nghiệm tại
địa phương .


Hà Nội, ngày tháng năm 2011

Trần Thị Phương
1.MỞ ĐẦU
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Cây đậu tương có tên khoa học Glycine max (L) Merrill thuộc họ đậu
Fabaceae, đặc điểm của hạt đậu tương là rất giàu protein và lipid, chính vì vậy đậu
tương vừa là cây lấy dầu, đồng thời cũng là cây thực phẩm quan trọng cho con người
và gia súc. Ngoài ra cây đậu tương còn là cây có tác dụng cải tạo đất rất tốt và hiện là
một trong những cây trồng chủ đạo được đưa vào hệ thống cây trồng trong quá trình
chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất nông
nghiệp.
Hàm lượng protein trong hạt cũng như các hợp chất có giá trị khác đã khiến
đậu tương trở thành một trong những thực phẩm quan trọng trên thế giới. Protein
trong hạt đậu tương chứa khoảng trên 38% tùy giống, hiện nay có nhiều giống đậu
tương có hàm lượng protein đặc biệt cao tới 40 - 50%. Trong hạt đậu tương còn chứa
các axit béo cao hơn các loại đậu khác, tổng số chất béo lên tới trên 18%, các
hidratcacbon chiếm 31%. Ngoài ra trong hạt còn có chứa sắt, canxi, vitamin giúp cho
quá trình tiêu hóa tốt và tránh được các bệnh về tim mạch, ung thư. Cây đậu tương đã
du nhập vào nước ta từ rất lâu đời, nhưng việc trồng và phát triển nó mới được quan
tâm chú ý gần đây. Đặc biệt trong quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi
hiện nay thì cây đậu tương là một trong những cây trồng được quan tâm hàng đầu.
Tuy có vai trò quan trọng như vậy nhưng hiện nay bộ giống cũng như năng suất, chất
lượng của đậu tương còn rất nhiều hạn chế, quy trình kỹ thuật thâm canh cây đậu
tương chưa được nghiên cứu hoàn thiện và áp dụng nhiều vào thực tiễn.
Huyện Yên Lạc - tỉnh Vĩnh Phúc là vùng có rất nhiều tiềm năng trong việc
phát triển cây đậu đỗ của tỉnh Vĩnh Phúc. Trong những năm qua bằng việc du nhập
các giống đậu tương triển vọng vào sản xuất nên năng suất và sản lượng đậu tương ở
1
đây đã được cải thiện. Tuy nhiên sản xuất đậu tương tại Yên Lạc còn nhiều hạn chế

vì diện tích sản xuất nông nghiệp trên toàn huyện đang bị thu hẹp; chưa có bộ giống
đậu tương thích hợp, công tác giống chưa được chú trọng đúng mức; canh tác chủ
yếu dựa vào kinh nghiệm, đầu tư thâm canh còn hạn chế, chưa chú ý đến việc áp
dụng các biện pháp kỹ thuật. Do đó diện tích, năng suất và sản lượng đậu tương toàn
huyện chưa đồng đều và kém ổn định.
Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Nghiên cứu, xác định một số giống và loại phân bón lá thích hợp cho đậu
tương vụ Đông vùng đất huyện Yên Lạc tỉnh Vĩnh Phúc”.
1.2. MỤC ĐÍCH VÀ YÊU CẦU CỦA ĐỀ TÀI
1.2.1. Mục đích
- Xác định một số giống đậu tương tốt, năng suất cao, thích hợp với điều kiện
vụ Đông tại huyện Yên Lạc - tỉnh Vĩnh Phúc.
- Xác định dạng phân bón lá phù hợp với yêu cầu của giống đậu tương ĐT26
trên đất huyện Yên Lạc - tỉnh Vĩnh Phúc, góp phần đem lại hiệu quả kinh tế cho
người sản xuất.
1.2.2. Yêu cầu
- Nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng, phát triển, mức độ chống chịu và năng
suất của một số giống đậu tương trong điều kiện vụ Đông trên đất Yên Lạc - Vĩnh
Phúc.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của các dạng phân bón lá trong điều kiện vụ Đông
huyện Yên Lạc - Vĩnh Phúc đến sinh trưởng, phát triển, mức độ chống chịu, các
yếu tố cấu thành năng suất và năng suất của một số giống đậu tương.
1.3. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ Ý NGHĨA THỰC TIỄN
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
2
- Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ xác định được các giống đậu tương phù hợp với
điều kiện vụ Đông ở huyện Yên Lạc - Vĩnh Phúc, bổ sung vào bộ giống đậu tương để
đưa vào cơ cấu giống đậu tương của huyện.
- Xác định được dạng phân bón lá hợp lý cho giống đậu tương ĐT26 trong vụ
Đông ở huyện Yên Lạc - Vĩnh Phúc.

- Kết quả nghiên cứu đề tài sẽ góp phần bổ sung thêm những tài liệu khoa học
phục vụ cho công tác giảng dạy, nghiên cứu và chỉ đạo sản xuất.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Bổ sung các giống đậu tương tốt, năng suất cao, góp phần phát triển sản xuất
đậu tương trong vụ Đông ở huyện Yên Lạc - Vĩnh Phúc.
- Góp phần xây dựng quy trình thâm canh đậu tương nhằm nâng cao năng suất
cũng như hiệu quả kinh tế của việc sản xuất đậu tương tại huyện Yên Lạc - Vĩnh
Phúc

3
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. YÊU CẦU SINH THÁI CỦA CÂY ĐẬU TƯƠNG
2.1.1. Nhiệt độ
Đậu tương có nguồn gốc ôn đới (Trung Quốc) nhưng là cây trồng không chịu
rét. Tùy vào từng giai đoạn sinh trưởng khác nhau mà cây yêu cầu một khoảng nhiệt
độ khác nhau. Trong giai đoạn nảy mầm và mọc đậu tương có thể sinh trưởng được
từ 10 - 40
0
C, giai đoạn ra hoa yêu cầu nhiệt độ cao hơn vì dưới 18
0
C sẽ hạn chế sự
đậu quả. Nhiệt độ ảnh hưởng đến quá trình sinh trưởng phát triển, các hoạt động sinh
lý của cây. Nhìn chung nếu nhiệt độ dưới 10
0
C và trên 40
0
C đều có ảnh hưởng không
tốt đến sinh trưởng và phát triển của đậu tương. Trong cả quá trình sinh trưởng phát
triển thì tùy thuộc vào giống chín sớm hay chín muộn mà đậu tương yêu cầu một
lượng tích ôn phù hợp, lượng tích ôn đó dao động từ 1800 - 2700

