Tìm hiểu nghệ thuật tuồng
LỜI MỞ ĐẦU
Tuồng (hát bội hay hát bộ) – Một loại hình nghệ thuật sân khấu mang tính cổ điển khá độc
đáo của Việt Nam. Ngôn ngữ của tuồng là văn chương bác học kết hợp nhuần nhuyễn văn chữ Hán
với văn nôm. Theo một số tư liệu thì tuồng ảnh hưởng của hí khúc (Trung Quốc) do quân lính nhà
Nguyên bị giữ làm tù binh dưới thời nhà Trần (thế kỷ XIII) biểu diễn. Nhưng tuồng Việt Nam có
nét riêng của nó. Lúc đầu, tuồng chỉ xuất hiện ở miền Bắc, sau đó theo binh lính chúa Nguyễn vào
Đàng Trong và phát triển cực thịnh ở đó. Tuồng phát triển mạnh vào thế kỷ XVII -XVIII. Sang
triều Nguyễn (thế kỷ XIX) tuồng vẫn giữ vị trí xứng đáng trong đời sống văn hoá ở cung đình và
trong dân dã.
Kho tàng các vở diễn tuồng cổ ước có đến vài trăm nhưng lâu dần bị thất lạc phần lớn,
trong đó có thể kể vài vở đặc trưng như Sơn Hậu, Tam nữ đồ vương, Đào Phi Phụng, Trưng nữ
vương... Tuồng đã trở thành vốn quý của sân khấu truyền thống và mãi mãi là viên ngọc trong kho
tàng văn hoá của dân tộc.
Nguyễn Thuỳ Dương – Email: – ĐT: 0904.13.8585
Website: www.cafesangtao.com – Đam mê sáng tạo - Chắc chắn thành công
1
Tìm hiểu nghệ thuật tuồng
I. Nguồn gốc, lịch sử hình thành của tuồng
Nguồn gốc và lịch sử phát triển của nghệ thuật tuồng, cũng như của nghệ thuật sân khấu cổ
đại Việt Nam nói chung hiện nay vẫn còn là vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu lâu dài. Vẫn còn rất
nhiều ý kiến tranh luận khác nhau về thời điểm ra đời của loại hình nghệ thuật sân khấu này.
Nhà nghiên cứu Hồ Lãng cho rằng tuồng chỉ có thể có từ thế kỷ thứ XVIII (trong bài "Để
tìm hiểu về lịch sử tuồng" đăng trong tạp chí "Nghiên cứu văn học" số 1 năm 1971). Nhà nghiên
cứu Văn Tân thì lại định nghĩ chữ "tuồng" trong "Từ điển tiếng Việt" như sau: "nghệ thuật sân
khấu cổ của Trung Quốc, truyền vào Việt Nam".
Giáo sư Phan Huy Lê có quan điểm: "Về nghệ thuật sân khấu thì thế kỷ XV, tuồng và chèo
khá phát triển. Vấn đề nguồn gốc của tuồng và chèo lâu nay vẫn có nhiều kiến giải khác nhau,
nhưng theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu văn học nghệ thuật gần đây thì tuồng và chèo là
những nghệ thuật cổ truyền của dân tộc xuất hiện từ rất sớm. Tuồng và chèo là những nghệ thuật
sân khấu kết hợp ca kịch với vũ đạo, mang nhiều bản sắc dân tộc.
Trong buổi đầu thời Lê sơ hát tuồng vẫn được biểu diễn trong cung đình, không những để
mua vui cho vua quan trong những buổi yến tiệc hội hè, mà còn dùng cả trong những buổi tế lễ,
thiết triều nữa" .
- Còn Hoàng Châu Ký trong cuốn sách "Sơ khảo lịch sử nghệ thuật Tuồng" của mình, trang
50 đã bác bỏ ý kiến Tuồng xuất hiện vào thời Lê sơ do tác giả nhận thấy "Nếu chỉ dựa vào những
điểm như phong cách tự sự, loại sân khấu có hát và múa, thậm chí dựa vào các chi tiết hơn một
chút như hát có ngâm thơ, phú, hoặc hát có vãn via, múa sử dụng cả tay, chân như tuồng hiện nay
mà nói là tuồng thì chưa thực sự xác đáng, vì những đặc điểm này không chỉ tuồng mới có". Và tác
giả đã xuôi ngược dòng lịch sử để thấy được nếu đỉnh cao của tuồng là thời Nguyễn thì tuồng chỉ
có thể hình thành trong thời Lê mạt.
