Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Nghệ thuật tuồng, phương tiện truyền bá tư tưởng Nho giáo thời phong kiến ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (354.9 KB, 16 trang )

Nghệ thuật tuồng, phương tiện
truyền bá tư tưởng Nho giáo thời
phong kiến



Tuồng hay còn gọi là Hát bội, là một bộ môn nghệ thuật truyền thống có lịch sử
hình thành từ lâu đời ở Việt Nam, là món ăn tinh thần không thể thiếu được của
người dân trong suốt thời kỳ phong kiến. Đặc biệt dưới vương triều Nguyễn, tuồng
đã từng được xem là "quốc kịch", một bộ môn nghệ thuật chính thống của nhà
nước quân chủ. Trong bối cảnh chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, đặc biệt
là tư tưởng Nho giáo, nên phần lớn nội dung của các vở tuồng trong thời kỳ này
đều đề cao tinh thần trung quân ái quốc, đạo đức luân lý gia đình và xã hội được
nêu trong Tam cương và Ngũ luân. Đó là mối quan hệ về trung, hiếu, tiết, nghĩa
giữa vua tôi, cha con, anh em, bạn bè, chồng vợ mà ta thấy được khi thưởng thức
nghệ thuật tuồng. Hình ảnh các vị vua chúa Trung Hoa như: vua Nghiêu, vua
Thuấn cùng các vua: Thang, Văn, Võ được xem là những bậc “Thánh quân” đại
diện cho những bậc vua hiền luôn lo cho dân cho nước. Bên cạnh đó là những vị
tôi trung tài giỏi như Y Doãn, Lữ Vọng luôn một dạ trung thành với vua với
nước.


Biểu diễn tuồng ở Tăng Thành (Yên Thành, Nghệ An)
Tác giả của các vở tuồng không chỉ là những người có học vấn, những nho
sĩ tài danh, các quan lại, mà ngay cả các vua chúa, hoàng thân quốc thích cũng
tham gia sáng tác. Sử sách triều Nguyễn đã từng ghi lại vụ án quanh vở tuồng
Quần tiên hiến thọ do Nguyễn Bá Nghi, thuộc viên Nội các dưới thời Minh Mạng
biên soạn. Vở tuồng này có sự tham gia trực tiếp của vua Minh Mạng. Trong vở
tuồng này, có lời châm biếm các nhân vật thần bếp và thầy kiện. Nhân việc cầu
tạnh không ứng, Tuần phủ Nam Ngãi là Vương Hữu Quang làm mật tấu để bắt lỗi
vua, tờ tấu có đoạn viết: “Thần ngày gần đây đến hầu nghe thấy nhà vua nói đùa ở


