Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Ý KIẾN ĐÓNG GÓP DỰ THẢO NGHỊ ĐỊNH CỦA CHÍNH PHỦ VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG MỸ THUẬT ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.71 KB, 10 trang )

Ý KI
ẾN ĐÓNG GÓP DỰ THẢO
NGH
Ị ĐỊNH CỦA CHÍNH PHỦ
VỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
MỸ THUẬT

Đất nước chúng ta đã trải qua thời gian hội nhập 24 năm, mọi sự chuyển
động về kinh tế, văn hóa nghệ thuật đã, đang có sự thay đổi và phát triển
trong chiều hướng rất tốt và hướng đến chuẩn hóa các tổ chức hoạt động,
trong đó có tiêu chuẩn đánh giá mang tính quốc tế ISO (International
Standar Organization).
Triển khai những định hướng phát triển văn hóa nghệ thuật theo Nghị quyết
23, chúng ta đang hoạt động, quan tâm và từng bước hoàn thiện, bổ sung,
thay đổi những quy định về quản lý cũ xưa vốn không còn thích hợp hay
chưa thể hiện được tinh thần của sự đổi mới, sự quan tâm đến các điều kiện
để tiến hành được các hoạt động giữ gìn bản sắc văn hóa, cá di sản của dân
tộc, phát huy sáng tạo, chuyên nghiệp hóa trong tổ chức quản lý các hoạt
động về mỹ thuật trong thời kỳ hội nhập.
Mỗi thời đại đều có những đặc trưng riêng và các hoạt động nghệ thuật nói
chung, mỹ thuật nói riêng ở đó diễn ra những điều tốt và những điều không
tốt. Do vậy, để điều hành, quản lý các hoạt động này đòi hỏi chúng ta phải
gắn các chủ trương, chính sách, sự hoạch định với những thực tiễn đang
diễn ra của thời đại cụ thể.
Khi nói đền thuật ngữ “quản lý các hoạt động mỹ thuật” thì chúng ta sẽ phải
đối mặt đến các lãnh vực rất lớn có tính chất cốt lõi như sau: Đặc tr
ưng, yêu
cầu của thời đại; quan điểm xây dựng phát triển mỹ thuật; quy mô, phương
cách đầu tư đào tạo và phát triển tài năng; xây dựng hệ thống các công trình
kiến trúc phục vụ cho việc đào tạo; quy đ
ịnh về các hoạt động, các chế độ về


bảo tồn, duy tu,phục chế; các quy định về t
ổ chức, xây dựng hệ thống không
gian trưng bày, triển lãm quảng bá tác phẩm; các chế độ chính sách có liên
quan đến việc quản lý trong đó có trình độ của những nhà quản lý; sáng tác,
giao lưu mỹ thuật; phổ biến, trưng bày tác ph
ẩm; quyền tác giả; các quy định
về thẩm định, đánh giá tác phẩm về thẩm mỹ và kinh tế
Sau khi đọc kỹ bản nội dung , cấu trúc của các chương, các điều mà trong
dự thảo Nghị định Quản lý hoạt động mỹ thuật được các nhà chuyên môn
của Bộ Văn Hóa, Thể Thao & Du lịch biên soạn gửi đến các cơ quan
chuyên môn để xin góp ý. Chúng tôi, những người l
àm công tác chuyên môn
về quản lý hội chuyên ngành, đào tạo và sáng tạo mỹ thuật nhận thấy rằng
nội hàm của toàn bộ nghị định được tóm tắt trong tên gọi là “Về quản lý
hoạt động mỹ thuật” và những vấn đề mà bản dự thảo nêu ra khá chu đáo,
nhưng vẫn còn thiếu một số vấn đề khá quan trọng cần góp ý. Tôi xin nêu l
ại
một cách tóm tắt các chương, các điều của bản dự thảo để từ đó chúng ta
xem xét những vấn đề cần bổ sung và góp ý.
Nội dung của toàn bộ dự thảo Nghị định Quản lý hoạt động mỹ thuật hiện
tại được cấu trúc và viết thành VIII chương và từ đó chia ra thành 46 điều.
ở chương I có tên là: Những quy định chung. Có 6 điều (từ 01 đến 06) như
sau: Phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, giải thích từ ngữ, chính sách
của Nhà nước về phát triển m
ỹ thuật, kinh phí phần mỹ thuật trong các công
trình, những hành vi bị nghiêm cấm.
ở chương II có tên là: Triển lãm mỹ thuật. Có 4 điều (từ 07 đến 12) nh
ư sau:
Điều kiện tổ chức triển lãm, thẩm quyền cấp giấy phép triển lãm, th
ủ tục cấp

