Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Cửu Đỉnh (nhà Nguyễn) pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (533.18 KB, 18 trang )

Cửu Đỉnh (nhà Nguyễn)



Cửu Đỉnh

Cửu Đỉnh triều Nguyễn
Vị trí
Hoàng thành Huế
Xây dựng
1835
Tình trạng
Đang trưng bày
Chức năng
Bảo vật


Cửu Đỉnh

Cửu Đỉnh của nhà Nguyễn (tiếng Anh: The Nine Tripod Cauldrons of Nguyen
Dynasty; tiếng Hán: 阮朝九鼎) là chín cái đỉnh bằng đồng, đặt ở trước sân Thế
miếu trong Hoàng thành Huế. Cửu Đỉnh được vua Minh Mạng ra lệnh đúc vào
mùa đông năm 1835 và khánh thành vào ngày 1 tháng 3 năm 1837.
Lấy ý tưởng từ Cửu đỉnh của nhà Hạ ở Trung Quốc, vua Minh Mạng ban chỉ dụ
cho Nội các vào tháng 10 âm lịch năm Ất Mùi (1835), ra lệnh cho Nội các cùng bộ
Công đôn đốc công việc đúc Cửu Đỉnh. Tháng 5 âm lịch năm Bính Thân (1836),
phần thô của chín đỉnh đúc xong. Nhưng phải mất gần 8 tháng sau, Cửu Đỉnh mới
được chính thức hoàn thành. Buổi đại lễ diễn ra vào ngày 1 tháng 3 năm 1837 để
đặt đỉnh ở sân Thế Miếu dưới sự chủ trì của vua Minh Mạng. Trong thời kỳ chiến
tranh Đông Dương rồi chiến tranh Việt Nam, theo đó là suy thoái của thời kỳ bao
cấp (1945 - 1981), Cửu Đỉnh vẫn không dời chuyển và còn nguyên vẹn tới ngày


nay.
Cửu Đỉnh gồm chín cái đỉnh đồng, mỗi đỉnh có một tên riêng ứng với một thuỵ
hiệu của mỗi vị hoàng đế triều Nguyễn. Trên mỗi đỉnh, người ta đều chạm khắc 17
bức họa tiết và 1 bức họa thư, gồm các chủ đề về vũ trụ, núi sông, chim thú, sản
vật, vũ khí, tập hợp thành bức tranh toàn cảnh của đất nước Việt Nam thống nhất
thời nhà Nguyễn.
Mục lục
 1 Quá trình thiết kế và đúc đỉnh
o 1.1 Khởi công
o 1.2 Thiết kế và chế tạo
o 1.3 Khánh thành
 2 Vị trí và đặc điểm hình thể
o 2.1 Vị trí
o 2.2 Đặc điểm hình thể
 3 Những bức họa tiết chạm nổi trên Cửu Đỉnh

 4 Ý nghĩa và giá trị của Cửu Đỉnh
o 4.1 Ý nghĩa
o 4.2 Giá trị
 5 Liên kết ngoài
 6 Xem thêm
 7 Chú giải và thư mục
o 7.1 Chú giải
o 7.2 Thư mục
Quá trình thiết kế và đúc đỉnh
Khởi công
Đỉnh là thứ trọng khí được đúc bằng kim loại, thường có hai quai (tai) và ba
chân,
[1]
nguyên nghĩa là đồ để nấu ăn thời xa xưa. Nhưng đỉnh cũng là tượng pháp