Nói chung ý kiến của các nhà nghiên cứu còn chưa thống nhất, nhưng tất cả đều chung
quan điểm là tuồng xuất hiện sớm trong lịch sử Việt Nam.
Tuy rằng hát tuồng bị bài xích ra khỏi cung đình vào năm 1437, sau khi Lương Đăng đã
chế định ra nhã nhạc, không còn được biểu diễn trong những nghi lễ của triều đình, nhưng tuồng
tất nhiên vẫn còn được sử dụng như một trò chơi giải trí mua vui của tầng lớp quý tộc. Và tuồng
vẫn được phát triển và phổ biến trong dân gian.
Về sau, chúng ta thấy nghệ thuật Tuồng phát triển ở Đàng Trong khá mạnh, từ thế kỷ
XVIII. Vì vốn được nhân dân yêu mến, phổ biến rộng rãi trong nhân dân, lại được chính quyền
chúa Nguyễn chủ trương phát triển để phục vụ cho nhiệm vụ chính trị của họ nên nghệ thuật Tuồng
đã tiến lên một bước mới rực rỡ. ở Đàng Ngoài thì nghệ thuật này vẫn được phát triển trong dân
gian.
Nguyễn Thuỳ Dương – Email: – ĐT: 0904.13.8585
Website: www.cafesangtao.com – Đam mê sáng tạo - Chắc chắn thành công
2
Tìm hiểu nghệ thuật tuồng
Nghệ thuật Tuồng có những biến đổi rất quan trọng, nhất là nửa sau của thế kỷ XIX. Ba
dòng Tuồng (cung đình, sĩ phu yêu nước, dân gian) song song phát triển và tồn tại là hiện tượng
mới chưa từng có trong lịch sử.
Tuồng là một trong những loại hình nghệ thuật sân khấu, tức là nghệ thuật tổng hợp gồm có
cả văn học, hội họa, âm nhạc, múa, trò diễn,... ; là một trong những loại hình âm nhạc dân gian
chuyên nghiệp, cũng như chèo, ca trù, cải lương, hát văn, nhạc cung đình,... Riêng với tuồng lại là
một trường hợp đặc biệt, do là một loại hình nghệ thuật được giai cấp thống trị sử dụng vừa được
nhân dân yêu mến, do đó có lúc chỉ trong một lớp tuồng lại chứa đựng cả hai ý thức hệ đối lập,
chống chọi nhau.
II. Đặc điểm của tuồng
Tuồng là loại hình nghệ thuật sân khấu cổ truyền đặc sắc của Việt Nam được hình thành
trên cơ sở ca vũ nhạc và các trò diễn xướng dân gian vốn có từ lâu đời và rất phong phú của dân
tộc Việt Nam. Đến cuối thế kỷ XVIII Tuồng đã phát triển một cách hoàn chỉnh mọi mặt từ kịch
bản văn học đến nghệ thuật biểu diễn.
Thông thường để có một vở diển ra mắt công chúng, trước hết phải có kịch bản, đạo diễn
và một dàn diễn viên có tay nghề. Đặc biệt đối với tuồng đòi hỏi phải có những đào kép chính thật
xuất sắc và kịch bản phải hay mới thu hút được người xem, cho dù khán giả chỉ là những người
dân bình thường hay là các vị quan viên chức sắc. Trong nghệ thuật biểu diển tuồng, từng động tác
diễn xuất, từng câu chữ của ca từ của người diễn viên khi thể hiện đều được bình phẩm ngay bởi
tiếng trống chầu đặt trước khán giả.
