Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

THUẬT NGỮ "SƠN MÀI VIỆT NAM" NHỮNG VẤN ĐỀ NGHỆ THUẬT pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.81 KB, 6 trang )

THUẬT NGỮ "SƠN MÀI
VI
ỆT NAM" NHỮNG VẤN
ĐỀ NGHỆ THUẬT

Nghệ thuật sơn mài Việt Nam đã có trải qua một chặng đường gần 80 năm,
từ ngày nó được hình thành nhờ sự tìm tòi nghiên cứu về chất liệu của lớp
họa sĩ khóa đầu trường Mỹ thuật Đông Dương, được thoát thai từ hàng trăm
năm nghệ thuật trang trí sơn truyền thống và bước vào n
ền hội họa Việt Nam
với một tên gọi mới thật có ý nghĩa và giản dị là sơn mài. Đến nay đã có rất
nhiều thế hệ họa sĩ vẽ sơn mài, có người được đào tạo chính qui theo chuy
ên
ngành, có người vì yêu thích vẻ đẹp của chất liệu mà đến với nó. Vào tháng
12 năm 2008, Hội Mỹ thuật Việt Nam đã có tổ chức triển lãm chuyên đề s
ơn
mài, và ngay sau đó đã diễn ra một cuộc hội thảo rất sôi nổi của những
người làm nghề xoay quanh việc sáng tác và sử dụng tên gọi cho tranh sơn
mài. Sau gần 8 thập kỷ, kể từ khi sơn mài được hình thành, qua sự phát triển
và biến đổi của kỹ thuật và chất liệu, người ta lại có dịp được bàn lại về
chính tên gọi của nó. Có nên chăng thay đổi thuật ngữ hay tên gọi cho tranh
sơn mài Việt Nam?


Theo ý kiến của họa sĩ Trần Khánh Chương thì nguyên liệu của tranh s
ơn
mài là dùng nhựa cây sơn ta và nên đưa ra nhiều quan niệm mới hơn khi v

tranh ngoài các kỹ thuật đã có. Truyền thống cần được gìn giữ v
à phát huy
nhưng nếu giữ gìn truyền thống một cách bảo thủ thì nghệ thuật s


ơn không
thể phát triển được. Ví dụ như tranh sơn d
ầu, nếu chỉ dừng lại ở thời kỳ Phục
Hưng, lấy tiêu chí nhẵn, phẳng thì sơn dầu không phát triển nh
ư ngày nay
được. Sơn Nhật cũng là một chất liệu sơn và nên gọi tên nó là sơn Nh
ật.
Dùng chất liệu sơn ta thì nên gọi tên là tranh sơn ta. ý ki
ến của họa sĩ
Nguyễn Đỗ Bảo cho rằng: sơn ta t
ừ nghệ thuật trang trí đến nghệ thuật tạo
hình rồi lại trở về nghệ thuật trang trí nhưng ở tầng cao hơn và ph
ải đẩy
nghệ thuật trang trí lên tới đỉnh cao là nhiệm vụ của người họa sĩ s
ơn mài.
Có lẽ nên gọi là tranh sơn hay sơn Phú Thọ (tức là tranh sơn ta) đ
ể phân biệt
giữa chất sơn của mình với chất sơn các nước bạn.
Có ý kiến lại cho rằng “lý tưởng nhất của sơn mài là mài” và phải gi
ữ thuật
ngữ sơn mài là vì lý do đó. Khi mài cũng là vẽ và mài t
ạo cho sự thay đổi
cảm hứng sáng tạo. Gọi là tranh sơn mài vì nhất định phải mài ra m
ới thấy
hết hiệu quả. Tranh sơn mài Vi
ệt Nam khác với các tranh của Trung Quốc ở
điểm này, mang tính độc đáo, tính dân tộc của Việt Nam, càng không gi
ống
như cách vẽ sơn dầu ở các nư
ớc Tây Âu khác. Theo ý kiến của một nghệ

nhân sơn mài, cũng có thể chia làm ba dòng tranh: tranh sơn Phú Th
ọ, tranh
sơn Nhật và tranh sơn Điều cho thật rõ ràng, dựa trên chất liệu mà ngư
ời họa
sĩ chọn. Người vẽ sẽ tự tìm đến chất liệu sơn nào phù hợp khi sáng tác.
Qua cuộc hội thảo nói trên và thu thập ý kiến trao đổi rộng rãi c
ủa các nghệ
sĩ và nhà phê bình mỹ thuật, có thể nêu tóm tắt như sau về ưu th
ế của tranh
sơn mài:
- Về nguyên liệu và kỹ thuật thể hiện: Sơn mài sử dụng nhựa sơn và các ch
ất
màu trong tự nhiên như son, vàng, bạc, xà c
ừ, vỏ trứng, đem lại cảm thụ độc
đáo mà các chất liệu công nghiệp không thể sánh đư
ợc. Kỹ thuật thể hiện
của sơn mài phức tạp và công phu hơn các thể loại khác. Ngư
ời vẽ phải dự
tính kỹ càng, tính toán tỉ mỉ, phải vẽ rất nhiều lớp để cuối cùng k
ết thúc bằng
thao tác mài, để có được sự ẩn hiện của các lớp màu phong phú. Chính s

thể hiện công phu này cũng góp phần làm nên giá trị của tranh.
- Về hiệu quả nghệ thuật: Tranh sơn mài có màu sắc trầm ấm và đ
ằm thắm.
Đặc điểm riêng về màu sắc cùng với đặc điểm về chất liệu l
àm cho sơn mài
vừa thuần hậu lại vừa sang trọng, vừa mang tính dân tộc rõ nét v
ừa gần gũi
với xu thế đương đại. Tranh sơn mài Việt Nam đã hình thành m