điện Văn Minh và diễn kịch mới ở nhà Duyệt thị, đấy một lời nói một việc làm ấy
đủ làm lụy đến thánh đức ( ) Ý thánh thượng đã hối rồi, mà khí rét còn đe dọa
như thế, lòng trời giận chưa nguôi, chưa chắc bởi việc ấy. Xin đốt sách ấy đi để tạ
trời đất thần minh”. Vua đọc xong, phê rằng: nói chuyện với bọn Trương Đăng
Quế “Ngày vừa rồi ở điện Văn Minh, từng cười về thầy kiện dốt nát, thần bếp
thiên tư. Và nói đến việc phường hát đời thịnh trị chế nhạo cả trời đất tiên sư, rất
là nhảm bậy. Khi nào lại bắt chước mà biên thành sách truyện bao giờ”
(1)
. Rồi ra
chỉ dụ cách chức và tống Vương Hữu Quang vào ngục. Các quan trong triều gồm:
Phan Thanh Giản, Nguyễn Công Trứ, Doãn Uẩn, Bùi Ngọc Quĩ tâu vua xin xử tội
nhẹ cho Vương Hữu Quang đều bị vua bắt tội. Vua ra chỉ dụ rằng: “Vương Hữu
Quang làm lễ cầu tạnh không được lại muốn đổ cho người trên. Lại thấy ngày ấy
trẫm hơi se mình, dám nói bậy bạ cho là trẫm có tội với trời đất thần minh, sao
điêu toa dối bậy quá thế! Vả lại, truyện Quần tiên hiến thọ là thuộc viên Nội các
bọn Nguyễn Bá Nghị soạn ra, dẫu trong ấy trẫm có chỉ bảo một vài câu, nhưng là
lời thần bếp, thầy kiện răn bảo đó thôi, có điều gì đùa cợt thần minh đâu, huống hồ
làm động đến trời đất ư ? Trẫm há có thể nghe thiên về lời các ngươi mà trái lời
đình nghị ư ? ” Sau đó, Vương Hữu Quang bị giáng làm Tư vụ Bộ Công. Phan
Thanh Giản bị giáng một cấp đổi đi nơi khác; còn Nguyễn Công Trứ, Bùi Ngọc
Quĩ, Doãn Uẩn đều bị giáng một cấp lưu, không cho lấy công khác khấu trừ.
Qua sự việc trên ta thấy rằng dưới thời phong kiến, không chỉ có ở tầng lớp
nhân dân ngoài xã hội mà còn ở cả trong triều nội đều quan tâm đến nghệ thuật
tuồng. Kịch bản tuồng, dù được sáng tác trong cung đình hay ở ngoài dân gian; tất
cả đều lấy chủ đề "quân quốc" làm tư tưởng chủ đạo. Trung quân ái quốc là hai
yếu tố luân lý được Nho giáo đề cao. Vì vậy việc phò vua giúp nước luôn được thể
hiện ở những vai chính diện. Tuồng đề cao đạo đức luân lý của con người thông
qua mối quan hệ giữa vua tôi, cha con, vợ chồng, anh em, bè bạn
Tự Đức là vị vua có mối quan tâm đặc biệt đến việc phát triển bộ môn nghệ
thuật tuồng. Ngay khi xây dựng Khiêm Lăng, nơi an nghỉ vĩnh hằng của mình; ông

đã cho xây dựng nhà hát Minh Khiêm đường ngay tại khuôn viên lăng với mục
đích để diễn tuồng cho nhà vua và quan quân xem mỗi khi đến vãng cảnh lăng.
Vua Tự Đức đã thành lập ban Hiệu thư do Thượng thư Đào Tấn chủ trì; một số
hoàng thân quốc thích cùng với các văn quan nổi tiếng đã tham gia trong ban này.
Ban Hiệu thư đã thực hiện việc sưu tầm các vở tuồng (được sáng tác bằng chữ
Nôm) đang lưu hành ở các địa phương về triều để san định. Trong thời gian này,
các thành viên của ban Hiệu thư cũng đã sáng tác nhiều vở tuồng nổi tiếng như các
vở: Vạn bửu trình tường, Quần phương hiến thụy trong đó có một số vở do vua
Tự Đức đích thân “châu phê”.
Qua nghiên cứu một số vở tuồng bằng chữ Nôm còn lại ở trong nước và
bản chụp (photocopy) ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm (bản gốc đang được lưu giữ
tại Thư viện Hoàng gia Anh Quốc). Khi khảo sát phần chữ húy và niên đại ghi trên
một số vở tuồng này, chúng tôi thấy rằng: Chữ Thì 時(trùng với tên húy của vua
Tự Đức) đều được thay bằng chữ Thìn (thần) 辰 hoặc viết bớt nét. Tuy vậy, vẫn
thấy một vài chỗ chữ Thì còn để nguyên không sửa chữa. Một số vở có ghi niên
đại Tự Đức và tên người chép tuồng là Lê Quí (Lê Quí phụng tả). Như vậy, có thể
xác định rằng đa số các vở tuồng ở thư viện Hoàng gia Anh, trong đó có vở Ngự
Văn Quân đều được sưu tầm và sao chép lại dưới thời Tự Đức. Phần giáo đầu các
vở tuồng này thường mang tính khuôn mẫu với nội dung mừng cảnh đẹp của đất
nước như: Sơn phong thủy tú, phượng múa rồng bay, chúc thọ vua chúa, chúc cơ
nghiệp nước nhà bền vững, dân an vật thịnh Nội dung các chương hồi phần lớn
được gọt bỏ bớt các lời hường, lời kẻ
(2)
. Các ngôn từ về nhân xưng trong lời thoại
hoặc khi xưng danh trong các lớp giáo đầu đều tỏ ra khiêm cung hơn. Khi kết thúc
vở diễn, bao giờ cũng có những câu chúc tụng vua chúa, chúc nước nhà thịnh trị,
dân khang vật phụ Với mục tiêu dùng văn hóa nghệ thuật để chuyển tải tư tưởng
Nho giáo phục vụ cho việc giáo hóa người dân nên hình ảnh vua Nghiêu, vua
Thuấn đã được nêu ra như một tấm gương của sự mẫu mực về đạo đức của những
vị đế vương hết lòng yêu nước thương dân. Thiên Nghiêu điển ở Kinh Thư từng chép:

曰若稽古帝堯,曰放勛。欽,明,文,思,安安。允恭克讓,光被四
表,格於上下。克明俊德:以親九族,九族既睦;平章百姓,百姓昭明;協
和萬邦,黎民於變時雍。
“Viết nhược, kê cổ Đế Nghiêu, viết phóng huân; khâm minh văn tư an an;
doãn cung khắc nhượng. Quang bị tứ biểu, cách vu thượng hạ. Khắc minh tuấn đức;
dĩ thân cửu tộc, cửu tộc ký mục; bình chương bách tính, bách tính chiêu minh; hiệp
hòa vạn bang, lê dân ô biến thời ung”. [Nói về Đế Nghiêu xưa, là một người đại tiêu
biểu. (Đế) là người khả kính, văn nhã, ý tứ, mềm mỏng. Thành thực, khiêm cung, biết
nhường nhịn. (Tiếng tốt) tỏa ngời khắp bốn cõi, lòng thành cảm phục từ trên xuống
dưới. Luôn tỏ rõ đức lớn: Thân với cửu tộc, cửu tộc lại hòa mục, trăm họ vui tươi,
muôn dân đươc sáng tỏ, hòa hợp khắp vạn cõi lân bang, lê dân lam lũ trở nên béo
tốt].
(3)
Vua Thuấn là người có phong thái tươi đẹp, cung kính, thông minh, hòa nhã,
thành thực. Được vua Nghiêu yêu mến và truyền ngôi cho. Vua Thuấn noi theo vua
Nghiêu, tiếp tục sửa sang nền chính trị, định lại lễ nhạc, chăm lo việc trị thủy, khuếch
trương nông nghiệp tạo cho trăm họ an cư lạc nghiệp, thiên hạ hòa vui, làm điều
thiện, bỏ điều ác Vua Đại Vũ kế thừa vua Thuấn, phát huy tài trị nước an dân. Nơi
thôn dã không để sót bậc hiền tài, mở mang văn đức. Qui hoạch đất đai, phát triển
nông nghiệp, ngành nghề, được muôn dân tin yêu. Sau này, vua Kiệt nhà Hạ bạo
ngược. Vua nhà Thương là Thành Thang phát lời thệ đánh vua Kiệt. Vua Kiệt thua
chạy ra Nam Sào. Vua Thang làm bài cáo với trời đất tỏ sự khiêm cung, sửa đạo trị
dân, chọn hiền tài, khoan hòa độ lượng, ai ai cũng kính phục. Khi vua Thang mất, ông
Thái Giáp kế vị. Bề tôi là Y Doãn làm chức Chủng tể viết bài Huấn khuyên vua mới
noi gương Tiên vương, bổ nhậm người có đủ đức tài để chăm lo việc nước. Đế
Nghiêu, Đế Thuấn, vua Vũ, vua Thang, vua Văn Vương (nhà Chu) thường được gọi
là Nhị Đế, Tam Vương, là những đấng minh quân trị vì trong những giai đoạn cực
thịnh của xã hội phong kiến Trung Hoa mà người đời sau hết lời ca ngợi.
Khi nghiên cứu về lịch sử tư tưởng phương Đông, ta thấy rằng, các triều đại
phong kiến Trung Hoa cũng như ở các nước chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung

Hoa luôn coi trọng Kinh Thư, xem Kinh Thư như một tập đại thành, chứa đựng
những nội dung khuôn mẫu về đạo đức luân lý trong việc tổ chức xã hội, thực
hành khuôn phép trị quốc an dân.
Nghệ thuật tuồng Việt Nam đã hình thành và phát triển mạnh các triều đại
phong kiến Việt Nam, nhất là đối với triều Nguyễn. Ngoài chức năng giải trí,
tuồng đã góp phần giáo dục đạo đức luân lý xã hội nhằm đưa con người hướng
đến chân, thiện, mỹ. Với mục đích xây dựng một vương triều hùng mạnh với
những vị minh quân, trung thần tận tụy, hết lòng với sơn hà xã tắc, chăm lo cho
muôn dân được sống ấm no hạnh phúc, trong cảnh thái bình thịnh trị như thời Đế
Nghiêu, Đế Thuấn.
"Xuống xe so đức Thuấn,
Lên ngai nối nhân Nghiêu.
Dân không lời kẻ ức kêu vang,
Ngục chẳng tiếng người oan kêu khóc".
(Sơn Hậu)
Xây dựng một nền quân chủ lý tưởng, với phương pháp tổ chức triều chính
theo lề lối của các bậc đế vương thời thịnh trị của xã hội Trung Hoa đã được các
triều đại phong kiến Việt Nam áp dụng trong suốt quá trình trị nước trải qua mấy
hàng mấy trăm năm. Song học thuyết Nho giáo chỉ mới đến được với tầng lớp vua
quan và những người có học, còn đối với người dân không có điều kiện học hành
thì chỉ nhận thức bằng nghe nhìn trực quan thông qua nghệ thuật tuồng và các loại
hình thơ, ca, hò vè hay các loại hình văn nghệ dân gian khác. Văn chương tuồng
được viết bằng thể loại: nói lối, từ, phú, thơ nên dễ đi vào lòng người. Nhiều
người dân xem tuồng đã thuộc lòng từng đoạn tuồng hay, họ có thể đọc hoặc diễn
cho nhau nghe trong lúc nghỉ ngơi sau những buổi lao động mệt nhọc.
Ngự Văn Quân là một vở tuồng cổ (không rõ tên tác giả), được sáng tác và
lưu hành ở Huế. Đến những năm 20 của thế kỷ trước, vở tuồng này vẫn còn được
Đoàn hát bộ Đồng Hỷ Ban (tiền thân của rạp hát Đồng Xuân Lâu) biểu diễn. Một
bản gốc viết bằng chữ Nôm của vở tuồng này được đóng dấu Đoàn hát bộ Đồng
Hỷ Ban và ngày diễn: N 17 NOV 23 (tức là ngày 17 tháng 11 năm 1923) hiện

đang được lưu giữ tại Viện sân khấu. Phần giáo đầu của bản Ngự Văn Quân này
như sau:
"Linh phụng thê Ngự lĩnh,
Thần qui xuất Hương giang.
Trên chúa sánh Võ, Thang,
Dưới tôi phen Y, Lữ
Mỗ Văn Quân tính tự,
Quyền ngự điệt Tấn bang.
Nghề văn đà trải biết mực Hàn,
Việc võ lại làu thông thao lược".
(Ngự Văn Quân)
Ở bản chụp vở Ngự Văn Quân đang lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm
(VHN), đoạn giáo đầu này mang nội dung như sau:
"Chân ngao dời biển bạc,
Cánh phụng vỗ trời xanh.
Lẽo sông vàng nước tỏ thánh minh,
Rạng ngôi báu nghiệp soi Hồng phạm.
Đức lớn khắp nhuần cõi tám,
Chính lành ngợi chữ giềng ba.
Giúp Tấn trào đặt vững nghiệp hồng,
Tôi biểu tự Văn Quân ngự điệt".
Bản tuồng Ngự Văn Quân của Đồng Hỷ Ban mang dấu ấn của Huế một cách
rõ nét như: Ngự lĩnh (núi Ngự), Hương giang (sông Hương). Sau đoạn giáo đầu, Tấn
vương xưng danh như sau:
"Uy dậy lừng đảng dữ,
Đức lành gợi dân lành, niên phong vật phụ khánh gia hanh.
Ngã xưng Tấn Hoàn vương là hiệu "
Bản VHN viết như sau:
"Uy dậy lừng chúng dữ,
Đức vỗ trị dân lành,