Người cầm chầu là một chức sắc trong làng hay là một vị quan viên hiểu biết về nghệ thuật
tuồng, nếu người diễn viên biểu diễn sơ suất thì người cầm chầu gõ lên tang trống để cảnh cáo còn
khi diễn xuất đạt thì tiếng trống chầu lại cất lên với nhịp độ khác nhau tùy thuộc vào nghệ thuật
diễn của từng diễn viên, và khi tiếng trống chầu liên tục cất lên để tán thưởng thì đồng thời đây
cũng chính là lúc khán giả ném tiền lên sân khấu để thưởng cho diễn viên vì thế nên diễn viên hát
tuồng ngày xưa không bao giờ dám khinh xuất khi biểu diễn. Đặc biệt là khi tuồng được các vua
quan phong kiến đưa vào phục vụ ở triều đình thì đòi hỏi trình độ diễn viên cho đến nội dung vở
diễn đều phải được nâng cao hơn về mặt nghệ thuật, thủ pháp và ca từ.
1. Phân loại tuồng
Có lúc người ta phân loại thành tuồng thầy (mẫu mực), tuồng ngự (cho vua xem), tuồng
cung đình (diễn trong hoàng cung), tuồng pho (nhiều hồi diễn nhiều đêm), tuồng đồ (phóng tác,
không có trong sử sách), tuồng tân thời (chuyển thể từ các tiểu thuyết). Nhưng tựu chung có thể
chia làm hai loại tuồng kinh điển và tuồng dân gian. Ngày nay có ba lưu phái tuồng: Bắc Bộ, Nam
Bộ và Trung Bộ. Tuồng Trung Bộ phong phú và mang màu sắc dân tộc hơn cả. Bình Định là cái
nôi của tuồng, trở thành đất tuồng với các tên tiêu biểu sau này: Đào Tấn, Nguyễn Hiển Dĩnh...
2. Đề tài, nội dung của tuồng
Nguyễn Thuỳ Dương – Email: – ĐT: 0904.13.8585
Website: www.cafesangtao.com – Đam mê sáng tạo - Chắc chắn thành công
3
Tìm hiểu nghệ thuật tuồng
Khác với các loại hình sân khấu khác như chèo, cải lương... Tuồng mang theo âm hưởng
hùng tráng với những tấm gương tận trung báo quốc, xả thân vì đại nghĩa, những bài học về lẽ ứng
xử của con người giữa cái chung và cái riêng, giữa gia đình và Tổ quốc, chất bi hùng là một đặc
trưng thẩm mỹ của Tuồng. Lực lượng chính nghĩa, trong những tình huống gian khổ, hiểm nguy,
đã chiến đấu vô cùng dũng cảm với một tín niệm sắt đá, thủy chung, với một khát vọng rất lớn. Họ
chiến đấu cho một lý tưởng tuyệt đối (phục nghiệp cho dòng vua cũ) và bằng một lòng trung thành
vô hạn độ. Cuộc chiến đấu của họ đã diễn ra đầy khí thế hào hùng, gây xúc cảm thẩm mỹ mạnh
mẽ. Có thể nói, Tuồng là sân khấu của những người anh hùng. Trong những hoàn cảnh đầy mâu
thuẫn và xung đột bạo liệt bi ai các nhân vật chính diện của Tuồng đã vươn lên thoát khỏi sự chế
ngự của hoàn cảnh, hành động một cách dũng cảm, anh hùng, trở thành một tấm gương, một bài
học cho người đời ngưỡng mộ noi theo.
Tuỳ theo từng giai đoạn lịch sử mà Tuồng có nhiều loại chủ đề khác nhau, nhưng chủ đề
tồn tại khá lâu và chiếm được cảm tình của người xem là “phò vua diệt nguỵ”.