để tượng trưng cho quyền lực thống trị của nhà nước quân chủ.
[2]
.
Trước thời vua Nguyễn Thánh Tổ, các chúa và vua nhà Nguyễn đã cho đúc nhiều
vạc đồng để xác định quyền uy của triều đại. Đỉnh kì thực chính là vạc nhưng mặt
khác, đỉnh có ý nghĩa thiêng liêng tôn kính hơn
[1]
. Theo quan niệm Dịch học, quẻ
Đỉnh (鼎卦) gồm quẻ Ly (離卦) ở trên và quẻ Tốn (巽卦) ở dưới, mà tự quẻ Ly đã
có đức thông minh, sáng suốt, quẻ Tốn có đức vui, thuận. Vậy quẻ Đỉnh có đủ đức
sáng suốt, vui thuận, đắc trung, cương nhu ứng viện nhau để làm việc đời, hanh
thông, rất tốt.
[1]
Do đó theo truyền thuyết, khi Hạ Vũ trị thủy, chia chín châu, đúc
cửu đỉnh đặt ở kinh đô nhà Hạ. Thành Thang diệt Hạ Kiệt, lấy cửu đỉnh của nhà
Hạ mang về kinh đô nhà Thương. Chu Vũ Vương diệt Trụ Vương, lại dời cửu đỉnh
về Lạc Ấp. Với ý nghĩa ấy của cửu đỉnh, tháng 10 âm lịch năm 1835, vua Minh
Mạng xuống dụ chỉ cho Nội các, sai đúc cửu đỉnh riêng cho triều đại của mình,
triều Nguyễn. Dụ chỉ như sau:

Đỉnh là để tỏ ra ngôi vị đã đúng, danh mệnh đã tụ lại. Thực là đồ
quý trọng ở nhà tôn miếu. Xưa các minh vương đời Tam đại lấy kim
loại do các quan mục bá chín châu dâng cống, đúc chín cái đỉnh để
làm vật báu truyền lại đời sau. Quy chế điển lễ ấy thực to lớn lắm !
Trẫm kính nối nghiệp trước, vâng theo đường lối rõ ràng. Nay muốn
phỏng theo đời xưa, đúc chín cái đỉnh để ở nhà Thế miếu Đó là để
tỏ ý mong rằng muôn năm bền vững, dõi truyền đời sau. Chuẩn cho
quan phần việc theo đúng kiểu mẫu mới định mà đúc.
[3]



—Minh Mạng
Nhà vua phái hai viên quan khoa đạo và hai viên quản vệ đôn đốc tiến hành công
việc, quan lại ở bộ Công cũng phải thường xuyên xem xét.
Thiết kế và chế tạo
Sử sách không ghi rõ về quá trình thiết kế, vẽ kiểu Cửu Đỉnh nên rất khó để xác
định xem hình dáng của Cửu Đỉnh bây giờ có phải được giữ nguyên như thiết kế
ban đầu hay đã bị sửa đổi trong quá trình chế tạo. Nhìn chung, cả chín chiếc đỉnh
đều có dáng chung giống nhau : bầu tròn, cổ thắt, miệng loe, trên miệng có hai
quai, dưới bầu có ba chân
[4]
. Ở phần cổ đỉnh, bên phải ghi năm đúc đều là "Minh
Mạng thập lục niên Ất Mùi" tức là năm 1835. Nhưng mỗi đỉnh cũng có nét riêng.
Cũng là quai đỉnh hình chữ U úp, nhưng góc đáy của nó ở các Cao đỉnh, Nhân
đỉnh, Dụ đỉnh và Huyền đỉnh thì vuông góc, còn ở các đỉnh khác lại uốn cong. Mặt
quai thì tùy đỉnh mà bện thừng, cong vỏ măng, cong lòng máng, phẳng bẹt hay có
gờ, triện hoặc để trơn. Phần lớn cổ các đỉnh có hình lòng máng, nhưng ở Cao đỉnh,
Dụ đỉnh lại để thẳng. Vành miệng của Thuần đỉnh, Dụ đỉnh và Huyền đỉnh đều
cong nửa vỏ măng, còn ở các đỉnh khác thì thẳng đứng với gờ vuông. Vai nhiều
đỉnh có gờ đơn hoặc gờ kép, nhưng một số đỉnh để trơn. Đáy bầu đỉnh phần lớn
cong một phần của khối cầu, nhưng ở một số đỉnh khác lại bằng và hơi lõm lên.
Chỉ có chân Dụ đỉnh là được tạo đáy thẳng hơi chếch, còn ở các đỉnh khác đều
công dạng chân quỳ
[4]
. Các mảng hình được chạm trên bàu của đỉnh, mỗi đỉnh có
18 mảng hình.
[4]
.



