Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Rạn san hô Việt Nam – Nâng cao chất lượng cuộc sống ven bờ pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (330.91 KB, 3 trang )



Vấn đề Tiêu điểm
Số 3 • Tháng 7, 2006
Trung tâm Bảo tồn Sinh vật biển và Phát triển Cộng đồng (MCD)
Rạn san hô Việt Nam – Nâng cao chất lượng cuộc sống ven bờ
Các vấn đề
Việt Nam có sự đa dạng đặc biệt về san hô, nhất là ở
khu vực ven bờ biển miền Trung. Mặc dù chỉ chiếm
khoảng 1,1% diện tích rạn san hô vùng Đông Nam Á
nhưng Việt Nam lại có tới 90% các loài san hô (hơn 350
loài) của vùng Ấn Độ - Thái Bình Dương, và ít nhất cũng
có 390 loài cá rạn.
Đồng thời, Việt Nam cũng còn là một “điểm nóng” về đa
dạng sinh học – với 25% các rạn san hô có nguy cơ
cao, gấ
p 8 lần mức trung bình của khu vực Đông Nam
Á.
Mối nguy hại cho các rạn san hô của Việt Nam xuất phát
từ những yếu tố tương tự như ở nhiều quốc gia khác:
đánh bắt quá mức, đánh bắt hủy diệt (dùng thuốc nổ,
hoá chất), lắng đọng trầm tích và ô nhiễm, khai thác san
hô, bão tố, sinh trường tràn lan các loài hải miên, phát
triển quá mức tảo biển, sự xâm lấn bộc phát của sao
biể
n gai, và việc sử dụng nguồn lợi thiếu kiểm soát, kể cả việc
phát triển du lịch đại trà.
Phần lớn những tác động này đều do con người tạo ra, hoặc được thúc đẩy bởi các hoạt động của con
người. Chúng làm suy giảm những lợi ích mà các rạn san hô đem lại cho Việt Nam – cung cấp thực phẩm,
việc làm, bảo vệ bờ biển khỏi xói mòn và những thiệt hại do các trận bão l
ớn. Các rạn san hô cũng tạo tiềm


năng đáng kể trong khai thác các sản phẩm mới từ thiên nhiên, quan trọng đối với y tế và công nghiệp.
Một thách thức đặc biệt đối với công tác quản lý rạn san hô là nhiều lợi ích của chúng không mang những
giá trị thị trường trực tiếp, và phương pháp định giá các giá trị phi thị trường thành tiền vẫn còn đang được
xây dựng. Hơn nữa, cũng không dễ dàng để
diễn giải những giá trị này và đôi khi còn có những kết luận
khác nhau. Hạn chế này làm cho việc xây dựng chính sách, quy hoạch và quản lý hỗ trợ tài chính cho các
rạn san hô càng khó khăn hơn.
Mặc dù vậy, rõ ràng các giá trị đó là đáng kể. Việc thử nghiệm định giá rạn san hô cụm đảo Hòn Mun ở tỉnh
Khánh Hòa, Việt Nam cho thấy các dịch vụ giải trí liên quan đến rạn san hô tạo ra nguồn thu tài chính lớn
hơn so với sự tă
ng trưởng các ngành khác của địa phương như phát triển cảng biển. Khi các cơ hội tăng
lên (năm 2006 du lịch biển ở Việt Nam đã tăng lên hơn 20 phần trăm so với năm 2005), và nếu được quản
lý khôn khéo, thì các giá trị còn tăng nữa.
Những mối đe dọa xuyên biên giới đối với các rạn san hô của Việt Nam
Những mối đe dọa xuyên biên giới xuất hiện ở các quy mô khác nhau và khó quản lý hơn nhiều so với các
tác động địa phương. Các đe dọa đó bao gồm những hoạt động ở các tỉnh của Việt Nam, với khoảng cách
đến vùng rạn khác nhau, cơ chế hành pháp thiếu đồng
bộ, và hiệu quả quản lý môi trường khác nhau.
Một số mối đe dọa bắt nguồn từ đất liề
n: phá rừng, tiêu
thoát trầm tích từ các con sông, ô nhiễm từ nông nghiệp
và công nghiệp do các hóa chất bao gồm các sản phẩm
hyđrô-cácbon và dầu khí, cũng như chất thải rắn do các
dòng đại dương vận chuyển.
Sự hủy hoại sinh cảnh các vùng đất ngập nước ven biển
là những khu vực sinh sản của một số loài cá rạn cũng
đặt ra một mối đe dọa nghiêm trọng. Các tác động thị
trườ
ng, đầu tư và phát triển xuất phát từ bên ngoài vùng
ven biển có thể là nguyên nhân tạo ra những áp lực lớn