Đó là vào thế kỷ XVII, XVIII ở Đàng Trong, giai đoạn này xuất hiện một loại kịch bản
(khuyết danh) mẫu mực, thể tài thống nhất, tập trung vào chủ đề “phò vua diệt nguỵ”. Kịch bản cấu
trúc rất chặt chẽ. Theo những nguyên tắc biên kịch rất vững chắc. Những vở thuộc loại này như:
Sơn Hậu, Dương Chấn Tử, Giác oan, An Trào kiếm, Tam nữ đồ vương, Hồ Thạch phủ…
Loại kịch bản này có những đặc điểm thống nhất như:
Về nội dung: Nói chung là đi vào đề tài cung đình, nhưng không phải chỉ phản ánh những
sự kiện trong cung đình mà là bao gồm cả những chuyện xảy ra trong quan hệ, - chủ yếu là quan hệ
chính trị, - giữa các phe phái phong kiến nói chung. Chuyện kịch mở đầu thường bằng cảnh triều
đình đang nằm trong một trạng thái bình yên tương đối, tuy vua đã già yếu và mầm mống phản
loạn đã có, tức là đã có phe phản thần do tên thái sư dẫn đầu. Đứng về kịch mà nói, thì như thế
mâu thuẫn kịch đã có từ đầu.
Sau đó vua băng hà, hoàng tử còn bé hoặc chưa được sinh. Tên gian thần kia bèn tiếm ngôi
vua. Cũng có trường hợp, bọn gian thần tiếm ngôi vua trong lúc vua còn sống nhưng yếu thế. Nhưu
thế là xung đột bắt đầu và phát triển. Tình thế ngày càng gay go, ác liệt. Bọn gian thần tiếm ngôi
vua xong, xúc tiến mọi biện pháp hoặc thô bạo để trừ diệt dòng vua cũ hoặc trấn áp các phe phái
đối lập. Các trung thần trải qua rất nhiều hiểm nguy gian khổ, tìm mọi cách để cứu hoàng tử khỏi
nanh vuốt của kẻ thù, rồi đưa ra một nơi biên trấn, hiểm địa, chiêu binh mãi mã, sau đó dùng ngọn
cờ danh nghĩa của hoàng tử về đánh hạ bọn tiếm ngôi để phục nghiệp cho dòng vua cũ. Trước khi
đi đến thắng lợi cuối cùng, phe trung thần đã trải qua rất nhiều hy sinh gian khổ, kể cả thương
vong, biểu hiện một khí tiết trung trinh, kiên cường vô hạn.
Xã hội được phản ánh trong loại tuồng này là một xã hội phong kiến đã suy tàn, giai cấp
phong kiến quan liêu đã chia bè xẻ cánh, tranh giành cấu xé lẫn nhau quyết liệt. Không những thế,
nagy trong bản thân nhiều gia đình đại phong kiến cũng xảy ra những sự bất đồng chính kiến trầm
trọng đi đến phân biệt cha con, giữa vợ chống, giữa anh chị em ruột,… Tuy thế các mối chia rẽ nói
trên tựu chung chỉ có hai phe, một phe trung với dòng vua cũ, được xem là chính thống, và một phe
phản thần chống, tiếm ngôi dòng vua cũ.
Nguyễn Thuỳ Dương – Email: – ĐT: 0904.13.8585
Website: www.cafesangtao.com – Đam mê sáng tạo - Chắc chắn thành công
4
Tìm hiểu nghệ thuật tuồng
Mâu thuẫn xã hội biểu hiện trong loại Tuồng này là mâu thuẫn phong kiến nội địa, không
có ngoại xâm. Ngoại xâm nếu có cũng chỉ là chi tiết phụ và thông thường, chỉ là cái cớ để đưa tình
tiết kịch phát triển mà thôi.
Về cấu trúc kịch bản: Kịch bản loại tuồng này đều xây dựng theo dòng kịch tự sự phương
Đông. Câu chuyện được trình bày có đầu có đuôi và theo trật tự thời gian phát triển của nó. Về mặt
này nó giống như những câu chuyện cổ tích dân gian. Kịch bản được viết dưới dạng là kể một câu
chuyện đã xảy ra (chứ không phải dưới dạng câu chuyện đương xảy ra). Như vậy, về mặt này nó
tương ứng với loại tiểu thuyết chương hồi thời cổ.
Tuy vậy, loại kịch bản này chứa đựng tính xung đột rất cao. Từ xung đột giữa phe phái đối
lập đi đến xung đột giữa những tính cách; xung đột nội tại của tính cách nhiều trường hợp hết sức
gay gắt.
