Tải bản đầy đủ (.ppt) (38 trang)

Phe chủ chiến và phe chủ hòa trong triều đình nhà Nguyễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.46 MB, 38 trang )


Trường Đại Học Sư Phạm Thành Phố Hồ Chí Minh
Khoa: Sử
Môn: Lịch Sử Việt Nam Cận Đại
GVHD: Ngô Sỹ Tráng
Nhóm thuyết trình: 1
Chủ đề: Sự Phân Hóa Trong Nội Bộ Triều Huế Trước Sự xâm
Lược Của Pháp và Ảnh Hưởng Của Nó Đến Quá Trình Chống
Pháp Xâm Lược
I.Phần Mở Đầu
Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, nhà
Nguyễn là triều đại ở vị trí rất đặc biệt, đó là
điểm giao thời từ Việt Nam độc lập sang
nước Việt Nam nô lệ. Nhà Nguyễn tồn tại 143
năm (1802 – 1945) trong thời kì đất nước có
nhiều biến động, là nhà nước phong kiến cuối
cùng trong lịch sử Việt Nam. Hiếm có triều đại
nào thu hút nhiều sự chú ý của các nhà
nghiên cứu lịch sử như triều Nguyễn. Một
nguyên nhân quan trọng vì đây là thời kì gần
với lịch sử hiện đại Việt Nam, còn lưu giữ
được nhiều những tư liệu thành văn nhưng
phần khác là ở triều Nguyễn luôn tồn tại hai
mảng sáng tối đan xen với nhau, dễ gây nên
sự tranh luận của các nhà khoa học, trong đó
nội dung được đề cập nhiều là cuộc đấu tranh
chống Pháp xâm lược (1858 – 1885) và
nguyên nhân để mất nước ta vào tay thực
dân Pháp.
Nghiên cứu những xung đột giữa hai phe chủ chiến và chủ hòa trong nội
bộ nhà Nguyễn thời kì đấu tranh chống Pháp xâm lược (1858 - 1885)


không những rất cần thiết để hiểu về quá khứ mà còn có ý nghĩa quan
trọng trong thời kỳ hiện nay, nhất là ở thời điểm chúng ta đang thực hiện
công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, tiến vào hội nhập cùng khu vực
và thế giới. Cuộc đấu tranh nội bộ đó đã để lại bài học sâu sắc về vấn đề
xây dựng sự đoàn kết nhất trí trong chính quyền nhà nước, là nhân tố
quan trọng của thành công cũng như thất bại. Bài học về đoàn kết trong
lực lượng lãnh đạo, đại đoàn kết toàn thể nhân dân là bài học lớn trong
suốt tiến trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta và nó chính là thứ
di sản quý giá của dân tộc cần được chú trọng và tiếp tục vận dụng trong
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Cho tới nay, cuộc đấu tranh giữa hai phe chủ chiến và chủ hòa trong
cuộc đấu tranh chống Pháp xâm lược ở nửa cuối thế kỉ XIX đã thu hút
được nhiều sự chú ý, quan tâm của các nhà khoa học. Sự phân hoá,
chia rẽ trong nội bộ triều Nguyễn thành hai phe chủ chiến và chủ hoà
chính là hệ quả của cuộc đụng độ giữa Việt Nam và Pháp và nó cũng
chứng tỏ sự bất ổn, sự yếu kém của triều Nguyễn trong cuộc đấu tranh
chống Pháp.
Bài thảo luận của nhóm chúng tôi sẽ làm rỏ những vấn đề sau:
Thứ nhất: Bối cảnh lịch sử dẫn đến sự hình thành của hai phe chủ chiến
và chủ hòa.
Thứ hai: Xác định lực lượng của hai phe chủ chiến, chủ hòa; quan điểm
đường lối và cuộc đấu tranh của hai phe này trong thời kì chống Pháp
xâm lược, bảo vệ độc lập chủ quyền.
Thứ ba: Đánh giá những tác động của sự phân hóa này đối với cuộc đấu
tranh chống Pháp xâm lược hồi nửa cuối thế kỉ XIX và rút ra bài học cần
thiết đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước hiện nay.
1 Hoàn cảnh lịch sử của sự phân hóa trong nội bộ triều
đình nhà Nguyễn.
a. Thế giới.
Thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa

đế quốc. Vấn đề tìm kiếm thị trường và thuộc địa của chủ
nghĩa đế quốc đang trở thành vấn đề bức thiết nhằm đáp
ứng nhu cầu phát triển của nền sản xuất đại công nghiệp.
Là một nước tư bản phát triển, Pháp nhanh chóng vươn
lên thành một cường quốc trong hệ thống chủ nghĩa đế
quốc.
Bấy giờ trên thế giới, châu Á vẫn đang chìm đắm trong chế độ
phong kiến nghèo nàn, lạc hậu nên đã trở thành “mảnh
đất hứa” của chủ nghĩa đế quốc. Pháp nhanh chóng nhận
thấy châu Á và Đông Nam Á là thị trường cần được mở
rộng. Việt Nam nhanh chóng trở thành mục tiêu thôn tính
của thực dân Pháp.
Đầu thế kỉ XX, liên quân 8 nước đế quốc nhảy vào xâu xé
Trung Quốc. Pháp là nước đi đầu và cũng gặt hái được khá
nhiều lợi nhuận. Sau khi hoàn thành xong việc phân chia
Trung Quốc, Pháp bắt đầu tiến hành xâm lược Việt Nam.
Các nước đế quốc xâu xé Trung
Các nước đế quốc xâu xé Trung
Quốc
Quốc
Thực chất từ lâu Pháp đã có quan hệ với Việt Nam. Đó là
thời điểm Nguyễn Ánh chạy trốn quân Tây Sơn, gặp được
Bá Đa Lộc và cho con trai theo Bá Đa Lộc sang Pháp cầu
cứu viện. Sau khi lập nên nhà Nguyễn, Nguyễn Ánh nhiều
lúc muốn cắt đứt quan hệ với người Pháp vì ông đã phần
nào nhận thấy dã tâm của người Pháp đối với đất nước này
nhưng thực dân Pháp vẫn không ngừng nhòm ngó Việt
Nam. Pháp đã để lại cố đạo Bá Đa Lộc nhằm làm nội ứng
cho cuộc xâm lược sau này.
Giai đoạn đầu, Pháp tổ chức các đội truyền giáo và thương

nhân xâm nhập vào Việt Nam. Lực lượng này dưới danh
nghĩa truyền đạo và buôn bán nhưng thực chất là do thám
chuẩn bị cho Pháp vào Việt Nam. Phản ứng đầu tiên của
nhà Nguyễn là ngăn cấm những giáo sĩ truyền đạo và cấm
thông thương buôn bán với thương nhân Pháp. Về sau
quyết liệt hơn nhà Nguyễn đã thi hành chính sách cấm đạo,
giết đạo. Để hạn chế sự hoạt động của các giáo sĩ nhà
Nguyễn đã ra 24 đạo dụ nhằm cấm truyền đạo vào Việt
Nam. Sự cấm đoán đó của triều Nguyễn đã không những
không mang lại kết quả mà còn làm cho quá trình truyền đạo
diễn ra rộng hơn và sâu hơn. Những cuộc tàn sát dã man
của nhà Nguyễn đã đẩy một bộ phận nhân dân ta tiến dần
về phía kẻ thù và mâu thuẫn trong nước ngày càng trở nên
sâu sắc. Lực lượng giáo sĩ truyền đạo đang hoạt động ngày
càng tích cực nhằm phục vụ âm mưu xâm lược sắp được
tiến hành.
b. Việt Nam.
Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX, chế độ phong kiến
đang trên con đường khủng hoảng trầm trọng. Thời Tự
Đức cao trào nông dân khởi nghĩa đã làm chế độ phong
kiến lung lay tới nền móng. Theo thống kê chưa đầy đủ,
chỉ từ năm 1848 (khi Tự Đức lên ngôi) đến năm 1862 (là
năm thực dân Pháp cướp trắng ba tỉnh miền đông Nam
Kỳ) đã có 40 cuộc khởi nghĩa.
Để duy trì nền thống trị của mình, phong kiến nhà Nguyễn
đã ra sức củng cố xã hội bằng mọi cách. Về đối nội thì
đàn áp khốc liệt các cuộc khởi nghĩa nông dân. Các cuộc
hành quân liên miên đã khiến lực lượng quân đội triều
đình suy yếu dần, khả năng chiến đấu giảm sút. Lòng dân
oán thán, chia lìa, khối đoàn kết dân tộc rạn nứt. Tình hình

