Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Có nên tư nhân hóa công ty đại chúng? ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (95.48 KB, 4 trang )

Có nên tư nhân hóa công ty đại
chúng?

Đại chúng hóa?

Theo xu hướng chung, phần lớn các doanh nghiệp đại chúng hóa như một yêu cầu
tối thiểu của quá trình đăng ký niêm yết cổ phiếu trên sàn chứng khoán. Ngoại trừ
các doanh nghiệp đã niêm yết thành công và giả sử đang hưởng lợi từ việc niêm
yết, còn gần 1.000 doanh nghiệp đã chuyển từ doanh nghiệp tư nhân hoặc doanh
nghiệp nhà nước sang công ty đại chúng. Có bao nhiêu phần trăm doanh nghiệp
thực sự chuyển đổi để tận dụng các lợi ích tiềm năng của một công ty đại chúng và
bao nhiêu doanh nghiệp chỉ đơn thuần chuyển đổi để đáp ứng các thủ tục hành
chính?

Việc trở thành công ty đại chúng sẽ giúp doanh nghiệp thuận lợi hơn trong việc
huy động vốn, thu hút được đông đảo nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư cá nhân,
do cổ phiếu có thể được chuyển nhượng dễ dàng.

Nhiều công ty tư nhân kỳ vọng việc đại chúng hóa và niêm yết sẽ giúp doanh
nghiệp nâng cao giá trị thương hiệu và vị trí trên thương trường, ít nhất là thị
trường tài chính.

Tuy nhiên, đối với cổ đông, việc chuyển từ công ty tư nhân sang công ty đại chúng
sẽ tạo ra sức ép vô hình về mặt minh bạch thông tin do doanh nghiệp sẽ phải tuân
thủ các quy định công bố thông tin chặt chẽ hơn. Đối với các thành viên sáng lập,
mặc dù có lợi trong dài hạn, nhưng liệu điều này có được nhìn nhận là lợi ích
trong ngắn và trung hạn hay chỉ được coi là gia tăng chi phí và thời gian xử lý các
yêu cầu của một công ty đại chúng?

TTCK đã mang lại nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp niêm yết và cả các doanh
nghiệp tư nhân, nhất là trong các chu kỳ thị trường tăng trưởng tốt. Tuy nhiên, các


công ty đại chúng có thực sự thành công và tận dụng tối đa các lợi thế sau khi
chuyển đổi?

Về khả năng nâng cao giá trị thương hiệu. Luận điểm này có thuyết phục khi hiện
nay Việt Nam có khoảng 1,1 triệu tài khoản chứng khoán, trong đó thực tế chỉ
khoảng 20-30% số tài khoản thực sự hoạt động.

Về khả năng minh bạch hóa thông tin. Tính đến giữa năm 2011, số lượng các công
ty niêm yết có báo cáo tài chính sau kiểm toán chênh lệch so với báo cáo ban đầu
lớn, hoặc chuyển lãi thành lỗ lên tới vài chục trường hợp, chiếm tới không dưới
10% tổng số công ty niêm yết. Các công ty vi phạm công bố thông tin cả lớn lẫn
nhỏ dường như không thống kê được số lần. Như vậy, so với các công ty tư nhân
luôn được nhận định là thiếu minh bạch về vấn đề tài chính thì liệu các công ty đại
chúng đã thực sự tạo nên sự khác biệt? Liệu cổ đông của công ty đại chúng đã
thực sự yên tâm về chất lượng minh bạch thông tin của các công ty đại chúng?

Công ty đại chúng phải tuân thủ rất nhiều quy định về công bố thông tin so với
một công ty tư nhân. Ước tính, trung bình một doanh nghiệp phải chi tối thiểu
20.000-30.000 đô la Mỹ/năm cho hoạt động quan hệ cổ đông; các công ty lớn có
khi chi tới cả triệu đô la, chưa kể thời gian ban lãnh đạo phải dành cho việc tổ
chức các hoạt động quan hệ cổ đông. Trong thời điểm thị trường thuận lợi, kết quả
kinh doanh khả quan thì đây là các chi phí “có thể chấp nhận được” nhưng khi thị
trường vốn ngày càng cạnh tranh, kinh doanh gặp nhiều khó khăn thì các công ty
tư nhân lại có lợi thế hơn hẳn về mặt chi phí.