Mỗi kịch bản thường được chia ra làm ba hồi. Hồi I nói chung là giao đãi hoàn cảnh và
nhân vật chủ yếu, nêu ra mâu thuẫn cơ bản của kịch. Hồi thứ II, xung đột nổ ra quyết liệt, phe đối
lập đánh đổ phe chính diện và tạm thời chiếm ưu thế; tình huống kịch ở hồi này rất phứuc tạp và
rắc rối. Hồi III xung đột lên cao trào, đấu tranh giữa hai phe đi đến quyết liệt cao độ rồi giải quyết
cuối cùng bằng sự thắng lợi của phe chính nghĩa.
Cũng có vở gồm bốn hồi. Trường hợp ấy thì hồi thứ III phát triển xung đột, gây nhiều tình
huống khó khăn, hồi IV xung đột lên cao và kết thúc.
Trong hai hồi II và III tình tiết kịch phát triển rộng và phong phú. Xung đột kịch bùng nổ,
phát sinh nhiều tuyến kịch mới, ví như sau khi có biến động chính trị xảy ra trong triều đình thì tiếp
theo là sự khủng bố đàn áp của phe phản động, là những mưu đồ, đối sách bí mật hoặc công khai
của phe chính diện, là những nghĩ ngợi, dò xét lẫn nhau trong một số người trong phe chính diện,
trước khi đi đến chỗ thực sự hiểu nhau để cộng tác và hành động, là những cuộc đấu tranh tư tưởng
của những nhân vật chủ yếu giữa trung và hiếu, nghĩa vụ và tình riêng… Đây là giai đoạn phát
triển tính cách rõ nhất.
Như vậy nghệ thuật cấu trúc kịch bản đã khá vững vàng, chặt chẽ, có những quy luật của
nó. Tuy nhiên những quy luật ấy không làm cho các kịch bản Tuồng loại này biến hoàn toàn thành
công thứuc. Câu nhận xét về nội dung kịch bản Tuồng loại này: “vua băng, nịnh tiếm, bà thứ lên
chùa… chém nịnh định đô, tôn vương tức vị”, chỉ là xuất phát từ cái nhìn sơ lược bề ngoài. Thực
ra, các tác giả tuồng loại này có khá nhiều sáng tạo trong cái khuôn khổ chung ấy. Ví dụ cũng như
tiếm ngôi nhưng khá nhiều hình thức khác nhua, có tên nịnh thần khi vua chết thì nhảy lên ngai
ngồi luôn và tuyên bố mình là người kế vị, có tên giả di chiếu của vua cũ giao ngôi cho mình, có
tên bố trí lực luợng quân sự áp đảo rồi ra lệnh cho triều đình công cử người nhiếp chính (vì hoàng
tử còn bé) để đạt mục đích mình được cử, lại có đứa thấy phe vua đã yếu, mình lại đủ thế lực nên
trắng trợn lên ngồi gần vua, mượn quạt vua để cầm thử, mượn áo vua mặc thử, mượn mão vua để
đội thử, rồi mượng ngai vua để ngồi thử và ngồi luôn…
Những vở tuồng bị ràng buộc bởi những thuyết “trung quân”, “chính danh” này tồn tại khá
lâu, được nhân dân yêu thích. Những lý thuyết nho giáo ở đây đã được thông qua tính dân gian,
nên nội dung cũng có những biến đổi tích cực. Chúng ta thấy nổi lên trong loại tuồng này là những
Nguyễn Thuỳ Dương – Email: – ĐT: 0904.13.8585
Website: www.cafesangtao.com – Đam mê sáng tạo - Chắc chắn thành công
5
Tìm hiểu nghệ thuật tuồng
nhân vật đầy nghĩa khí, thuỷ chung, chịu đựng và vượt qua mọi gian khổ hiểm nguy, hi sinh tất cả,
suốt đời chiến đấu cho một lý tưởng lớn. Đạo đức được ca ngợi ở đây là tinh thần chiến đấu không
khoan nhượng với kẻ thù, là tinh thần bền bỉ theo đuổi niềm tin chính nghĩa, tinh thần vị tha cao cả
- Nội dung đạo đức ấy tất nhiên sẽ có sức sống dài lâu trong nhân dân vì nó chứa đựng tính nhân
dân.