0
C. Ngoài ra nhiệt
độ còn có ảnh hưởng không nhỏ đến sự hoạt động của vi khuẩn nốt sần. Vi khuẩn
này hoạt động thích hợp ở nhiệt độ khoảng từ 25 - 27
0
C, nếu trên 33
0
C thì vi khuẩn
hoạt động kém sẽ kéo theo quá trình cố định Nitơ bị ảnh hưởng (Đoàn Thị Thanh
Nhàn, 1996) [15].
Nhiệt độ cũng ảnh hưởng rõ rệt đến sự cố định Nitơ của đậu tương. Vi khuẩn
nốt sần Rhizobium japonicum bị hạn chế bởi nhiệt độ trên 33
0
C. Nhiệt độ 25-27
o
C
hoạt động của vi khuẩn là tốt nhất [2]
Theo Lê Song Dự (1988) thì sự vận chuyển các chất trong cây càng chậm khi
nhiệt độ càng thấp và ngừng lại ở nhiệt độ 2-3
0
C [26]
2.1.2. Ánh sáng
Đậu tương là loại cây ngày ngắn điển hình, nên ánh sáng là yếu tố có ảnh
hưởng mạnh đến cây này. Với cây đậu tương thì ánh sáng không chỉ là yếu tố quyết
định sự quang hợp mà còn có ảnh hưởng đến hoạt động cố định đạm của các nốt sần
ở rễ nên sẽ ảnh hưởng đến sản lượng chất khô và năng suất thu hoạch. Sự tác động
của ánh sáng ngày ngắn mạnh nhất là vào những giai đoạn trước khi cây ra hoa, lúc
4
này ánh sáng ngày ngắn sẽ làm cho cây rút ngắn thời gian sinh trưởng, làm giảm
chiều cao cây, số đốt cũng như độ dài của các lóng. Nếu chất lượng của ánh sáng

kém như ánh sáng yếu sẽ làm cho các lóng vươn dài, có xu hướng leo như trường
hợp trồng dày quá, trồng xen chẳng hạn, làm ảnh hưởng đến năng suất. Cường độ
ánh sáng mạnh sẽ làm cho cây sinh trưởng khoẻ, cho năng suất cao.
2.1.3. Độ ẩm
Nước tưới hiện nay là một trong những yếu tố làm hạn chế năng suất đậu
tương nước ta đặc biệt là ở vùng trung du và miền núi (Đoàn Thị Thanh Nhàn, 1996)
[15]. Trong cả quá trình sinh trưởng và phát triển đậu tương yêu cầu lượng mưa
khoảng từ 350 - 600mm, yêu cầu này tùy thuộc vào giống, điều kiện tự nhiên, kỹ
thuật canh tác,… Hệ số sử dụng nước từ 1.500 - 3.500 mm
3
để hình thành một tấn hạt
[10].
Đậu tương có khả năng chịu hạn tốt hơn các cây màu khác như cây ngô. Sau
khi hạn, được lấy nước trở lại , đậu tương tiếp tục ra hoa ở các đốt kế tiếp và đậu quả
[15].
2.1.4. Đất đai, dinh dưỡng
Cây đậu tương có tính thích ứng rất rộng. Có thể trồng đậu tương trên nhiều loại
đất khác nhau như đất thịt, thịt pha cát, đất cát nhẹ, đất sét Nhìn chung đất trồng màu
hoặc đất hai vụ lúa thoát nước tốt thì trồng đậu tương tốt.
Trên đất thịt nặng đậu tương khó mọc nhưng sau khi mọc lại thích ứng tốt hơn
so với các loại cây màu khác. Trên đất cát đậu tương cho năng suất không ổn định.
Đất có độ pH từ 6 - 7 thích hợp cho cây sinh trưởng và hình thành nốt sần [15].
Đậu tương là cây trồng tương đối dễ tính có thể trồng được trên nhiều loại đất
khác nhau, tuy nhiên đất cát trồng sẽ cho năng suất không ổn định bằng đất thịt hoặc
cát pha. Nhìn chung các loại đất màu, khả năng thoát nước tốt, độ pH từ 5,2 - 6,5 là
có thể trồng được đậu tương.
5
Trong suốt quá trình sinh trưởng và phát triển đậu tương cũng cần được cung
cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết, trong đó quan trọng nhất là các nguyên tố
đa lượng như N, P, K, nếu thiếu một nguyên tố nào thì cây cũng đều phát triển không

bình thường. Ngoài ra đối với đậu tương các nguyên tố vi lượng cũng có ảnh hưởng
rất lớn đến sinh trưởng phát triển của cây, trong đó đặc biệt phải kể đến là Mo vì nó
có ảnh hưởng lớn đến vi khuẩn nốt sần cộng sinh với đậu tương. Thiếu Mo thì quá
trình trao đổi đạm bị gián đoạn, hiệu suất quang hợp giảm dẫn đến năng suất hạt
giảm (Đoàn Thị Thanh Nhàn, 1996) [15].
2.2. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT ĐẬU TƯƠNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM
2.2.1. Tình hình sản xuất đậu tương trên thế giới
Cây đậu tương chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong 8 cây lấy dầu quan trọng của
thế giới: đậu tương, bông, lạc, hướng dương, cải dầu, lanh, dừa và cọ dầu. Do vậy đậu
tương được trồng phổ biến ở hầu khắp các nước trên thế giới, nhưng tập trung nhiều
nhất ở các nước Châu Mỹ chiếm tới 73,0% tiếp đó là các nước thuộc khu vực Châu Á
(Trung Quốc, Ấn Độ) chiếm 23,15% [8].
Số liệu thống kê về diện tích, năng suất và sản lượng đậu tương toàn thế giới
được tổng hợp tại bảng 2.1.
6
Bảng 2.1: Diện tích, năng suất và sản lượng đậu tương trên thế giới
Năm Diện tích
(triệu ha)
Diện tích tăng so
với năm 2000 (%)
Năng suất
(tạ/ ha)
Sản lượng
(triệu tấn)
2000 74,39 100,00 21,69 162,52
2001 76,83 103,28 23,15 177,93
2002 78,83 105,97 23,03 181,55
2003 83,60 112,38 22,79 190,59
2004 91,14 122,56 22,64 206,40
2005 92,43 124,25 23,18 214,26