Trẫm tước hiệu Tấn vương,
Thụ vị cầm ngôi Càn tượng "
Ta thấy rằng, cách xưng danh của Tấn vương ở vở của Đồng Hỷ Ban chưa
phù hợp với vai trò bậc quốc chủ. Chữ “đảng dữ” nghe không được trang nhã nên
đã được chữa là “chúng dữ”. Còn đã là vua ít khi tự xưng là “Ngã” nên đã chữa
thành “Trẫm”. Tên một vài nhân vật cũng được thay đổi như: Quách Đại Kình
(Trấn tướng của nước Tề ở biên giới) được đổi thành Quách Thái Xung; Quách
Đại Dương được đổi thành Quách Thái Xương Nhìn chung, lời thoại, ca từ ở bản
Viện Sân Khấu khiêm cung, trang nhã hơn. Như vậy có thể đoán định rằng bản ở
Đồng Hỷ Ban ở Viện Sân khấu là bản được sáng tác từ trước còn bản VHN là bản
được Ban Hiệu thư thời Tự Đức hiệu đính và sửa chữa. Đặc biệt ngay ở đoạn giáo
đầu bản tuồng ở VHN đã xuất hiện các thuật ngữ: hồng phạm, cõi tám, giềng ba,
nghiệp hồng Đây chính là các thuật ngữ được diễn Nôm từ tác phẩm Kinh Thư.
- Hồng phạm (nghiệp hồng): nói về thiên Hồng phạm trong Kinh Thư.
Truyền rằng, Kinh Thư do Cơ Tử, một hiền thần đời Thương - Chu soạn. Thiên
Hồng phạm được xem là phần cơ cấu tổ chức, nội dung về thể chế nhà nước.
Thiên này được xem như là một “Hiến pháp cổ” của Trung Hoa. Các đời vua sau
đó đều áp dụng những nội dung trong thiên này để tổ chức về nhà nước và công
cuộc trị quốc an dân. Thiên này được chia thành 9 mục gọi là Cửu trù. Cửu trù (9
trù) bao gồm: 1- Ngũ hành; 2- Ngũ sự; 3- Bát chính; 4- Ngũ kỷ; 5- Hoàng cực; 6-
Tam đức; 7- Kê nghi; 8- Thứ trung; 9- Ngũ phúc.
- Đức lớn; giềng ba: tức là Tam đức (trù thứ 6 của thiên Hồng phạm) qui
định về những đức tính cần thiết đối với người đứng đầu nhà nước (Vua), hoặc
người đứng đầu các tổ chức nhà nước áp dụng đối với cấp dưới và người dân.
Những đức tính ấy là: chính trực (ngay thẳng); cương khắc (cứng rắn); nhu khắc
(mềm dẽo).
- Cõi tám; chính lành: tức là Bát chính (trù thứ 3 của thiên Hồng phạm)
Trù này qui định cơ cấu tổ chức các cơ quan đầu mối để đảm bảo cho công việc
trị nước gồm 8 việc lớn: 1- Thực (lo về việc ăn uống); 2- Hóa (lo việc hàng hóa,
của cải); 3- Tự ( lo về việc tế tự); 4- Tư không (lo về việc đất đai); 5- Tư đồ (lo