Hình vẽ Cửu Đỉnh triều Nguyễn trên tập san Bulletin des amis du vieux Hué
(BAVH, tạm dịch: "Những người bạn của Cố đô Huế") năm 1914
Nguyên liệu đúc Cửu Đỉnh do triều đình cung cấp, gồm hai nguyên liệu chính là
đồng và kẽm, có thể thêm chì, thiếc… lấy từ trong kho hoặc các phế khí hay
những vật phẩm bằng đồng không cần dùng nữa
[4]
. Tổng khối lượng đồng để đúc
chín đỉnh là 22473 kg
[5]
nhưng cũng có tài liệu ghi số liệu là 22088 kg
[1]
.


Chín đỉnh đồng trước sân Hiển Lâm Các


Cao đỉnh và Thế Miếu
Quá trình chế tạo Cửu Đỉnh gồm nhiều khâu, cơ bản là các công đoạn kỹ thuật như
làm khuôn, nấu đồng và đúc đỉnh
[4]
.
 Khuôn đúc : được làm bằng đất sét dẻo và giấy gió ở phần mặt khuôn giáp
hiện vật, và đất sét trộn trấu luyện kỹ ở xưởng khuôn. Cửu Đỉnh có khối
hình lớn, phức tạp, cần độ bền vững tuyệt đối nên phải đúc liền khối. Do
dáng hình của mẫu vật và sự phức tạp của các hình trang trí, nên đỉnh cần
phải ghép nhiều mảnh khuôn, khi đúc xong phá bỏ để lấy hiện vật
[4]
.
 Nấu đồng : Hợp kim đồng đã được pha chế theo đúng tỷ lệ cần thiết, được

bỏ cùng với than vào hệ thống cơi ống đã được nung đỏ. Nhờ các luồng gió
được thổi liên tục từ lò bễ qua ống máng làm than cháy đổ và do đó hợp
kim đồng chả ra rơi xuống nồi cơi, tiếp tục đổ hợp kim đồng đã hơ nóng
vào cho đến khi lượng đồng trong các lò đủ đúc một đỉnh, thì thợ đúc dùng
que dắt hơ nóng quấy đều nước đồng ở mỗi nồi cơi cho cặn bã nổi lên dể
dùng muỗm múc bỏ đi. Để đúc mỗi chiếc đỉnh, người ta cần phải có đến 60
lò nấu đồng, mỗi lò chỉ nấu được từ 30-40kg đồng
[4]
.
 Đúc đỉnh : Nồi cơi được đậy lại bằng vung đất trấu rấm ướt, khiêng đến hố
khuôn đúc, đổ đồng vào các chậu rót. Do đồng chả khắp khuôn là đông
ngay, nên khi đúc phải đổ liên tục, hết nồi nước cơi đồng này sang nồi nước
cơi đồng khác cho đến khi đầy mỗi đỉnh. Khi khuôn đỉnh được rót đầy hợp
kim đồng rồi phải giữ yên cho đến khi nguội mới được lấy lên khỏi hó, và
tháo khuôn ra để lấy đỉnh. Phần quai được đúc riêng rồi hàn gắn vào miệng
đỉnh
[4]
.
Cửu Đỉnh đúc xong vào tháng 5 âm lịch năm 1836. Vua Minh Mạng xuống lệnh
chọn thợ khéo chạm khắc các hình trang trí chạm nổi vào mỗi đỉnh. Nhân đó, nhà
vua thưởng cho người Đốc biện và binh lính trông coi một tháng tiền lương, thợ và
người làm thưởng chung cho 300 quan tiền. Đồng thời, vua cũng sai bộ Lễ sắm
sửa lễ vật tạ ơn thần linh giúp đỡ cho việc đúc Cửu Đỉnh được thành công
[6]
. Tuy
vậy, công việc gắn hình chạm nổi mất khá nhiều thời gian. Việc gì đến cũng phải
đến, 8 tháng sau, vào mùa xuân năm 1837, Cửu Đỉnh chính thức hoàn thành.
Khánh thành
Đại lễ khánh thành và đặt Cửu Đỉnh diễn ra vào ngày 1 tháng 3 năm 1837 tức
ngày quý mão tháng giêng âm lịch năm Đinh Dậu, niên hiệu Minh Mạng thứ 18.