giấy phép triển lãm, nhà triển lãm mỹ thuật.
Hiện nay, tên gọi của Chương này dường như chưa bao hàm được sự quan
tâm đầy đủ đến thực tế, toàn bộ lãnh vực hoạt động mỹ thuật. Đặc biệt là
“toàn bộ hệ thống đầu ra” của tác phẩm cũng như vấn đề lưu gi
ữ, bảo tồn tác
phẩm mỹ thuật.
ở chương III có tên là: Thi, liên hoan về mỹ thuật. Chương này gồm có 3
điều (từ 11 đến 13) như sau: Thẩm quyền cấp giấy phép các cuộc thi, liên
hoan mỹ thuật; thủ tục cấp phép các cuộc thi, liên hoan mỹ thuật; trách
nhiệm của tổ chức cuộc thi, liên hoan.
ở chương IV có tên là: Cửa hàng mỹ thuật (Gallery), sao chép, đấu giá tác
phẩm. Có 7 điều (từ 14 đến 20) như sau: Cửa hàng mỹ thuật, sao chép tác
phẩm mỹ thuật, sao chép tranh tượng lãnh tụ, đấu giá tác phẩm, giám định
tác phẩm mỹ thuật, hội đồng giám định tác phẩm mỹ thuật, cơ quan giám
định tác phẩm mỹ thuật.
ở chương V có tên là: Xây dựng, bảo quản, tu bổ, chuyển chất liệu tượng
đài, tranh hoành tráng. Có 13 điều (từ 21 đến 33) như sau: (quy định chung
về xây dựng tượng đài, tranh hoành tráng quy hoạch tượng đài tranh hoành
tráng; quy trình thực hiện tác phẩm mỹ thuật trong dự án đầu tư xây dựng
tượng đài tranh hoành tráng; chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của ban quản
lý dự án tượng đài, tranh hoành tráng; hội đồng nghệ thuật tượng đài, tranh
hoành tráng; tác giả; tổ chức sáng tác mẫu phác thảo; thẩm định toàn phần
mỹ thuật tượng đài, tranh hoành tráng; cấp phép thể hiện phần mỹ thuật
tượng đài, tranh hoành tráng; thực hiện phần mỹ thuật tượng đài, tranh
hoành tráng; bảo quản, tu bổ, di dời, chuyển chất liệu; bảo hành.
ở chương VI có tên là: Trại sáng tác điêu khắc. Có 8 điều (từ 34 đến 41) nh
ư
sau: điều kiện để cấp giấy phép để tổ chức trại sáng tác điêu khắc; chủ đầu
tư trại sáng tác điêu khắc; hội đồng nghệ thuật; trại viên trại sáng tác điêu
khắc; thể hiện tác phẩm; thể lệ tổ chức trại sáng tác điêu khắc; quy hoạch,

thiết kế và trưng bày tác phẩm tại trại sáng tác điêu khắc; bảo hành, bảo
quản, bảo dưỡng.
ở chương VII có tên là: Phần mỹ thuật trong các công trình công công, du
lịch và tôn giáo. Chương này có 03 điều (từ 42 đến 44) như sau: Phạm vi
điều chỉnh; hội đồng thẩm định chất lượng nghệ thuật các công trình công
cộng, du lịch, tôn giáo; cấp phép thể hiện phần mỹ thuật trong các công tr
ình
công cộng, du lịch và tôn giáo.
ở chương VIII có tên là: Điều khoản thi hành. Chương này có 02 điều (từ 45
đến 46) như sau: hiệu lực thi hành; trách nhiệm thi hành.
Trên đây là chúng tôi tóm tắt nội dung chủ yếu của dự thảo. Trước khi đưa
ra những vấn đề cần góp ý, chúng ta cần xác định là chúng ta biên soạn
Nghị định này xuất phát từ yêu cầu của thời đại hội nhập, giao lưu quốc tế;
thời đại phải thể hiện tính chuyên nghiệp, chuyên môn cao trong các hoạt
động văn học nghệ thuật; thời đại mà không ít các di sản, vốn cổ…bị xâm
hại ở mức độ báo động.
Chúng ta phải xác định là mọi chủ trương mà Nghị định đặt ra phải vừa bảo
đảm các yêu cầu vừa nói mà còn phải tạo thuận lợi cho sự phát triển, phong
phú, đa dạng, mở rộng các loại hình, ngôn ngữ mỹ thuật. Bởi lẽ, nhu cầu
phát triển, hội nhập, thể hiện tính dân chủ, tự do trong các hoạt động sáng
tạo mỹ thuật, bảo vệ, gìn giữ di sản, bản sắc văn hóa là vô cùng cấp thiết.
Chúng ta ai cũng biết rằng có hai khái niệm, yêu cầu của quản lý các hoạt
động mỹ thuật Một là: Quản lý mà chỉ cốt để giữ gìn nguyên trạng. Điều
này thì không, nhưng không quá khó. Hai là: Trong thời đại mới thì quản lý
để tạo sự phát triển tốt hơn xưa … quả là vô cùng phức tạp và khó hơn rất
nhiều . Từ các xác định nói trên, người viết nhận thấy có những vấn đề cần
góp ý như sau :
1. Điều đáng quan tâm là lẽ ra ngay trong phần mở đầu, trước khi đề cập
đến “Phạm vi điều chỉnh” thì nên có “Quan điểm, yêu cầu của việc điều
chỉnh” mà ở đó nêu rõ các nhu cầu của thời đại mới cũng như những vấn đề