Hay tư nhân hóa?

Xét về lợi ích kinh tế, nếu lợi ích của việc chuyển đổi từ công ty tư nhân thành
công ty đại chúng lớn hơn các chi phí (bao gồm chi phí cơ hội) đi kèm thì không
nên chuyển đổi. Ngược lại, nếu chi phí của việc duy trì vị thế của một công ty đại

chúng (bao gồm công ty niêm yết) lớn hơn một công ty tư nhân thì việc chuyển
đổi nên được xem xét một cách nghiêm túc dù việc này có thể chưa phổ biến ở thị
trường tài chính Việt Nam. Có một số nhóm doanh nghiệp nên xem xét việc
chuyển đổi thành doanh nghiệp tư nhân.

Thứ nhất, doanh nghiệp có kết quả kinh doanh đặc biệt yếu kém, cần tái cấu trúc
toàn diện. Trong hai năm trở lại đây, gần chục công ty đã rơi vào diện cảnh báo
đặc biệt do thua lỗ kéo dài, giá cổ phiếu xuống thấp. Các doanh nghiệp này hầu
như không còn khả năng huy động vốn nếu không tái cấu trúc hoàn toàn về bộ
máy nhân sự, mô hình kinh doanh, cơ chế đầu tư… Khi việc cải tổ cần quyết liệt,
đòi hỏi sự nhạy bén, tránh các buổi đại hội đồng cổ đông bất thường mất thời gian
thì mô hình công ty tư nhân có lợi thế hơn.

Thứ hai, doanh nghiệp dự kiến chuyển đổi mô hình hoạt động sẽ đối mặt với sự
phản đối mạnh mẽ của các cổ đông nhỏ lẻ (chiếm tỷ lệ sở hữu nhỏ trong doanh
nghiệp). Trường hợp muốn thay đổi chiến lược của doanh nghiệp và vấp phải sự
phản đối quyết liệt của các cổ đông còn lại, nhóm cổ đông lớn có thể đàm phán
mua lại cổ phần và tư nhân hóa doanh nghiệp, thực hiện chiến lược kinh doanh
mới tới khi chứng minh được hiệu quả thì đại chúng hóa doanh nghiệp trở lại và
niêm yết. Các ngành nghề có thể áp dụng cách này là viễn thông, công nghệ thông
tin, vật liệu mới…

Thứ ba, doanh nghiệp không có khả năng tận dụng các cơ hội từ việc niêm yết
trong khi phải chịu nhiều áp lực và chi phí từ việc trở thành một công ty đại
chúng. Đây thường là doanh nghiệp có quy mô quá nhỏ (vốn điều lệ dưới 50 tỷ
đồng, lợi nhuận dưới 10 tỷ đồng), thuộc các ngành nghề có tính cạnh tranh cao
như vật liệu xây dựng, thương mại, dịch vụ… Các doanh nghiệp này không có khả
năng huy động vốn từ cổ đông mới, dựa vào vốn vay ngân hàng hơn là từ TTCK
nên lợi ích từ mô hình công ty đại chúng không đáng kể trong khi chi phí tuân thủ
các quy định công bố thông tin và quan hệ cổ đông khá lớn.


Trong khi việc chuyển đổi từ công ty đại chúng và công ty niêm yết thành công ty
tư nhân khá phổ biến ở các nước phát triển, đây vẫn được coi là “thói quen” chưa
phổ biến tại Việt Nam. Khi thị trường vốn ngày càng cạnh tranh, các doanh nghiệp
yếu về tài chính hoặc chiến lược hầu như không còn được hưởng lợi từ việc duy trì
hình ảnh của một công ty đại chúng có lẽ cần sớm tìm cho mình con đường riêng.
Đó là việc tư nhân hóa để tái cơ cấu toàn diện trước khi trở thành công ty đại
chúng và niêm yết trở lại

×