lên nguồn tài nguyên rạn san hô.
Ở cấp độ khu vực, ô nhiễm và rác biển trong vùng Biển
Đông (Biển Nam Hoa), và hoạt động đánh bắt trái phép,
bừa bãi và lén lút cả ở trong và ngoài vùng biển của Việt


Vấn đề Tiêu điểm Số 3 • Tháng 7, 2006
Trung tâm Bảo tồn Sinh vật biển và Phát triển Cộng đồng (MCD)
2
Nam đều đe dọa tới các rạn san hô.
Ở cấp độ toàn cầu, sự biến đổi khí hậu đã làm gia tăng sự axit hóa đại dương, sự mất canxi của các vùng
rạn, tăng nhiệt độ không khí và đại dương, dâng cao mực nước biển và làm biển đổi thời tiết và các quy luật
bão. Các vùng rạn của Việt Nam đã có hiện tượng tẩy trắng san hô nghiêm trọng. Sự phát triển tràn lan của
các sinh vật xâm lấ
n và gây bệnh cũng làm tăng các mối đe dọa. Những mối đe dọa đang gia tăng này
không thể chỉ giải quyết một cách cục bộ mà cần sự phối hợp, có chiến lược và sự ủng hộ ở các cấp từ địa
phương tới toàn cầu.
Quản lý và bảo tồn
Từ nhiều năm nay, các phương thức bảo tồn và quản lý
rạn san hô đều tập trung giải quyết những áp lực trực
tiếp và có tính địa phương đối với các vùng rạn ví dụ
như khai thác thủy sản và phát triển vùng bờ cục bộ, ô
nhiễm từ đất liền và du lịch địa phương. Những phương
thức này được xây dựng theo cách quản lý dựa vào
cộng đồng và mang tính địa ph
ương. Ở một số quốc gia
những cách thức này có truyền thống lâu đời và được
lồng ghép chặt chẽ với văn hóa địa phương.
Các nỗ lực toàn cầu cũng đã dẫn đến thành lập các khu
bảo vệ với các chức năng và tên gọi khác nhau, ví dụ:

Khu bảo tồn biển, Khu bảo vệ biển, Vùng cấm đánh bắt,
Công viên biển, cả đơn lẻ và theo mạng l
ưới.
Những khu này được xây dựng để bảo vệ nguồn tài
nguyên rạn san hô không bị đánh bắt quá mức, giúp
phục hồi sinh cảnh và các quần thể rạn san hô, duy trì
sự đa dạng gen, nâng cao nhận thức công chúng về
công tác quản lý và bảo tồn, và đồng thời tạo thêm thu nhập cho cộng đồng ven biển thông qua du lịch.
Những thách thức chính trong quá trình này bao gồm việc quyết định kích thước và hình dạng các khu bảo
vệ, địa
điểm của chúng, diện tích rạn được bảo vệ, và hiểu biết về sự liên kết của các quần thể rạn – các
“nguồn” và “bể” của chúng – nhất là khi có những rạn phân bố ngang qua ranh giới các quốc gia.
Còn có thể kể đến các phương pháp quản lý bổ sung như việc xây dựng sinh cảnh nhân tạo (“rạn nhân
tạo”), nuôi cấy san hô và thả thêm các loài động và thực vật rạn. Việc sử dụng các cách tiếp c
ận này cần
được đánh giá cẩn thận và những rủi ro của chúng phải được kiểm soát.
Gần đây, hoạt động quản lý đã mở rộng theo hướng dựa trên lưu vực và được đặc tả theo một số hình
tượng như từ Đỉnh núi cao tới Rạn san hô, từ Lưu vực sông tới Rạn san hô, từ Đỉnh đồi tới Đại dương (H20),
từ Nước trắ
ng tới Nước xanh, và kể cả lồng ghép hình thức khu bảo tồn biển và quản lý rạn trong khung
quản lý tổng hợp vùng bờ (ICZM). Kết quả cho thấy sự phục hồi năng suất rạn san hô đòi hỏi kết hợp các
can thiệp ở nhiều quy mô khác nhau để có sự thành công.
Các vấn đề xã hội của các cộng đồng phụ thuộc rạn san hô nổi lên rõ ràng trong tất cả những vấn đề phát
triển này. Những mối quan tâm về công bằng xã hội, đặc biệt là ở những nhóm thiệt thòi – ngư dân đánh bắt
nhỏ và gia đình họ, phụ nữ và người nghèo, và cải thiện sinh kế hiện tại cũng như trong tương lai, cần
những thay đổi trong định hướng phát triển của chính phủ và các tổ chức tài trợ cũng như trong cách sinh
hoạt của cộng đồng.
Các sinh kế thay thế và bổ sung b
ền vững về mặt kinh tế và môi trường cần được phát triển. Những thay đổi
này thường diễn ra trong điều kiện năng lực và các cơ hội của cộng đồng còn hạn chế. Vì vậy đòi hỏi có sự

can thiệp lâu dài và giám sát chặt chẽ.
Hướng hoạt động
Việc phục hồi các rạn san hô ở Việt Nam có giá trị to lớn đối với sinh kế của cộng đồng ven biển và toàn
quốc, đặc biệt là tăng năng suất nghề cá, giảm xói mòn vùng bờ và làm lợi cho ngành giải trí và du lịch. Điều
này chỉ xảy ra khi những lợi ích của việc thay đổi được định lượng cụ thể và rõ ràng, được công bố tới khắp
các bên liên quan – từ địa phương tớ
i quốc gia và quốc tế.
Vì mức độ tổn hại nghiêm trọng của các rạn san hô ở Việt Nam, vì sự phân bố rộng khắp của chúng dọc
theo bờ biển và nhiều đảo, vì số lượng lớn các cộng đồng ven biển phụ thuộc vào các vùng rạn và vì chi phí
can thiệp cao, cần có những chương trình phối hợp nhịp nhàng. Các chương trình đó nên bao gồm, nhưng
không nhất thiết chỉ là, các khu bảo tồn biển và qu
ản lý tổng hợp vùng bờ.


Vấn đề Tiêu điểm Số 3 • Tháng 7, 2006
Trung tâm Bảo tồn Sinh vật biển và Phát triển Cộng đồng (MCD)
3
Thông tin về các hoạt động cần được phổ biến thông qua tích cực trao đổi kinh nghiệm, học hỏi từ sự phát
triển của các quốc gia vùng nhiệt đới khác và tham gia các nỗ lực trong khu vực và quốc tế để giải quyết các
mối đe dọa nảy sinh từ bên ngoài. Trên thế giới có một kho kinh nghiệm quý báu của các nước (những
phương thức hiệu quả nhất, những thành công và thất bại), và rất nhiề
u trong số này có giá trị đối với Việt
Nam.
Để phục hồi rạn san hô và phát triển những lợi ích của chúng, cần có sự định giá toàn diện các rạn san hô
và sử dụng cách tiếp cận hệ sinh thái. Các chi phí kinh tế và xã hội của các phương thức hiện tại đang áp
dụng và các lợi ích cụ thể của việc phục hồi rạn san hô cần được minh chứng và liên kết với các cơ chế tài
chính. Những m
ối quan hệ và liên kết của các quần thể rạn và các hệ thống rạn cần được chứng minh và
giải thích rõ ràng, công khai. Tương tự như vậy đối với những tác động của các sự kiện và các hoạt động
ảnh hưởng đến năng suất rạn san hô.