về việc dạy dỗ); 6- Tư khấu (lo việc hình phạt); 7- Tân (lo việc lễ tân, ngoại
giao); 8- Sư (lo việc binh bị).
Khi khảo sát một số bản chụp các kịch bản tuồng chữ Nôm ở VHN chúng
tôi thấy yếu tố “Kinh Thư” xuất hiện trên nhiều vở. Vở Kim Vân Kiều truyện,
thiên Hồng phạm của Kinh Thư đã được nhắc lại ở hồi kết thúc.
"Trăm năm duyên hợp chữ đồng
Vinh hoa nở chút tấm lòng nhớ trông
Cầm đường ngày tháng thong dong
Chúc mừng Nam quốc nghiệp hồng thiên thu".
Học thuyết Nho giáo với các đề tài về thiên mệnh, tam cương, ngũ thường,
tam tòng, tứ đức đã ảnh hưởng đến đời sống xã hội Trung Hoa và các nước đồng
văn, trong đó có Việt Nam. Đặc biệt quan niệm về Tam cương, Ngũ thường đã chi
phối đời sống tinh thần của người dân dưới chế độ phong kiến. Tam cương là ba
giềng mối ràng buộc con người theo vai trò quan hệ xã hội bao gồm: Quân thần,
phụ tử, phu phụ (cần phân biệt với khái niệm Tam đức trong Kinh Thư, chữ Tam
đức cũng thường được diễn Nôm là giềng ba ở trong tuồng). Đối với đạo lý
Quân thần, thể hiện ở vai trò trung quân, kẻ bề tôi phải luôn trung thành với các
bậc vua chúa; lòng trung ở đây được hiểu là trung quân ái quốc. Đối với đạo lý
phụ tử tức là quan hệ giữa cha con phải thể hiện được vai trò phụ từ, tử hiếu. Ở
đây phải lấy chữ hiếu làm trọng. Đối với quan hệ phu phụ tức đạo vợ chồng,
phải lấy đức thuận, tức là sự hòa hợp để đối đãi với nhau. Cũng như Ngũ luân, là
năm mối quan hệ đạo đức luân lý giữa vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bè bạn.
Dưới chế độ quân chủ, Nho giáo được xem là ý thức hệ chính thống gắn bó
với thể chế chính trị xã hội. Tất cả mọi người trong xã hội bấy giờ đều phải chịu
sự ràng buộc từ các mối quan hệ mà học thuyết Nho giáo đã đề cập. Kịch bản
tuồng là một thể loại văn học do các nhà nho sáng tác nên không thể thoát ra khỏi
quĩ đạo của tư tưởng Nho giáo. Đa số các vở tuồng đều mượn bối cảnh lịch sử của
các nước phương Bắc để hư cấu nên cốt truyện, nhân vật. Nội dung tuồng phần
lớn đều xoay quanh những tình tiết mâu thuẫn giữa các quốc gia, sự xung đột của
các thế lực vua chúa, quan lại trong triều; vấn đề trung, hiếu, tiết, nghĩa với hình

ảnh các bậc tôi trung dốc chí phò vua giúp nước luôn phải đấu tranh với lũ gian thần
kéo bè kết cánh, bán nước hại dân Vì vậy nghệ thuật tuồng ngoài chức năng giải trí,
nó còn thực hiện chức năng giáo dục con người. Trong đó những yếu tố trung, hiếu,
tiết, nghĩa luôn được đề cao nhằm mục đích hướng con người, đến những giá trị nhân
văn cao đẹp trong xã hội phong kiến thời bấy giờ.
"Quân thần là đại đạo,
Phụ tử ấy ân thâm".
(Ngự Văn Quân)
"Sự phụ con đà sáng tiết,
Còn sự quân con khá thơm danh.
Trước ngàn năm rỡ tiết cha lành,
Sau muôn thuở trọn bề con thảo".
(Sơn Hậu)
Chữ “trung quân” bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu trong tất cả các mối
quan hệ trong xã hội:
"Lo chữ trung, trung lấy làm đầu,
Còn chữ hiếu, hiếu kia để dạ".
(Sơn Hậu)
Song khái niệm “trung quân” ở trong tuồng cũng được phân biệt rạch ròi:
bề tôi hiền đức chỉ “trung” với đấng minh quân, chứ nếu “trung” đối với “hôn
quân” thì đó là “ngu trung”.
"Trụ tàn bạo thì ta bội Trụ,
Chu đức nhơn sao chẳng phò Chu".
(An trào kiếm)
Tự Đức luôn mong muốn mình phải là một đấng minh quân, thế thiên hành
đạo. Đất nước do ông ta trị vì phải được thái bình thịnh trị. Nhưng thực ra trong
thời điểm ấy, đất nước đang phải chịu những áp lực từ những cuộc nội biến và
ngoại xâm tạo nên sự bất ổn về chính trị. Việc xây dựng Khiêm Lăng của Tự Đức
dẫn đến sự nổi dậy của Đoàn Trưng, Đoàn Trực cùng với lực lượng dân chúng và
binh lính tham gia; sự kiện Thân vương Hồng Bảo (anh vua Tự Đức) chống nhà