2006 94,93 127,61 22,97 218,23
2007 90,20 121,25 24,45 220,53
2008 96,87 130,22 23,84 230,95
(Nguồn: FAO Statistic Database, 2009)[29]
Trong những năm 70, diện tích trồng đậu tương trên thế giới tăng ít nhất 2 lần
so với những cây lấy dầu khác. Trong các cây lấy dầu của thế giới sản lượng đậu
tương tăng từ 32% năm 1965 tới 50% vào những năm 1980. Ngược lại sản lượng của
lạc lại giảm từ 18% xuống còn 11% trong cùng thời kỳ (Ngô Thế Dân và cộng sự,
1999) [7].
Qua bảng 2.1 cho thấy diện tích trồng đậu tương trên thế giới đã không ngừng
tăng lên, năm 2006 diện tích trồng đậu tương đã tăng lên 27,61% so với năm 2000,
năm 2008 diện tích tăng 30,22% so với năm 2000. Năng suất và sản lượng đậu
tương cũng có xu hướng tăng lên, năm 2008 năng suất đậu tương trên thế giới đạt
23,84 tạ/ha trong khi đó năm 2000 năng suất là 21,69 tạ/ha , sản lượng tăng từ 165,52
triệu tấn năm 2000 lên 230,95 triệu tấn năm 2008.
7
Đậu tương được trồng ở nhiều nước trên thế giới, tuy nhiên bốn nước sản xuất
đậu tương lớn nhất thế giới là Mỹ, Braxin, Achentina và Trung Quốc chiếm khoảng
90-95% tổng sản lượng lương thực thế giới.
Bảng 2.2. Diện tích, năng suất sản lượng đậu tương của 4 nước sản xuất đậu
tương chủ yếu trên thế giới trong 3 năm gần đây
Tên nước 2007 2008 2009
Diện
tích
(triệu
ha)
Năng
suất
(tạ/ha)
Sản

lượng
(triệu
tấn)
Diện
tích
(triệu
ha)
Năng
suất
(tạ/ha)
Sản
lượng
(triệu
tấn)
Diện
tích
(triệu
ha)
Năng
suất
(tạ/ha)
Sản
lượng
(triệu
tấn)
Mỹ
29,33 22,77 66,77 29,93 28,60
85,74
0
28,84 28,72

82,82
0
Braxin
18,52 28,08 52,02 21,52 23,14 49,793 22,89 21,92
50,19
5
Achentin
a
12,40 28,00 34,88 14,30 22,0
31,50
0
14,03 27,28
33,30
0
Trung
Quốc
9,32 16,53 15,39 9,7 18,14
17,60
0
9,50 17,79
16,90
0
(Nguồn: FAO Statistic Database, 2009)[29]
Trên thế giới, sản xuất đậu tương chủ yếu tập trung vào các nước như Mỹ,
Brazil, Trung Quốc và Achentina (Phạm Văn Thiều, 2006) [18]. Hiện nay Mỹ là
quốc gia đứng đầu về sản xuất đậu tương với 45% diện tích và 55% sản lượng.
Braxin là nước đứng thứ 2 châu Mỹ và cũng đứng thứ 2 trên thế giới về diện tích và
sản lượng đậu tương. Năm 2000, Braxin sản xuất đậu tương chiếm 18,5% về diện
tích và 20,1% về sản lượng trên thế giới. Năm 2009 sản lượng đậu tương của Braxin
đạt 50,195 triệu tấn.

Trung Quốc là nước đứng thứ 4 trên thế giới về sản xuất cây trồng này. Năm
2009 năng suất đậu tương của Trung Quốc đạt 17,79 tạ/ha và sản lượng đạt 16,900
triệu tấn.
8
Ngoài 4 nước nói trên thì Pháp, Úc, Ấn Độ, Nhật Bản cũng là những nước sản
xuất đậu tương lâu đời.
Tại Nhật Bản cây đậu tương tuy đã được đưa vào khoảng 200 năm trước và sau
công nguyên, nhưng phải đến năm 1960 cây đậu tương mới được chú ý phát triển.
Diện tích đậu tương của Nhật Bản năm 1960 là 340 ngàn ha, năng suất 78,5 tạ/ha cao
nhất thế giới với giống Miyagishironma, năm 1997 diện tích đạt tới 832 ngàn ha
(Nguyễn Văn Luật (1979) [ 13].
2.2.2. Tình hình sản xuất đậu tương ở Việt Nam
Việt nam có lịch sử trồng đậu tương lâu đời. Trong thư tích thế kỷ thứ VI cho
biết ở Bắc Bộ có trồng đậu tương. Trong “Vân đài loại ngữ” của Lê Quí Đôn thế kỷ
XVIII đề cập nhiều đến cây đậu tương. Dân ta biết trồng trọt và sử dụng đậu tương
hàng ngàn năm nay. Đến nay cây đậu tương đã và đang trở thành cây trồng quan
trọng có ý nghĩa trong sản xuất nông nghiệp của nước ta.
Ở châu Á, Việt Nam xếp thứ 6 về sản xuất đậu tương sau Trung Quốc, Ấn Độ,
Indonesia, Triều Tiên và Thái Lan.
Tình hình sản xuất đậu tương của Việt Nam trong một số năm gần đây được
tổng hợp qua bảng 2.3.
9
Bảng 2.3. Tình hình sản xuất đậu tương ở Việt Nam
Năm
Diện tích
(nghìn ha)
Năng suất
(tạ/ha)
Sản lượng
(nghìn tấn)