Đích thân hoàng đế Minh Mạng đứng ra chủ trì buổi lễ. Chín chiếc đỉnh lần lượt
được đặt ở sân của Thế Miếu, sát với Hiển Lâm Các, dưới chân mỗi đỉnh đều kê
bằng tảng đá.
Bắt đầu buổi lễ, nhà vua cùng quần thần đến miếu tế cáo. Lễ xong, nhà vua dụ bảo
các quan rằng :

Trẫm xem xét đời xưa, đúc đỉnh theo hình các vật, nhưng đồ cổ
[truyền lại] còn ít, những người biên chép ghi lại có chỗ không
đúng, chép ra toàn là [hình dạng] của vạc nấu ăn, còn như đỉnh cao
lớn và nặng, thì không những gần đây không có mà đến đời Tam đại
cũng ít nghe thấy. Nay bắt chước người xưa mà lấy ý thêm bớt, đúc
thành chín đỉnh to, sừng sững đứng cao, nguy nga kiên cố, không
chút sứt mẻ, đáng làm của báu, con con cháu cháu, giữ mãi không
bao giờ hết. Vậy thông dụ cho 31 trực tỉnh và thành Trấn Tây đều
được biết.

—Minh Mạng
.
Ngày hôm sau, vua Minh Mạng thiết triều ở điện Thái Hòa, quần thần đều cúi lạy
chúc mừng. Nhà vua ban yến cho các quan văn võ từ ngũ phẩm trở lên, đồng thời
xuống lệnh thưởng hậu cho các viên giám tu, đốc biện và các thợ đúc Cửu Đỉnh.
Quan lại trấn thủ ở các tỉnh đều dâng biểu chúc mừng
[7]
.
Trải qua hơn 170 năm biến động, Cửu Đỉnh vẫn không hề thay đổi vị trí, còn lại
nguyên vẹn cho tới ngày nay.
Vị trí và đặc điểm hình thể
Vị trí
Cửu Đỉnh đặt ở trước Hiển Lâm Các theo một hàng ngang, đối diện với Thế Miếu,
phía nam hoàng thành Huế. Cao đỉnh được đặt ở trên đường thần đạo chạy từ

Miếu Môn qua Hiển Lâm Các đến gian giữa của Thế Miếu - nơi đặt án và khám
thờ vua Nguyễn Thế Tổ. Cao đỉnh kê ở chính giữa trong số Cửu Đỉnh và là đỉnh
duy nhất được nhích về phía trước 3 mét với hàm ý tôn vinh vị vua sáng lập triều
đại.
Lấy Cao đỉnh làm chuẩn, bên trái lần lượt là Nhân đỉnh, Anh đỉnh, Thuần đỉnh, Dụ
đình ; bên phải lần lượt là là Chương đỉnh, Nghị đỉnh, Tuyên đỉnh, Huyền đỉnh.
Nhân đỉnh đối diện với án thờ vua Nguyễn Thánh Tổ, Chương đỉnh dối diện với
án thờ vua Nguyễn Hiến Tổ, Anh đỉnh đối diện với án thờ vua Nguyễn Dực Tông,
Nghị đỉnh đối diện với án thờ vua Nguyễn Giản Tông, Thuần đỉnh đối diện với án
thờ vua Nguyễn Cảnh Tông, Tuyên đỉnh đối diện với án thờ vua Nguyễn Hoằng
Tông, Dụ đỉnh đối diện với án thờ vua Hàm Nghi, Huyền đỉnh đối diện với án thờ
vua Duy Tân.
Đặc điểm hình thể
Tên
đỉnh
Khối
lượ
ng
(cân
Việt
Khối
lượng
(kg)
Chiề
u
cao
toàn
bộ
Chiề
u

cao
đến
miệ
ng
Chiề
u
cao
chân
(mét)

Chiề
u
cao
quai

Chu
vi
thân
bầu
Chu
vi cổ
(mét)

Chu
vi
miệ
ng
(mét)