ột ngôn ngữ
nghệ thuật độc đáo, đầy ảo giác lung linh. Hơn nữa “sơn ta trở thành m
ột
phương tiện độc lập diễn tả tâm hồn nghệ sĩ , diễn đạt đời sống b
ên trong
con người nghệ sĩ” (Tô Ngọc Vân).
Trong quá trình phát triển, nghệ thuật sơn mài đã có những bư
ớc cải tiến
quan trọng: Từ một số màu hạn hẹp, sơn mài giờ đây đã có một dải m
àu đa
sắc hơn, từ gam nóng đến gam lạnh. Các chất liệu truyền thống đư
ợc bảo tồn
nhưng phương pháp sử dụng chất liệu đa dạng hơn trước, cách
mài tranh
không nhất thiết phải mài nhẵn hoàn toàn mà tùy thuộc vào hi
ệu quả nghệ
thuật của tranh. Những cải tiến này giúp nghệ sĩ sơn mài ngày càng th
ỏa
mãn đư
ợc khát khao về biểu hiện sức sáng tạo trong một thể loại nghệ thuật
được đánh giá là độc đáo trên thế giới.
Tuy nhiên, tranh sơn mài c
ũng có những hạn chế nhất định so với các thể
loại khác: Nguyên liệu sơn mài ràng buộc chặt chẽ phương pháp diễn đạt v
à
biểu hiện nghệ thuật. Kỹ thuật làm tranh và qui trình ch
ế tác phức tạp, sự thể
hiện tranh tốn nhiều thời gian và công sức. Nguyên li
ệu đắt đỏ, trong khi giá
tiêu thụ tác phẩm không cao hơn nhi

ều so với các thể loại khác. Những hạn
chế này đã khiến không ít họa sĩ cảm thấy tương lai của nền nghệ thuật n
ày
có phần ảm đạm trong sự giao động sóng gió của thị trường.
Từ thực tế trên, không ít người đã có cách ứng xử tiêu c
ực trong sáng tác
tranh sơn mài. Xuất hiện tranh “sơn giả” thay cho sơn mài: Dùng cách v
ẽ bột
màu phủ PU, dùng thiếc thay bạc cựu, dùng nhũ giả thay v
àng. Tranh sơn
giả có thể bóng bẩy, hào nhoáng nhưng mất đi chiều sâu đằm thắm v
à duyên
dáng của sơn mài truyền thống. Về độ bền của tác phẩm, tranh sơn gi
ả cũng
có tuổi thọ ngắn hơn tranh sơn mài truyền thống.
Song, công bằng mà nói, tranh sơn Việt Nam ở giai đoạn hiện nay cần đư
ợc
xem xét toàn di
ện ở nhiều khía cạnh. Những tranh tuy không sử dụng
nguyên liệu sơn ta truyền thống, những nguyên li
ệu đắt tiền, vẫn có chỗ
đứng của nó. Bởi lẽ, giá trị của tác phẩm nghệ thuật không chỉ đư
ợc khẳng
định ở việc sử dụng nguyên liệu và biện pháp kỹ thuật mà còn đư
ợc khẳng
định ở các giải pháp tạo hình, đặc biệt là sự tổng hòa các quan h
ệ giữa bố
cục, hình tượng, màu sắc và những dạng chất trên b
ề mặt tranh. Bản chất
nghệ thuật là khám phá, tác phẩm sơn mài “phi truyền thống”, như s

ử dụng
nguyên liệu sơn Nhật chẳng hạn, nếu giải quyết tốt đư
ợc những mối quan hệ
trên thì vẫn có thể mang lại hiệu quả nghệ thuật trừ một ti
êu chí là nó không
được chế tác công phu và dùng nguyên liệu quí hiếm giống nh
ư sơn mài
truyền thống. Như vậy, bên cạnh tranh sơn mài được chế tác theo ph
ương
pháp truyền thống là loại tranh đã đư
ợc xếp đẳng cấp cao của nghệ thuật
tranh sơn, những tranh sơn thể loại khác (mài và không mài toàn b
ộ) vẫn có
thể làm cho nghệ thuật tranh sơn c
ủa ta phát triển phong phú, đáp ứng nhu
cầu đa dạng của nghệ thuật. Các họa sĩ hiện nay có thể dùng vóc vẽ trên c
ốt
mặt phẳng composit, dùng các kỹ thuật gắn, đắp, phun sơn trên b
ề mặt với
nhi
ều thay đổi kỹ thuật, có chỗ tạo độ bóng, có chỗ không nhẵn, có chỗ gắn
các chất liệu khác, đó là sự “phóng tác” ngoài kỹ thuật truyền thống.
Nghệ thuật vẽ sơn sẽ còn phát triển và cho nhiều thành t
ựu sáng tạo. Thuật
ngữ “sơn mài Việt Nam” sẽ còn tồn tại mãi. Nhưng thuật ngữ “tranh s
ơn
Vi
ệt Nam” cũng nằm trong tầm tay của các thế hệ họa sĩ đang tiếp cận với
một loại hình nghệ thuật có nhiều đặc trưng kỳ thú. Gìn giữ những gì đ
ã có

hay tiếp biến sang một trang mới cũng đều là những thành t
ựu cần có thời
gian để trả lời.
NguyÔn Thanh Giang



×