mở ra của Nghị Quyết 23 về tiếp tục phát triển các hoạt động sáng tác nghệ
thuật trong thời đại mới. Đặc biệt là chúng ta đang bước vào thế kỷ 21 đã
trải qua 10 năm rồi.
2. Chúng ta ch
ọn quan điểm thứ hai về quản lý mỹ thuật (quản lý để tạo điều
kiện phát triển) .Điều này cũng đã được nêu ra trong điều 4 của Chương I.
Đó là “Chính sách của Nhà nước về phát triển mỹ thuật”.
Tuy nhiên, trong những vấn đề được nêu trong dự thảo thì lại thiếu hai
lãnh
vực cực kỳ quan trọng mà chủ trương về chiến lược phát triển phải có nh
ưng
trong dự thảo không hề nói tới. Đó là:
- Chính sách quy hoạch, đầu tư xây dựng mới, bổ sung, phát triển và qu
ản lý
hệ thống Bảo Tàng, các Gallery, Nhà triển lãm trong thời kỳ mở của hội
nhập, phát triển đa dạng ngôn ngữ mỹ thuật như Nghị quyết 23 đã đề cập.
Trong Chương V, ở điều 14 chỉ đề cập đến “Cửa hàng mỹ thuật (Gallery)”
nhưng nội dung quá sơ lược, không toát lên được sự đ
ổi mới, phát triển, hoạt
động trong thời kỳ hội nhập và chuyên nghiệp, đạt chuẩn quốc tế. Đặc biệt l
à
toàn bộ nội dung của dự thảo Nghị định không hề nói tới Bảo Tàng mỹ
thuật!
- Vấn đề trình độ, quy chuẩn của các cán bộ quản lý mỹ thuật từ Bảo Tàng
có đến các cơ quan có vai trò trong việc định hướng, phát triển, đánh giá
nghệ thuật. Trong khi Nhà nước quy định tỷ lệ nhà chuyên môn trong Hội
đồng giám định, nhưng không quy định trình độ chuyên môn của các cán bộ
quản lý (ngoài hội chuyên ngành).
3. Trong dự thảo thiếu những thuật ngữ cần thiết nên không được thể hiện r
õ

trong phần giải thích các từ ngữ đó là:
- Thiếu thuật ngữ Bảo tàng mỹ thuật.Nếu không có cơ quan này thì nói tới
quản lý và phát triển mỹ thuật sẽ hụt hẫng, không khoa học.
- Thiếu các nhà sưu tập và các nhà giám tuyển (curator), nhà đấu giá. Trong
nền kinh tế thị trường mà thiếu các chuyên gia, tổ chức này là chưa đầy đủ,
không thực tế.
4. Trong phần giải thích các từ ngữ cũng chưa giải thích hết ý. Thiết nghĩ,
nếu không giải thích hết ý thì sẽ không có những đánh giá và ho
ạch định đầy
đủ. Sau đây là chúng tôi xin phép được bổ sung các ý trong một số từ ngữ
như sau:
4.1. ở từ ngữ thứ 8 “Nghệ thuật sắp đặt” có lẽ nên ghi thêm ý để hiểu rõ về
nghệ thuật này như sau “Nghệ thuật sắp đặt là lĩnh v
ực nghệ thuật nghệ thuật
thuộc khuynh hướng hậu hiện đại (post modernism), ngôn ngữ biểu đạt của
nó là phối hợp các vật thể, hình ảnh tĩnh hay động, âm thanh… theo hệ
thống bố cục nào đó được trưng bày trong nội thất hay ngoài trời có tính
thẩm mỹ để thệ hiện ý tưởng nội dung nào đó mà người xem có khi đứng
bên ngoài hay đi vào trong tác phẩm để cảm thụ bằng nhiều quan năng: thị
giác, thính giác, xúc giác, thậm chí cả khứu giác nữa”.
4.2. ở từ ngữ thứ 17 “Hoạt động mỹ thuật” cần ghi rõ hơn “Hoạt động mỹ
thuật là thuật ngữ bao gồm các hoạt động sáng tác, thể hiện, quản lý, giới
thiệu, trưng bày, bảo quản, duy tu, nghiên cứu, lý luận phê bình, đánh giá,
thẩm định, mua bán, trao đổi, nhân bản tác phẩm mỹ thuật từ dạng 2 chiều
(two dimensional fine art), 3 chiều (three dimensional fine art) cho đến môi
trường (invironmental fine art)…”.
4.3. ở từ ngữ thứ 17 “Bảo quản tu bổ tác phẩm mỹ thuật” có lẻ cần ghi cho
hết ý để tránh tình trạng giết chết các di sản bằng sự không tôn trọng giá trị
bản gốc, tính thời gian, tính lịch sử. Sau đây là câu chữ mà chúng tôi bổ
sung (có tô đậm và gạch dưới) “Bảo quản, tu bổ tác phẩm mỹ thuật là hoạt