2000 124,1 12,0 148,92
2001 140,3 12,4 173,97
2002 158,6 13,0 206,18
2003 165,6 13,3 220,12
2004 183,8 13,4 246,29
2005 204,1 14,3 291,86
2006 185,6 13,9 257,98
2007 190,1 14,6 277,55
2008 191,5 14,03 268,6
Nguồn: Tổng cục thống kê năm 2009
Qua bảng 2.3 cho thấy diện tích, năng suất và sản lượng đậu tương ở nước ta
qua các năm có sự biến động khá lớn. Giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2005 diện tích
trồng đậu tương nước ta có chiều hướng tăng lên đạt đỉnh cao vào năm 2005 với
204,1 nghìn ha, năng suất là 14,3 tạ/ha, sản lượng tương ứng là 292,7 nghìn tấn.
Trong 6 năm (2000 - 2005) diện tích đậu tương tăng 81,3 ngàn ha, năng suất tăng 2,7
tạ/ha và sản lượng tăng 149,6 ngàn tấn một con số rất có ý nghĩa, thể hiện vai trò
quan trọng của cây đậu tương trong cơ cấu cây trồng ở Việt Nam. Đến năm 2006 và
2007 thì diện tích lại có xu hướng giảm, năm 2007 diện tích trồng đậu tương chỉ còn
là 190,1 nghìn ha giảm 14 nghìn ha so với năm 2005, nhưng năng suất tăng lên đạt
14,6 tạ/ha tăng 0.3 tạ/ha so với năm 2005, sản lượng là 277,5 nghìn tấn giảm 15,2
10
nghìn tấn so với năm 2005. Đến năm 2008 diện tích tăng nhẹ và đạt 191,5 nghìn ha,
năng suất giảm chỉ đạt 14,03 tạ/ha và sản lượng đạt 268,6 nghìn tấn.
Theo thống kê năm 2009: Tính đến năm 2007 diện tích đậu tương vùng đồng
Bằng Sông Hồng chiếm 34,6%, tiếp đến đó là vùng Đông Bắc 22,3%, Tây Bắc
12,15%, Bắc trung bộ 4,1%, Duyên Hải Nam Trung Bộ 1,6%, Tây Nguyên 12,99%,
vùng Đông Nam Bộ 3,4%, Đồng bằng sông Cửu Long 4,4% (Tổng cục thống kê,
2009) [38].
Về công tác chọn tạo giống đậu tương đã được tiến hành ở các cơ sở nghiên cứu
theo hướng khác nhau. Những năm qua rất nhiều giống đậu tương được nhập nội,

tuyển chọn, lai tạo và đưa vào sản xuất tạo nên bộ giống đậu tương khá phong phú.
Theo Nguyễn Chí Bửu và CTV (2005) [3] cả nước năm 2003 có 78 giống đậu
tương được gieo trồng, trong khi đó có 13 giống chủ lực với diện tích gieo trồng trên
1.000 ha được phân bố như sau: DT84, Bông Trắng (>10.000ha); MTĐ176, DT99,
17A (5.000 - 10.000 ha); AK03, ĐT12, Nam Vang, ĐH4, V74, AK05, VX93 (1.000
- 5.000 ha).
Cũng theo các tác giả trên, 7 giống được công nhận chính thức giai đoạn 2001 -
2004 đã được gieo trồng trên diện tích 7.097 ha và làm tăng sản lượng lên 944 tấn và
đem lại thu nhập cho sản xuất nông nghiệp là 4,8 tỷ đồng.
Hiện nay ở hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước đều chú trọng đến phát
triển cây đậu tương, đặc biệt là trên chân đất lúa vào vụ đông. Các tỉnh thành phố đều
có chính sách khuyến khích hỗ trợ người dân sản xuất đậu tương vụ đông như: Hỗ
trợ giống, máy gieo hạt, Đậu tương đông trên đất lúa đã thực sự đem lại hiệu quả
cho sản xuất nông nghiệp.
11
2.3. NHỮNG NGHIÊN CỨU VỀ ĐẬU TƯƠNG TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT
NAM
2.3.1.Những nghiên cứu về đậu tương trên thế giới
2.3.1.1. Những nghiên cứu về giống
Một trong những mục tiêu của chọn lọc giống là năng suất. Chính vì vậy khi
so sánh các giống gốc nhập nội và các giống lai tạo và chọn lọc lần 1, giống lai tạo
và chọn lọc lần 2 thuộc nhóm sinh trưởng từ I - IV, Luedders (1977) đã thu được kết
quả là nhóm qua lai tạo và chọn lọc lần 1 cho năng suất cao hơn 26% giống gốc,
nhóm lai tạo và chọn lọc lần 2 thì chỉ cao hơn 16%. Theo Weber và Fehr (1966) đặc
tính chống đổ cũng là vấn đề được quan tâm vì đổ nặng sẽ dẫn đến năng suất giảm
đáng kể, mức độ đổ ở điểm 2 - 6 làm năng suất giảm 13% so với cây không đổ (theo
lời dẫn của Ngô Thế Dân, Trần Đình Long - 1999) [ 7].
Nguồn gen đậu tương hiện nay được lưu giữ ở nhiều nước trên thế giới nhưng
chủ yếu là các nước: Mỹ, Trung Quốc, Australia, Pháp, Nigienia, Ấn Độ, Indonexia,
Nhật Bản, Triều Tiên, Nam Phi, Thụy Điển, Thái Lan và Liên Xô (cũ), với tổng số

45.038 giống (Trần Đình Long, 1991) [11].
Tại trung tâm phát triển rau màu Châu Á (AVRDC) đã thiết lập hệ thống đánh
giá (Soybean - Evaluation trial - Aset) giai đoạn 1 phân phát được trên 20.000 giống
đến 546 nhà khoa học của 164 quốc gia nhiệt đới và á nhiệt đới. Kết quả đánh giá
giống đậu tương của Aset đã đưa vào mạng lưới sản xuất được 21 giống ở trên 10
quốc gia (Nguyễn Thị Út, 1994) [25].
Hiện nay mục tiêu chọn tạo giống đậu tương của các nước trên thế giới tập
trung theo các hướng chủ yếu như tạo ra giống có năng suất hạt cao, khả năng chống
chịu sâu bệnh tốt, thời gian sinh trưởng ngắn, kháng bệnh gỉ sắt, kháng thuốc trừ cỏ.
Đặc biệt công nghệ chuyển gen được nghiên cứu ứng dụng và đã thu được những
thành tựu đáng kể trong việc chọn tạo giống đậu tương mới. Đi đầu trong công tác
12
này là Mỹ, chính vì vậy mà Mỹ luôn là nước đứng đầu thế giới về sản xuất đậu
tương.
Hai nước Mỹ và Canada rất chú trọng đến chọn tạo giống đậu tương. Trong
đó, Mỹ luôn là nước đứng đầu thế giới về diện tích và sản lượng đậu tương nhờ các
phương pháp chọn lọc, nhập nội, gây đột biến và chuyển gen. Hiện tại, đã đưa vào
sản xuất trên 100 dòng, giống đậu tương và lai tạo được một số giống có khả năng
chống chịu tốt với bệnh Phytopthora và thích ứng rộng như: Amsoy 71, Lec 36,
Clark 63, Herkey 63 Hướng chủ yếu trong công tác nghiên cứu của các nhà khoa
học Mỹ là sử dụng các tổ hợp lai phức tạp, cũng như nhập nội để làm phong phú
thêm quỹ gen chọn lọc, chọn tạo ra những giống có khả năng thâm canh cao, phản
ứng yếu với quang chu kỳ, chống chịu tốt với điều kiện ngoại cảnh bất thuận, có hàm
lượng protein cao (Johnson H.W. and Bernard R.L, 1967) [ 29].
Tại Indonesia, các nhà khoa học đã nghiên cứu chọn tạo giống đậu tương
Wilis 2000 từ giống gốc Wilis. Wilis 2000 cải thiện được các đặc tính nông học như
thời gian sinh trưởng, dạng cây và các đặc điểm của hạt, đặc biệt là năng suất tăng
5% so với giống Wilis gốc (Takashi, Sanbuichi và cộng sự (2002) [34].
Công tác chọn giống đậu tương ở Braxin cũng rất được coi trọng. Từ 1976 đến
nay Trung tâm nghiên cứu quốc gia đã chọn từ 1.500 dòng đậu tương từ những