vua Chứng tỏ rằng, lực lượng chống lại nhà vua lúc bấy giờ không chỉ ở ngoài
biên cương mà ngay từ trong triều nội. Chủ trương bế quan tỏa cảng, cấm đạo
Thiên chúa, tư tưởng thủ cựu của triều đình đã hạn chế một phần trong việc phát
triển đất nước thời bấy giờ. Triều đình ngày càng tỏ ra bất lực và có phần nhu
nhược trước sự lấn chiếm của người Pháp. Một số quan lại, nhà Nho đã mất dần
niềm tin vào vai trò kẻ sĩ trước hoàn cảnh của đất nước. Vì vậy, những phạm trù
về đạo đức, luân lý của Nho giáo trong xã hội lúc đó bắt đầu có sự phân hóa. Tinh
thần “trung quân ái quốc”, “vì nước vì dân” của một số quan lại bắt đầu sút giảm.
Để hâm nóng bầu nhiệt huyết của các bậc sĩ phu và dân chúng đối với đất nước và
triều đình, Tự Đức đã thực hiện nhiều chính sách để phát triển đất nước, trong đó
có cả việc phát triển văn hóa. Nhiều tác phẩm do nhà vua và các triều thần sáng
tác đã được Tự Đức cho khắc in, trong đó có cả Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du.
Ban Hiệu thư được thành lập, qui tụ một số văn quan nổi tiếng do Đào Tấn phụ
trách, vừa làm nhiệm vụ sáng tác tuồng, vừa thu thập các kịch bản tuồng khắp nơi
trong nước đưa về để hiệu đính sửa chữa nhằm nâng cao giá trị về mặt văn chương
cho bộ môn nghệ thuật tuồng. Bên cạnh đó là việc đưa thêm vào tuồng những nội
dung tư tưởng Nho giáo “nguyên thủy”, “chính thống” được viết trong Kinh Thư,
nhằm góp phần tuyên truyền, giáo dục mọi tầng lớp trong xã hội luôn tuân thủ luật
pháp, hết lòng thực hiện chức phận ái quốc trung quân của kẻ bề tôi và dân chúng.
Trong thời điểm đó, việc sử dụng nghệ thuật tuồng làm phương tiện chuyển
tải tư tưởng Nho giáo đến tận dân chúng là một việc làm có ý nghĩa. Bởi vì tuồng
là bộ môn nghệ thuật được quần chúng bấy giờ yêu thích. Khi xem tuồng, dù sân
khấu chỉ là một góc sân đình hay bãi chợ, nhưng với mặt nạ, phục trang cùng nghệ
thuật diễn xuất ước lệ, khán giả cho dù là người dân bình thường cũng có thể phân
biệt được nhân vật nào là chính, tà; trung, nịnh; vị vua nào là đấng minh quân, ai
là kẻ gian thần bán nước, hãm hại bậc trung lương, soán đoạt ngôi vua Kết thúc
của các vở tuồng bao giờ cũng nêu cao chính nghĩa ái quốc trung quân, trừ gian diệt
nịnh mang lại cho đất nước yên vui, muôn dân được hưởng phúc thái bình thịnh trị.
Cho dù đó chỉ là ước mơ, song cũng làm thỏa lòng khán giả xem tuồng. Những yếu tố
đó đã tạo cho nghệ thuật tuồng phát triển và được mọi tầng lớp quần chúng trong xã