Đườ

ng
kính
miệng
(mét)

Chiề
u
rộng
quai
(mét)

Nam)

(mét)

(mét)

(mét)

Cao
đỉnh
4307
cân
2601,4

2,5 2,02 1,05 0,48 5,07 3,01 4,275

1,38 0,48
Nhân
đỉnh

4160
cân
2152,6

2,31 1,84 0,87 0,42 5,04 3,19 4,285

1,365 0,56
Chương
đỉnh
3472
cân
2079 2,27 1,86 0,95 0,41 5,035

3,51 4,245

1,35 0,5
Anh
đỉnh
4261
cân
2595,7

2,25 1,83 0,94 0,42 5,055

3,54 4,28 1,37 0,51
Nghị
đỉnh
4206
cân
2595,7


2,31 1,9 0,89 0,41 5,08 3,53 4,28 1,37 0,54
Thuần
đỉnh
3229
cân
1950,3

2,325

1,9 0,85 0,425

5,047

3,52 4,26 1,365 0,51
Tuyên
đỉnh
3421
cân
2066,4

2,35 1,91 0,93 0,54 5,06 3,52 4,28 1,37 0,61
Dụ 3341
2017,9

2,337

1,91 0,96 0,427

5,1 3,61 4,325


1,38 0,44
đỉnh cân
Huyền
đỉnh
3200
cân
1935 2,31 1,9 0,95 0,41 5,05 3,57 4,43 1,9
Nguồn : Trang điện tử Huế - Xưa và Nay thuộc chính quyền tỉnh Thừa Thiên -
Huế
[4]

Những bức họa tiết chạm nổi trên Cửu Đỉnh
Tháng 10 âm lịch năm 1835, khi ban chỉ dụ sai đúc Cửu Đỉnh, vua Minh Mạng
cũng căn dặn bộ Công rằng:

Nay đúc đỉnh, khắc các hình tượng sông, núi và mọi vật cũng không
cần phải khắc đủ cả, duy phải khắc rõ tên, hiệu và xứ sở để tiện
nhận xét. Đó là cái ý người xưa vẽ hình mọi vật.
[3]

—Minh Mạng
Tổng cộng có 162 tấm họa tiết chạm nổi tinh xảo trên bàu của tất cả 9 chiếc đỉnh,
mỗi đỉnh gồm 18 tấm, chia làm ba tầng, mỗi tầng có sáu hình xen kẽ với 6 mảng
trống, trong đó tầng trên và tầng dưới bố trí lệch đi một khoảng so với tầng giữa.
[4]

Mảng hình chính ở mặt trước thuộc tầng giữa được khắc tên đỉnh với lối chữ chân
phương, từng nét mạch lạc, khối chữ vuông vức. Có thể thống kê các hình chạm
nổi trên Cửu Đỉnh như sau:

[hiện]Thống kê hình chạm nổi trên Cửu Đỉnh triều Nguyễn
Có thể thấy, các hình chạm nổi trên Cửu Đỉnh được sắp xếp theo trật tự trang trí
chặt chẽ. Nhìn chung tầng giữa tập trung những hình quan trọng nhất: lấy tên đỉnh
làm nội dung trang trí chính, đối lại phía sau là các mô hình thể hiện vũ trụ như
các tinh cầu hay các biểu tượng thiên nhiên mạnh mẽ và thần bí, hai bên trên đỉnh
là hình các núi cao hùng vĩ, trập trùng và đối lại bên kia là biển cả mênh mông hay
cửa sông rộng mở, rồi tiếp theo cả hai bên là những con sông lớn của Việt Nam.
[4]

Tầng trên và tầng dưới không có hình ở hai phía trước và sau, mà dàn sang hai bên
nhưng vẫn mang tính đăng đối. Ở tầng trên, thứ tự từ trước ra sau là những cây to
quý (riêng ở Cao đỉnh thay bằng hình rồng, ở Anh đỉnh là ve sầu và ở Tuyên đỉnh
là tổ yến) đối xứng với những cây ăn quả lưu niên. Tiếp theo là hình những con
chim đẹp, quý hiếm (riêng ở Nghị đỉnh thay bằng hình con sâu dừa) đối xứng với
cây lương thực. Cuối cùng là những loài hoa đăng đối với ngũ cốc.
[4]