giống thích hợp. Nhiều giống tốt đã được tạo ra như: DoKo, Numbaira, Cristalina…
Thời gian tới Braxil chọn giống đậu tương theo hướng thời gian sinh trưởng 107-120
ngày, có năng suất cao, chất lượng tốt, kháng sâu bệnh [33].
Nhóm nghiên cứu của trường Đại học North Dakota State đã nghiên cứu và xác
định Phytopthora và thối rễ là nguyên nhân chính làm giảm năng suất đậu tương. Họ
đã nghiên cứu và tìm ra gen Rps1 và Rps6 là các gen có khả năng kháng lại 2 bệnh
này đồng thời thích hợp với điều kiện ẩm ướt và những nơi có độ ẩm bão hòa. Đây là
nguồn nguyên liệu cho việc tạo ra các giống đậu tương mới (ICAR, 2006) [ 35].
13
Ở Thái Lan, sự phối hợp giữa hai Trung tâm MOAC và CGPRT nhằm cải tiến
giống có năng suất cao, chống chịu tốt với một số sâu bệnh hại chính như gỉ sắt,
sương mai, vi khuẩn , đồng thời có khả năng chịu được đất mặn, chịu được hạn hán
và ngày ngắn (Judy W.H and Jackobs J.A., 1979) [ 31].
Năm 1961, Viện khoa học Nông nghiệp Đài Loan đã bắt đầu tiền hành chương
trình chọn tạo giống và đã đưa vào sản xuất giống Kaosing3, Tainung3, Tainung4
Các giống được xử lý Nơtron và tia X cho các giống đột biến Tainung. Tainung1 và
Tainung2 có năng suất cao hơn giống khởi đầu và vỏ quả không bị nứt. Các giống
này đã được sử dụng làm nguồn gen kháng bệnh trong các chương trình lai tạo giống
ở các cơ sở khác nhau như Trạm khí tượng Marjo (Thái Lan), Trường đại học
Philippin (Vũ Tuyên Hoàng và cộng sự, 1995 [9].
Hiện nay có khoảng 80% lượng đậu tương thương mại là đậu tương chuyển gen
(GMO), Mosanto là công ty đứng đầu về việc kinh doanh đậu tương chuyển gen trên
thế giới. Giống đậu tương chuyển gen RG7008RR được các nhà khoa học của trạm
thử nghiệm Nông nghiệp thuộc Đại học North Dakota chọn lọc và phát triển, hiện
cũng được công ty Mosanto có bản quyền kinh doanh hạt giống. Giống RG7008RR
là giống có khả năng kháng thuốc trừ cỏ Roundup, năng suất cao hơn RG6008RR là
1,8 giạ/mẫu (NDSU, 2007) [36].
Nghiên cứu thử nghiệm để lựa chọn những giống thích hợp năm 2009 cho vùng
Đông Nam Carolina, đã chọn được 6 giống gồm Pioneer 95Y70, Pioneer 95Y41,
Pioneer 95Y20, Pioneer 95Y40, Stine 5020 - 4 và Southern States RT95 30N đều

cho năng suất trên 40 giạ/ mẫu. Một số giống thuộc nhóm V gồm NO2 - 417, NO2
-7002, NCCO2 - 20578 đạt năng suất cao nhất là 50 giạ/ mẫu, nhóm VI có NCRoy
đạt 61 giạ/mẫu. Các giống này đều rất phù hợp trồng ở Đông Nam Carolina ở các
thời vụ khác nhau (Roy Roberson, 2009) [37].
Sản xuất đậu tương chiếm một vị trí quan trọng ở châu Á. Tại đây đã có nhiều
14
cơ quan nghiên cứu về đậu đỗ như Trung tâm nghiên cứu và phát triển rau màu châu
Á (AVRDC), ICRISAT, TARI, Viện Nông nghiệp nhiệt đới quốc tế IITA. Trung tâm
nghiên cứu và phát triển rau màu châu Á đã chọn tạo ra các giống đậu tương có tiềm
năng năng suất cao trên 70 tạ/ha như G2120, trong đó giống có năng suất cao nhất
thế giới trong những năm 1970 là Miyagishiroma (Nhật Bản) với năng suất đạt 78
tạ/ha [26].
Nước đứng thứ nhất về sản xuất đậu tương tại châu Á là Trung Quốc. Trung Quốc
đã tạo ra hàng loạt các giống mới có năng suất cao, chất lượng và tính chống chịu với
điều kiện bất thuận vượt trội, điển hình là các giống: CN001, CN002, YAT12, HTF18,
có năng suất đạt 34 - 42 tạ/ha trên diện rộng [28].
Ấn Độ là nước sản xuất đậu tương đứng thứ 5 thế giới, bộ giống đậu tương của
Ấn Độ cũng khá phong phú. Có khoảng 75 giống đậu tương được chọn tạo và đưa
vào canh tác ở Ấn Độ từ năm 1980 đến nay, trong đó có 32 giống có khả năng kháng
hoặc bị nhiễm nhẹ bệnh gỉ sắt và bệnh khảm vàng, năng suất đều trên 20 tạ/ha, thời
gian sinh trưởng từ 90 - 120 ngày (ICAR,2006) [35].
2.3.1.2. Những nghiên cứu về phân bón
Bên cạnh công tác nghiên cứu về giống thì trên thế giới, nhiều quốc gia, nhiều
nhà Khoa học đã dành thời gian để nghiên cứu về phân bón cho cây đậu tương. Việc
nghiên cứu về chế độ phân bón, chế độ trồng, chăm sóc để cây sinh trưởng phát triển
tốt và phát huy hết tiềm năng của giống là vấn đề rất quan trọng.
Bón đạm sẽ không có tác dụng làm tăng năng suất đậu tương nếu dinh dưỡng
trong đất đã cung cấp đủ nhu cầu NO
3
cho cây (Porter và cộng sự, 1981). Tuy nhiên,