3. Làn điệu, ca nhạc của tuồng
Dàn nhạc Tuồng chủ yếu làm nhiệm vụ hỗ trợ trong biểu diễn của diễn viên. Trong dàn
nhạc Tuồng gồm có bộ gõ: (trống, thanh la, mõ..), bộ hơi (kèn, sáo, chủ yếu là kèn); bộ dây (nhị,
cò, hồ, đại, tiểu...) bộ gảy (tam, tứ, nguyệt...).
Tuy dàn nhạc Tuồng chỉ hỗ trợ nhưng rất quan trọng, xin đơn cử về người chơi trống
Tuồng. Chơi trống tuồng cho hay, cho có hồn, nhập thần đâu có dễ, nó không như trống chèo, càng
khác xa trống chầu văn, ả đào, trống nơi cung đình... Trống tuồng có nhiều bộ, mỗi bộ lại biểu hiện
một câu chữ, một động tác phải gắn liền với lời ca, với đàn, sáo nhị... sao cho hài hòa, nhuần
nhuyễn. Khi tiếng trống phát ra, vang lên phải phù hợp với vũ đạo, diễn biến tâm lý của từng vai
diễn trên sân khấu. Nói một cách khác, khi chơi trống tuồng, người nghệ sĩ phải hòa mình với vở
diễn, đồng cảm với tính cách, số phận của từng nhân vật trên sàn diễn để mỗi khi tiếng trống phát
ra, sao cho khớp với diễn biến của từng lớp diễn, hợp cảnh mà đúng làn điệu.
Ví như trong vở Đào Tam Xuân loạn trào, khi Đào Tam Xuân nghe tin chồng chết oan, bà
đã kéo quân về triều đình để hỏi tội vua, lúc này tiếng trống phải vang lên một cách dữ dội, giận
hờn, khiến người nghe như thấy tiếng ai oán, uất hận, xót thương. Đến khi nghe tin cả con trai
mình cũng tử thương nơi chiến trận, tiếng trống phải bứt lên thành cao trào của nỗi niềm đau khổ,
uất ức, như thúc giục sự báo thù, lấy oán trả oán, hờn căm mà xót thương. Nói một cách giản đơn
là người chơi trống phải biết "sống" cùng từng nhân vật, từng màn diễn của vở tuồng đang diễn
trên sân khấu. éó chính là sự mẫn cảm mang tính chuyên nghiệp ở người nghệ sĩ. Muốn tinh thông
nghề nghiệp, không có con đường nào khác hơn là phải khổ luyện, mà luyện mãi rồi quen, quen rồi
lâu dần trở nên thuần thục, thành thạo.
Về phần ca diễn, Tuồng có những lối hát xướng như :
- Nói Lố gồm Nói Lối Tuồng (đào kép xưng tên), Nói Lối Bóp (hai tướng địch gặp nhau),
Nói Lối Dặm (gần như nói thường)...
- Thán, ngâm cũng là hình thức xướng gồm : Thán Nhớ, Thán Sầu, Thán Chết, Thán Hận
(diễn viên hay thán trước khi Hát Nam)...
- Hát nam gồm Nam Xuân (sửa soạn lên đường), Nam Ai, Nam Thương (cho những vai
buồn), Nam Thiên (dành riêng cho nhà sư), Nam Hồn (riêng cho hồn ma), Nam Đi, Nam Chạy
(cảnh loạn lạc, hoạn nạn)...
- Hát khách (thơ chữ Hán) gồm: Khách Thường (tướng ra trận hay đi tuần tiễu), Khách Phú
(hát đối đáp, hàn huyên), Khách Tẩu (rượt giặc hay có chuyện cấp bách), Khách Tử (khi tướng tử
trận, nhân vật sắp chết)...
Nguyễn Thuỳ Dương – Email: – ĐT: 0904.13.8585
Website: www.cafesangtao.com – Đam mê sáng tạo - Chắc chắn thành công
6