Tầng dưới đăng đối hai nửa từ trước ra sau là cặp đôi gồm những cây gỗ lớn và
cây gia vị với loài thủy hải sản và cây quý (riêng ở Nghị đỉnh thay bằng cặp chim
uyên ương). Tiếp đến là những loài hải vật nhỏ đăng đối với thuyền bè, xe cộ
(riêng ở Anh đỉnh thay bằng lá cờ). Sau cùng là các linh thú đăng đối với các kiểu
vũ khí chiến trận.
[4]



Hiển Lâm các và Cửu Đỉnh triều Nguyễn trước sân Thế Miếu (tranh của BAVH
1914)
Nghệ nhân khi thể hiện hình chạm trên Cửu đỉnh đã không phụ thuộc vào trạng
thái tự nhiên của vật thể, cũng như tỷ lệ kích thước của chúng, mà họ sáng tạo

bằng sự sắp xếp lại cho vừa một mảng diện tích tương đương nhau trên bàu của
đỉnh. Vì thế có những vật thể thu nhỏ nhiều, nhưng lại có những vật thể thu lại
không đáng kể; có hình rất khái quát, nhưng lại có hình khá chi tiết, hình nào cũng
được nhìn rất động với những chi tiết đặc thù.
[4]
Có thể xem 162 hình chạm khắc
trên Cửu Đỉnh như một bộ "Dư địa chí,"
[4]
bộ bách khoa thư về nước Việt Nam
đầu thế kỷ 19
[5]
bằng phương pháp tạo hình; tuy không đầy đủ nhưng điển hình,
đúng như yêu cầu của vua Minh Mạng: "Nay đúc đỉnh, khắc các hình tượng sông,
núi và mọi vật cũng không cần phải khắc đủ cả, duy phải khắc rõ tên, hiệu và xứ
sở để tiện nhận xét".


Họa tiết chim hạc trên Anh đỉnh
Ý nghĩa và giá trị của Cửu Đỉnh
Ý nghĩa
Với chức năng là trọng khí đặt ở trước sân tông miếu của nhà Nguyễn, là báu vật
tượng trưng cho đế nghiệp muôn năm vững bền của triều Nguyễn, tên gọi của mỗi
đỉnh đang mang hàm ý của Minh Mạng : là thụy hiệu của các vua triều Nguyễn.
Chẳng hạn như Cao đỉnh chính là thụy hiệu của Nguyễn Thế Tổ Cao hoàng đế,
Nhân đỉnh là thụy hiệu của chính vua Minh Mạng, Chương đỉnh là thụy hiệu của
vua Thiệu Trị, Anh đỉnh là thụy hiệu của vua Tự Đức, Nghị đỉnh là thụy hiệu vua
Kiến Phúc, Thuần đình là thụy hiệu của vua Đồng Khánh, Tuyên đỉnh là thụy hiệu
của vua Khải Định. Tất nhiên các vua Dục Đức, Hiệp Hòa bị Tôn Thất Thuyết phế
truất và giết chết ; vua Hàm Nghi lãnh đạo phong trào Cần Vương chống Pháp ;
hai cha con vua Thành Thái, Duy Tân bị người Pháp phế truất và lưu đày ; vua