hội phong kiến hâm mộ.
Chế độ phong kiến Việt Nam sụp đổ, nghệ thuật tuồng cũng theo đó mà
mai một dần. Nhưng dẫu sao, tuồng vẫn là một di sản văn hóa quí giá của tiền
nhân để lại. Nên ngay cả khi đất nước đang còn chia cắt, chính quyền của hai miền
vẫn quan tâm khôi phục bộ môn nghệ thuật tuồng. Sau khi thống nhất đất nước,
tuồng càng được quan tâm hơn. Song trong thời kỳ hội nhập văn hóa toàn cầu như
hiện nay, nhiều loại hình nghệ thuật mới hấp dẫn, nội dung gần gũi với cuộc sống
hiện đại nên dễ tiếp cận với khán giả trẻ. Vì vậy tuồng đang mất dần khán giả nên
việc bảo tồn và phát huy bộ môn nghệ thuật này càng gặp khó khăn hơn, nếu
không được quan tâm đầu tư của Nhà nước. Một vấn đề cần đặt ra là hiện nay vẫn
còn hàng trăm kịch bản tuồng viết bằng chữ Nôm đang được lưu giữ ở các bảo
tàng, thư viện, trung tâm lưu trữ, tủ sách cá nhân trong nước và ngoài nước. Số
kịch bản tuồng cổ chữ Nôm còn lại hiện nay đều là những tác phẩm văn học cổ có
giá trị. Nếu được khai thác tốt, chúng ta sẽ chọn lọc được một số kịch bản hay để
các đơn vị nghệ thuật tuồng trong nước dàn dựng nhằm bảo tồn và phát huy bộ
môn nghệ thuật tuồng. Đặc biệt là khai thác được những giá trị nhân văn của tuồng
qua những thông tin về lịch sử, ngôn ngữ, cốt chuyện, nhân vật thể hiện ở kịch
bản tuồng. Đi đầu và trực tiếp làm việc này không ai khác hơn là những nhà
nghiên cứu văn hóa nghệ thuật, văn học, ngôn ngữ, những người làm công tác Hán
Nôm ở trong nước và cả ở nước ngoài. Song muốn thực hiện được công việc này
cần phải có sự chủ trì, giúp đỡ của Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch, Viện Nghiên
cứu Hán Nôm, Viện Văn học , các tổ chức quốc tế về phát triển văn hóa, giáo dục.
Xin chân thành cảm ơn Quĩ Harvard -Yenching đã tài trợ cho tôi nghiên
cứu và hoàn thành chuyên luận này.

Chú thích:
(1) Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục. Nxb. Giáo dục, H. 2004, Tập 5,
tr.689.
(2) Lời hường là những lời diễn viên nói xen vào để làm rõ thêm nội dung lời
thoại, lời hường thường chỉ vài từ hoặc một vài câu ngắn. Lời kẻ là những câu

hoặc đoạn văn xuôi diễn viên nói thêm để tường thuật rõ hơn về nguyên nhân sự
việc.
(3) Khổng Tử: Kinh Thư, thiên Nghiêu điển, Trần Lê Sáng - Phạm Kỳ Nam dịch
chú, Nxb. Văn hóa - Thông tin, H. 2004, tr.22, 135.
Một số câu tuồng trích dẫn trong bài, chúng tôi khai thác ở các vở tuồng
chữ Nôm: Ngự Văn Quân, An Trào Kiếm, Kim Vân Kiều đang được lưu
trữ ở Viện Nghiên cứu Hán Nôm và bản tuồng Sơn Hậu diễn truyện do Phủ
Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa Sài Gòn in năm 1971./.

×