động bảo vệ, tu sửa, gia cố và tôn tạo tác phẩm trên cơ sở tôn trọng giá trị
lịch sử, tính thẩm mỹ, phong cách thời đại của bản gốc, (ở phần giải thích
không có ghi phần mà chúng tôi bổ sung).
4.4. ở từ ngữ thứ 18 “Phần mỹ thuật trong công trình tượng đài và các công
trình văn hóa dân dụng” đã được giải thích, nhưng chưa hết ý. Xin bổ sung
thêm sau chữ “khối phụ trợ”, thiết kế hệ thống ánh sáng và cây cảnh.
Như vậy toàn câu giải thích sẽ như sau “Phần mỹ thuật trong công trình
tượng đài và các công trình văn hóa dân dụng bao gồm tượng, phù điêu,
tranh hoành tráng, đài, khối biểu tượng, khối phụ trợ cùng với phần thiết kế
hệ thống ánh sáng, cây cảnh làm tôn nên giá trị ý tưởng, thẩm mỹ.
5. Góp ý bổ sung thêm điều 11 vào Chương I. Hiện tại chỉ có 10 điều. Bảo
tàng mỹ thuật hay Hệ thống Bảo tàng mỹ thuật.
5.1 Góp ý ở điều 4 “Chính sách của Nhà nước về phát triển mỹ thuật”
Chương I: Trong phần liệt kê ở mục số 1 có 7 vấn đề được nêu ra từ a cho
đến f. Theo chúng tôi nên bổ sung thêm những phần chưa có như:
- Đầu tư, sửa chữa, nâng cấp và xây dựng thêm hệ thống Bảo Tàng M
ỹ thuật
cho phù hợp với sự phát triển của lực lượng sáng tạo, loại hình m
ỹ thuật; đáp
ứng nhu cầu hội nhập, chuyên nghiệp hóa, chuẩn hóa quốc tế….
- Đầu tư cho việc giáo dục đào tạo các cấp cán bộ quản lý mỹ thuật về trình
độ chuyên môn trong điều hành, thẩm định. Đặc biệt là các cán bộ, chuyên
gia quản lý hệ thống Bảo tàng, gallery, nhà triển lãm, nhà trưng bày cũng
như các cán bộ có liên quan đến việc hoạch định chiến lược, sách lược phát
triển mỹ thuật trong thời đại mới.
- Từng bước thực hiện các quy định về mua bán tác phẩm cho phù hợp với
thời giá và góp phần nâng cao giá trị mua bán tác phẩm mỹ thuật Việt Nam
so với khu vực và quốc tế. (Bởi lẽ nếu chúng ta không “l
àm giá” thì không ai
quan tâm đến thị trường giá tác phẩm của mình * Phần giải thích này không

ghi vào Nghị định ).
Tóm lại, với vai trò là người nghiên cứu, giảng dạy, sáng tác và quản lý mỹ
thuật, tôi xin mạnh dạn đưa ra một số ý kiến nói trên với ý muốn rằng Nghị
định của chính phủ về hoạt động mỹ thuật sẽ cho thấy được tầm nhìn, sự
quan tâm đổi mới, phát triển các hoạt động đa dạng của mỹ thuật theo như
tinh thần của Nghị quyết 23 đồng thời gắn liền với thực tiễn của xã h
ội Việt
Nam hiện đại trong thời kỳ hội nhập, thời đại kinh tế thị trường, đặc biệt là
chúng ta đang ở thập niên thứ hai của thế kỷ 21. Do vậy, Nghị định về hoạt
động mỹ thuật cần phải được nghiên cứu, soạn thảo thật nghiêm túc vừa
mang tính thực tiển, tính thời đại, tính khoa học và tính chuyên nghi
ệp nhằm
vào yêu cầu phát triển phong phú mà vẫn bảo bản sắc văn hóa dân tộc.
UYÊN HUY

×