Hiện nay có rất nhiều kỹ thuật và phương pháp đang được sử dụng, cho nên việc lựa chọn công cụ phù hợp
là rất quan tr
ọng. Trong nhiều hoàn cảnh, một hành động quản lý đơn lẻ là không đủ. Do đó, khi lựa chọn,
nhất thiết phải quan tâm đến các hoạt động bảo vệ rạn san hô khỏi những tổn hại trực tiếp và tức thời, ví dụ
đánh bắt hủy diệt và quá mức, ô nhiễm.
Cũng cần có những can thiệp chiến lược với sự tham gia của các phương tiện truyền thông và giáo dục
qu
ần chúng, xây dựng các kết nối giữa cộng đồng, khối tư nhân và chính phủ. Các khung pháp lý và thể chế
cần được xây dựng và tăng cường.
Các cơ chế đồng quản lý ở những cấp rộng hơn so với cấp cộng đồng địa phương cần được xây dựng và
áp dụng, đồng thời quyền của những cộng đồng phụ thuộc vào nguồn tài nguyên rạn san hô cần được th

chế hóa và duy trì.
Những lợi ích thu được sẽ rất lớn.
Các tài liệu tham khảo
Ablan, M.C.A., 2006, “Di truyền học và nghiên cứu mối liên kết nghề cá ở các nước đang phát triển Châu Á”, Nghiên cứu
nghề cá, 78, trang 158-168.
“Kế hoạch hành động về quản lý hệ sinh thái rạn san hô Việt Nam đến năm 2015”, Cuộc họp lần thứ sáu của nhóm công
tác vùng về tiểu phần Rạn san hô của Dự án UNEP/GEF: “Ngăn ngừa xu thế suy thoái môi trường tại biển Đông và Vịnh
Thái Lan”, Masinloc, Philippines, 22-25 tháng 8, 2005, UNEP/GEF/SCS/RWG-CR.6/7, trang 25.
Buddemeier, RW, Kleypas, JA, và Aronson, RB, 2004, Những nguy cơ tiềm ẩn của thay đổi khí hậu góp phần tạo sức ép
lên các hệ sinh thái rạn san hô, Trung tâm thay đổi khí hậu toàn cầu, Hoa Kỳ, trang 56.
Burke, L, Selig, E, và Spalding, M, 2002, Các rạn san hô bị đe dọa trong vùng Đông Nam Á, Viện tài nguyên thế giới
(WRI), Hoa Kỳ, trang 72.
Phạm Khánh Nam & Trần Võ Hùng Sơn, 2005, “Giá trị giải trí của vùng san hô quanh cụm đảo Hòn Mun ở Việt Nam:
Nghiên cứu chi phí đi lại và định giá ngẫu nhiên” trong Ahmed, M, Chiew, KC & Cesar, H (biên tập) Định giá kinh tế và
các ưu tiên chính sách cho quản lý bền vững các rạn san hô, bản s
ửa lại 2005, bản số 2, Kỷ yếu Hội thảo Trung tâm Cá
Thế giới, trang 84-107.


Thông tin liên hệ
Trung tâm Bảo tồn Sinh vật biển và Phát triển Cộng đồng (MCD)
Phòng 1605, Tầng 16, Khu B, Tòa nhà M3-M4
91A Nguyễn Chí Thanh, Đống Đa, Hà Nội, Việt Nam
ĐT: +84 4 275 2106
Fax: +84 4 275 2107
Email:

Web: www.mcdvietnam.org


×