trên đất nghèo chất hữu cơ, kém thoát nước thì bón đạm với lượng 50 - 110 kg/ha có
tác dụng làm tăng năng suất.
Việc cố định N2 và sử dụng Nitrate (NO3-) có tầm quan trọng để thu được năng
suất tối đa. Ông thấy nếu NO3 - dư thừa có hại tới năng suất vì lúc đó sự cố định N2
15
bị ức chế (Harper (1974). Bón đạm quá nhiều hoặc bón không đúng thời kỳ sẽ ức chế
sự hình thành, phát triển và hoạt động của vi khuẩn nốt sần.
Bón lân cho đậu tương làm giảm tỷ lệ rụng nụ, rụng hoa, tăng tỷ lệ hạt chắc và
tăng năng suất rõ rệt. Tại Australia, Dickson và cộng sự, (1987) [27] đã tiến hành
những thí nghiệm về bón phân lân cho các cánh đồng tại vùng Queen- Sland đã chỉ
ra rằng: năng suất đậu tương được tăng lên đáng kể khi được bón phân lân, sự mẫn
cảm của đậu tương đối với phân lân phụ thuộc vào độ chua của đất, hàm lượng chất
hữu cơ và thành phần cơ giới đất.
Tại Indonexia bón phân cho đất có hàm lượng lân dễ tiêu dưới 18ppm đã làm
tăng năng suất đậu tương đáng kể, thiếu lân dễ tiêu thường gắn liền với đất chua,
hàm lượng Al, Fe, Mn cao gây trở ngại cho sinh trưởng, phát triển và hình thành
năng suất (Salesh và Sumarno (1993) [32].
Tại Nigieria (1990 - 1991) qua 6 công thức nghiên cứu về hiệu quả tác động
của việc kết hợp giữa phân khoáng N, P, K đã đưa ra kết luận rằng: hiệu quả kinh tế
đạt cao nhất ở công thức: 60 tấn phân chuồng + 200kg N, P, K (15:15:15)/ha bón
thời kỳ phân cành (theo lời dẫn của Phạm Văn Thiều). Vùng Rio Grande do Sul và
Santa Catarina của Brazil đã khuyến cáo bón phân cho đậu tương như sau:
· P: 10 -140 kg/ha P2O5 (trung bình khoảng 50 kg/ha P2O5) trên cơ sở số
liệu phân tích đất, hàm lượng sét, số mùa trồng đậu tương liên tục và năng suất dự
kiến.
· K: 40 - 120 kg/ha K2O trên cơ sở số liệu phân tích đất, hàm lượng sét, số
mùa trồng đậu tương liên tục và năng suất dự kiến.
· Bón vôi: Nếu pH nhỏ hơn hoặc bằng 6.0. Bón phân vi lượng khi pH thấp và
8-10 g/ha Mo sẽ được dùng xử lý hạt.
- Trong khi ở Sao Paulo cũng thuộc Brazil thì:

16
· P: 20 - 80 kg/ha P2O5 trên cơ sở phân tích đất.
· K: Bón tới 60 kg/ha K20 trên cơ sở phân tích đất.
· S: 20 kg/ha S. Bón vôi trên cơ sở công thức: NC = (70 - V1) x T /100 x f
Trong đó : NC - lượng vôi cần bón (tấn/ ha); V1 - độ no bazơ trước khi bón
vôi; T - CEC; f - hoạt tính của vôi, thường là 1,5. (Phạm Văn Thiều, 2006) [18].
2.3.2.Những nghiên cứu trong nước
2.3.2.1.Những nghiên cứu về giống
Theo Trần Đình Long thì công tác chọn giống và phát triển sản xuất đậu tương
đang tập trung vào các hướng: Tiếp tục nhập nội các nguồn gen quý hiếm trên thế
giới; Sử dụng các phương pháp chọn tạo giống truyền thống (chọn lọc, lai tạo, xử lý
đột biến); Tập trung chọn tạo giống có hàm lượng dầu cao (chiếm 22 - 27% khối
lượng hạt) (Trần Đình Long, 2000) [12] và được tiến hành theo nhiều phương pháp
khác nhau như: Lai hữu tính, tạo giống đột biến, chọn lọc từ các giống địa phương và
giống nhập nội
Kết quả chọn tạo từ phương pháp lai hữu tính là phương pháp thu được nhiều
thành tựu nhất. Có thể kể đến nhiều công trình chọn tạo giống thành công như giống
ĐT99 - 1 từ tổ hợp lai Cinal x MV1 của nhóm tác giả Viện khoa học kỹ thuật nông
nghiệp Việt Nam. Tạo ra giống ĐT92 từ tổ hợp lai ĐH 4 x TH184, giống D96 - 02 từ
tổ hợp lai ĐT 74 x ĐT 92, giống TL57 từ tổ hợp lai Đ95 x VX93 của GS.VS Vũ
Tuyên Hoàng và cộng tác viên. Giống D140 từ tổ hợp lai DL02 x ĐH4 của Bộ môn
Cây công nghiệp trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội
Năm 1987 Viện Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam chọn được giống
AK03 từ dòng G2261 nhập nội có thời gian sinh trưởng 80 - 85 ngày, năng suất bình
quân 13 - 16 tạ/ha, thích hợp cho vụ đông và cũng từ dòng G2261 chọn được giống
AK05 có thời gian sinh trưởng 90 - 95 ngày, năng suất 15 - 18 tạ/ha, kháng bệnh gỉ sắt,
17
thích hợp vụ đông ở vùng đồng bằng sông Hồng.
Khi nghiên cứu tập đoàn đậu tương tác giả Vũ Đình Chính đã phân lập các chỉ
tiêu làm 3 nhóm theo mức độ quan hệ của chúng với năng suất hạt. Nhóm thứ nhất bao