Bảo Đại thoái vị đều không được đặt tên miếu hiệu và thụy hiệu. Do đó, tên của
Dụ đỉnh và Huyền đỉnh không trở thành thụy hiệu của bất kì vị vua nào triều
Nguyễn.
Cửu Đỉnh gắn liền với con số 9, một con số thiêng liêng theo quan niệm phương
Đông, tượng trưng cho Trời, cho sự hoàn thiện tuyệt đối, cho quyền uy và sức
mạnh của người đứng đầu thiên hạ
[5]
. Dễ hiểu tại sao số 9 là tư tưởng chủ đạo vua
Minh Mạng trong việc đúc Cửu Đỉnh cho triều đại mình : tất cả các loại cảnh vật
đều được chọn lọc và sắp xếp theo số 9. 9 vì tinh tú và hiện tượng thiên nhiên
trong vũ trụ là Mặt Trời, Mặt Trăng, Gió, Sét, Mây, Mưa, Ngũ tinh, Bắc Đẩu, Nam
Đẩu ; 9 ngọn núi lớn là Thiên Tôn, Ngự Bình, Thương Sơn, Hồng Lĩnh, Tản Viên,
Duệ Sơn, Đại Lãnh, Hải Vân, Đèo Ngang ; 9 sông lớn là Bến Nghé, sông Hương,
sông Gianh, sông Mã, sông Lô, Bạch Đằng, Thạch Hãn, sông Lam, sông Hồng ; 9
con sông đào và sông khác là kênh Vĩnh Tế, sông Vĩnh Điện, sông Lợi Nông, sông
Vệ, sông Phổ Lợi, sông Thao, sông Cửu An, sông Ngân Hà. Rồi 9 loài chim, 9 loài
cây lương thực, 9 loại rau củ, 9 loài hoa, 9 loại cây lấy quả, 9 loại dược liệu quý, 9
loại cây thân gỗ, 9 loại vũ khí chiến trận, 9 loại thuyền bè, xe cộ, cờ. Tất cả những
số 9 ấy hòa quyện với nhau tạo nên một bức tranh thiên nhiên sông núi đất trời
Việt Nam hoành tráng
[1]
.


Họa tiết Hải Vân quan chạm nổi trên Dụ đỉnh
Con số 9 cũng kết thúc một vòng lịch đại đầy đủ, tương ứng với cửu tộc
[8]
. Khởi
đầu từ CAO tức thế hệ khai sáng và kết thúc ở HUYỀN là thế hệ sau cùng, khép
kín một chu kỳ để đi vào cõi vĩnh hằng

[4]
. Từ CAO đến HUYỀN trong hệ thống
thế thứ lịch đại, mỗi thế hệ tượng trưng cho một đức tính tốt : CAO, tức người
khởi dựng, tượng trưng cho sự vĩ đại, NHÂN là lòng tốt, tượng trưng đức,
CHƯƠNG là sự gương mẫu, là ánh sáng, ANH là tài giỏi vinh hạnh, hiển đạt,
NGHỊ là ý chí kiên cường, cương nghị, THUẦN là sự hoàn thiện, phong phú,
TUYÊN là sự hài hòa, tinh thông, DỤ là nền tảng sự thịnh vượng và HUYỀN ứng
với nơi sâu thẳm
[5]
.
Chính vì thế, con số 9 ở đây là số nhiều, đầy đủ nhất đến mức hoàn tất, để rồi sang
con số 10 sẽ trở lại từ đầu theo một chu kỳ mới
[4]
. Qua đó, Minh Mạng thể hiện
ước muốn trường tồn của quốc gia Đại Nam và uy quyền của triều Nguyễn mãi
vững bền đến nhiều đời con cháu ông sau này
[5]
. Nhưng chỉ đến đời Bảo Đại -
người cháu 6 đời của Minh Mạng, nhà Nguyễn đã chính thức sụp đổ, kéo theo sự
cáo chung của nền quân chủ Việt Nam.
Giá trị
Cửu Đỉnh có thể coi là một cuộc triển lãm những tác phẩm mỹ thuật rất tinh tế của
những nghệ nhân tài hoa, là biểu tượng cho sự giàu đẹp, thống nhất của đất nước
Đại Nam và ước mơ triều đại mãi vững bền, hùng mạnh. Tất cả 162 mảng hình
trên Cửu Đỉnh là 162 bức chạm độc lập, hoàn chỉnh, là sự kết hợp điêu luyện giữa
nghệ thuật đúc và chạm nổi đồ đồng của Việt Nam, giữa văn hoá dân gian và văn
hoá bác học, là bách khoa thư về cuộc sống con người Việt Nam hồi nửa đầu thế
kỉ 19.
Cửu Đỉnh là di sản văn hóa quý hiếm, có giá trị nhiều mặt của văn hóa Huế nói
riêng, Việt Nam nói chung.


×