gồm các chỉ tiêu không tương quan chặt với năng suất (r < 0,5) gồm 18 chỉ tiêu như
thời gian sinh trưởng, chiều cao cây ; Nhóm thứ hai bao gồm các chỉ tiêu tương quan
chặt với năng suất (r > 0,6) gồm 15 chỉ tiêu như số quả/cây, tỷ lệ quả chắc, khối lượng
1000 hạt ; nhóm thứ 3 gồm các chỉ tiêu tương quan nghịch với năng suất, gồm 5 chỉ
tiêu đó là tỷ lệ quả 1 hạt, tỷ lệ quả lép, tỷ lệ bệnh virus, tỷ lệ bệnh đốm vi khuẩn, và tỷ
lệ sâu đục quả, Vũ Đình Chính (1995) [4].
Bằng phương pháp lai hữu tính tác giả Vũ Đình Chính đã lai tạo giống đậu
tương D140 từ tổ hợp lai DL02 x ĐH4 [4].
Năm 1995, D140 được đưa vào thí nghiệm so sánh giống chính quy. Kết quả
giống D140 có khả năng thích ứng rộng, có thể gieo trồng ở cả 3 vụ trong năm, thời
gian sinh trưởng 90 – 100 ngày, khối lượng 1000 hạt lớn, màu sắc đẹp và cho năng
suất cao đạt 15 – 27 tạ/ha.
Bộ môn Cây công nghiệp Trường Đại học Nông nghiệp I Hà Nội và Viện
Khoa học kỹ thuật Nông nghiệp Việt Nam năm 1996 đã chọn từ tổ hợp lai (dòng
821x134 Nhật Bản) tạo giống ĐT93, thích hợp cho vụ hè và đạt năng suất 15 - 18
tạ/ha. Hiện nay giống đang được phát triển rộng rãi trong sản xuất ở các tỉnh phía
Bắc và Bắc Trung Bộ.
Tạ Kim Bính, Trần Đình Long, Nguyễn Văn Viết, Nguyễn Thị Bình đã chọn lọc
cá thể mẫu giống GC00138 (nhập nội từ AVRDC) liên tục trong năm 1997 - 1998,
kết quả tạo ra giống ĐT2000. Giống ĐT2000 có thời gian sinh trưởng 100 - 110
ngày, khả năng cho năng suất cao ở những chân đất giàu dinh dưỡng, thích hợp ở vụ
xuân. ĐT2000 có khả năng chống đổ tốt, kháng bệnh gỉ sắt, phấn trắng cao. Thân của
ĐT2000 có nhiều đốt, cứng cây, thân to, ít đổ, thích hợp cho việc thâm canh tăng
năng suất. Giống ĐT2000 có số quả/cây khá cao 29,7 - 37,7 quả/cây, số quả 3 hạt
18
cao (62%). Từ đó, ĐT2000 đạt năng suất 19,5 - 30,5 tạ/ha cao hơn đối chứng V74 [1].
Trong năm 2006, Trung tâm khảo nghiệm giống, sản phẩm cây trồng và phân
bón quốc gia đã tiến hành khảo nghiệm 12 giống mới tại 7 địa điểm trong mạng lưới
khảo nghiệm quốc gia ở các tỉnh phía Bắc, vụ xuân hè 2006. Kết quả khảo nghiệm
cho thấy 7 giống có triển vọng là Đ2501, ĐT24, DT2003, ĐT26, ĐVN10, DT2006

và DT27. Trong đó, giống được khảo nghiệm qua 4 vụ có triển vọng là Đ2501 và
ĐT24 cho sản xuất thử, hai giống ĐT26 và ĐVN10 được đưa vào khảo nghiệm sản
xuất (Ngô Tiên Phong và CTV, 2006) [17].
PGS.TS Mai Quang Vinh và các cộng sự, qua nhiều năm nghiên cứu từ 1982
đến 2007 đã chọn tạo thành công 10 giống đậu tương trong đó có 4 giống công nhận
chính thức là DT84, DT90, DT96, AK06 và 6 giống công nhận tạm thời là DT99,
DT95, DT83, DT2001, DT02, ngoài ra còn nhiều giống triển vọng như DT2002,
DT01, DT2006, DT2007, DT06, đến năm 2008 đã chọn tạo được giống đậu tương
đột biến DT2008 là giống có khả năng chống chịu tốt với điều kiện bất thuận như
hạn, nóng, lạnh. DT2008 trồng được 3 vụ/năm, năng suất trong điều kiện bình
thường đạt 18 -30 tạ/ha, trong điều kiện khô hạn và khó khăn vẫn cho năng suất cao
hơn các giống thườn g 1,5 - 2 lần. (Mai Quang Vinh, 2008) [23].
Tạo giống mới bằng phương pháp gây đột biến cũng là một hướng tạo giống
được nhiều nước trên thế giới áp dụng.
Viện sỹ. TSKH. Trần Đình Long là một trong những người đầu tiên thành công về
chọn tạo giống đậu tương bằng phương pháp xử lý đột biến. Năm 1978, tác giả dùng tia
γ và các loại hoá chất gây đột biến tác động vào vật liệu từ đó phân lập các dòng, đánh
giá lựa chọn được một số giống có năng suất cao, chịu được khí hậu nóng. Đáng chú ý
nhất là giống M103 chọn tạo từ dòng đột biến của giống V70 năm 1987 thích hợp cho
vụ hè và hè thu [7].
19
Cũng bằng phương pháp gây đột biến DT84 được tạo ra bằng cách xử lý đột
biến bởi tia gamma - Co60 trên dòng lai 8 - 33 (DT80 x ĐH4). Giống DT84 có tiềm
năng năng suất cao, chống chịu sâu bệnh khá, khả năng thích ứng rộng, thời gian
sinh trưởng ngắn, chất lượng hạt tốt, dễ để giống và hiện nay DT84 đang là giống
được trồng phổ biến nhất miền Bắc nước ta. (Mai Quang Vinh, Ngô Phương Thịnh
1996) [22].
2.3.2.2. Những nghiên cứu về phân bón
Cây đậu tương cần có một lượng dinh dưỡng rất lớn, nhất là đạm. Tuy nhiên trên
thực tế do có khả năng sống cộng sinh với vi khuẩn cố định đạm Rhizobium Japonicum

nên lượng phân đạm bón cho đậu tương không nhiều, bởi nguồn đạm cộng sinh đáp ứng
tới 40 - 60% nhu cầu đạm của cây. Sau khi cây có 2 - 3 lá thật cây đậu tương có khả
năng cố định đạm để cung cấp cho hoạt động sống của mình. Nguồn đạm này được tăng
dần khi cây có 3 lá kép (nốt sần bắt đầu được hình thành) và đạt tối đa khi cây ra hoa,
làm quả sau đó giảm dần.
Lân và đạm có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau trong việc làm tăng số các cành cho
quả, số quả/cây (Lê Đình Sơn (1988) [19].
Theo Vũ Đình Chính (1998) [5] cho rằng: Bón kết hợp N, P trên đất bạc màu
nghèo dinh dưỡng với mức 90 kg P
2
O
5
/ha trên nền 40 kg N/ha làm tăng số lượng nốt
sần, số quả chắc/cây và năng suất hạt. Theo tác giả thì trong điều kiện vụ hè trên đất
bạc màu (Hiệp Hoà - Bắc Giang) bón cho giống đậu tương Xanh lơ Hà Bắc thích hợp
nhất là 20 kg N: 90 kg P
2
O
5
: 90 kg K
2
O.
Theo Nguyễn Văn Bộ (2001) [2]: Nếu chỉ bón riêng đạm cho đậu tương thì
năng suất đạt 1,4 tạ/ha. Trong khi đó cũng lượng đạm như vậy trên nền có bón lân
cho năng suất đậu tương đạt 2,3 tạ/ha.
Tác giả Trần Danh Thìn (2001) [20] cho biết: khi bón kết hợp N, P, Ca có tác
dụng rõ rệt trong việc khắc phục hạn chế của các yếu tố dinh dưỡng đất, nâng cao
20
năng suất đậu tương và lạc. Việc bón kết hợp cả 3 yếu tố N, P, K cho năng suất cao
nhất ở cả 2 nền phân cao và thấp. Đối với đất chua, nghèo dinh dưỡng bón 100N:

150 P
2
O
5
: 800 Ca : 50 K
2
O đã cho hiệu quả kinh tế của lạc và đậu tương cao.
Trần Thị Trường, Trần Thanh Bình (2005) cho biết tỷ lệ sử dụng phân đạm, lân,
kali thích hợp nhất cho đậu tương là 1:2:2. Đạm và Kali là hai yếu tố có ảnh hưởng
nhiều nhất tới năng suất của cây đậu tương. Nếu bón riêng rẽ kali cho bội thu 1,4
tạ/ha; trên nền đạm cho bội thu 4,3 tạ/ha. Nếu bón riêng rẽ đạm cho bội thu 1,4 tạ/ha;
trên nền có lân cho 2,3 tạ/ha; trên nền có kali cho 3,1 tạ/ha; trên nền có kali và lân
cho năng suất 5,4 tạ/ha [21].
Giống AK06 phát huy hết tiềm năng năng suất ở mật độ 30-35 cây/m
2
và cho
hiệu quả kinh tế cao ở công thức bón phân: 30 kg N: 60 kg P
2
O
5
: 60 kg K
2
O + 10 tấn
phân chuồng [14].
Tạ Kim Bính, Trần Đình Long, Nguyễn Văn Viết, Nguyễn Thị Bình [1] đã
nghiên cứu về công thức bón phân cho giống đậu tương ĐT2000 và kết luận: ở vụ
xuân với mức bón 30 kg N: 60 kg P
2
O
5

: 40 kg K
2
O và vụ đông với mức bón: 40 kg
N: 60 kg P
2
O
5
: 40 kg K
2
O thì hiệu quả phân bón đạt cao nhất và ĐT2000 cho năng
suất cao nhất.
21
3. VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. VẬT LIỆU, ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
3.1.1. Vật liệu nghiên cứu
3.1.1.1.Giống đậu tương
* Giống: Gồm 5 giống:
Giống: ĐVN6, DT96, DT84, ĐT26, ĐT20.
- Giống ĐVN - 6: Chọn tao từ tổ hợp lai Ak03/DT96 (2007). Giống có thời
gian sinh trưởng từ 90 - 92 ngày ở vụ xuân, 84 - 86 ngày ở vụ hè và vụ đông. ĐVN6
thuộc dạng hình sinh trưởng hữu hạn, dạng cây đứng, lá hình trứng nhọn, xanh đậm,
hoa tím , vỏ quả chín nâu đậm, hạt vàng, rốn vàng, giống thấp cây (38 - 43,2 cm),
phân cang mạnh. Khối lượng 1.000 hạt 170 – 190 g; hàm lượng protein trong hạt đạt
41,69 %. ĐVN - 6 là giống có khả năng chống bệnh tốt, chống đổ khá. Năng suất
trung bình ở vụ xuân 17,5 tạ/ha, cao nhất là 21 tạ/ha, vụ hè đạt 25 - 27 tạ/ha, vụ đông
đạt 18 - 22 tạ/ha.
- Giống DT 96: Lai tạo từ 2 giống đậu tương DT90 và DT84. DT96 có năng
suất cao, chống chịu sâu bệnh tốt, thích hợp cho các vùng đất khô hạn, có thể trồng
được 3 vụ/năm. DT96 có đặc điểm: hoa tím, lá hình tim nhọn, màu xanh, sáng, lông
nâu, cây cao 45 - 58cm, thân có 12 - 15 đốt, phân cành vừa phải, cây gọn, hình dáng

đẹp, phù hợp trồng thuần, quả chín màu vàng, số quả chắc trên cây cao, 25 - 35 quả.
Giống này có khả năng chống đổ khá, chống được các bệnh gỉ sắt, sương mai, đốm
nâu vi khuẩn, lở cổ rễ. Thời gian sinh trưởng trung bình 98 ngày (vụ xuân), 96 ngày
(vụ hè thu) và 90 ngày (vụ đông). Theo đánh giá, năng suất thực tế của DT 96 có khả
năng đạt tối đa 3,5 - 4 tấn/ha, cao hơn 30% so các giống bình thường và đặc biệt là
chịu hạn cực tốt.
22

×