trên đã gián tiếp tạo điều kiện thuận lợi cho Pháp thôn tính
nước ta.
Phong trào nông dân khởi nghĩa đã khẳng định rằng, vào
lúc thực dân Pháp chuẩn bị nổ súng xâm lược nước ta là
lúc mâu thuẫn giữa nông dân và phong kiến trở nên hết
sức sâu sắc. Lợi dụng sự khốn cùng của quần chúng
nhân dân lao động, các giáo sĩ phương Tây ra sức thu
phục tín đồ. Lực lượng này tìm mọi cách khoét sâu mâu
thuẫn giáo – lương. Các giáo sĩ Pháp lúc này hoặc trực
tiếp tổ chức hoặc đứng sau những vụ khởi loạn chống
triều đình, chuẩn bị cơ sở chính trị cho cuộc xâm lăng sắp
tới.
Song song với những chính sách đối nội thiển cận, phong kiến Nguyễn đã cho thi
hành một đường lối đối ngoại sai lầm: đẩy mạnh các cuộc xâm lược Campuchia và
Lào. Từ năm 1827 đến 1847, trong vòng 20 năm, nhà Nguyễn đã gây chiến tranh
với người Miên, người Xiêm và người Lào, khiến cho nhân dân vô cùng khốn khổ.
Đi đánh giặc Lạp, giặc Lào, giặc Xiêm là ác mộng của nhân dân miền Trung và
miền Nam trong thời gian đó. Kết quả của 20 năm theo đuổi chính sách xâm lược
tai hại đã khiến cho tài lực và nhân lực bị hao mòn, hiềm thù ngày càng khoét sâu
giữa các nước láng giềng với nhau, trong lúc bọn thực dân đang nhòm ngó ngoài
cửa ngõ.
Rõ ràng với những chính sách phản động nói trên, nước Việt Nam đã suy yếu về
mọi mặt và trở thành miếng mồi ngon đối với các nước tư bản phương tây. Lịch sử
lúc ấy đã đi đến một bước ngoặt, buộc triều đình nhà Nguyễn phải lựa chọn. Một là
triều đình Nguyễn bị đánh đổ và thay thế vào là một triều địa khác tiến theo hướng
mới của tư bản chủ nghĩa có khả năng duy tân đất nước và bảo vệ nền độc lập dân
tộc. Hai là nước Việt Nam mất vào tay tư bản Pháp để trở thành một xứ thuộc địa.
Thực tế lịch sử đã chứng minh, khả năng thứ nhất không xảy ra, còn khả năng thứ
hai thì liền kề. Khi thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam thì cũng là lúc chế độ
phong kiến Việt Nam đi vào phân hoá và chia rẽ sâu sắc với hai phe chủ chiến và

chủ hoà. Nhà Nguyễn đã không tìm ra sách lược hữu hiệu với kẻ thù, luôn bị động
và bất đồng về đường lối, do đó nhà Nguyễn luôn tỏ ra lúng túng khi đối đầu với
thực dân Pháp và cuối cùng là đầu hàng từng bước rồi để mất cả nước ta vào tay
Pháp, biến quá trình mất nước không tất yếu trở thành tất yếu.
Pháp tấn công
Đà Nẵng
2 Sự phân hóa trong nội bộ triều đình Huế
trước sự xâm lược của thực dân Pháp và ảnh
hưởng của nó đến quá trình xâm lược.
2.1 Ở mặt trận Đà Nẵng và Gia Định.
Thực dân Pháp nổ súng bắt đầu cuộc xâm lược
nước ta ngày 1 tháng 9 năm 1858, liên quân Pháp
và Tây Ban Nha bắt đầu nổ súng tấn công bán đảo
Sơn Trà (Đà Nẵng) mở màn cuộc xâm lược Việt
Nam. Vua Tự Đức đã cử quân tướng tích cực
phòng thủ và đánh trả quân xâm lược ở mặt trận Đà
Nẵng. Ngày 2 tháng 9 năm 1858 Pháp chiếm được
Điện Hải rồi chiếm Sơn Trà tiến vào cửa sông Đà
Nẵng. Vua Tự Đức đã sai quân Đô đốc Lê Đình Lý,
Phạm Khắc Thận đem quân tiếp viện ở mặt trận và
tiến hành cắt chức Trần Hoàng, Nguyễn Tài. Chiến
sự ở mặt trận Đà Nẵng ngày càng căng thẳng,
trước tình hình đó vua Tự Đức đã cử Nguyễn Tri
Phương đến Đà Nẵng để chỉ huy cuộc kháng chiến.
Dưới sự chỉ huy của Nguyễn Tri Phương, ông cho
xây dựng thành hào, không cho địch tấn công sâu
vào nội địa, với sự áp dụng của chiến thuật lối đánh
du kích làm tiêu hao sinh lực địch.
Pháp tấn công
Gia Định

Qua đó cho thấy trong thời kì đầu chống thực
dân Pháp, nội bộ triều đình nhà Nguyễn đã tỏ rõ
quyết tâm phối hợp cùng nhân dân đánh giặc.
Trước sự tấn công, bao vây, cô lập của quân
dân ta, thực dân Pháp đã bị tổn thất nặng nề.
Nên sau năm tháng tấn công Đà Nẵng, thực dân
Pháp cũng không thực hiện được mục đích buộc
triều đình nhà Nguyễn đầu hàng, kết thúc chiến
tranh nhanh chóng, phá sản kế hoạch đánh
nhanh thắng nhanh. Trước tình hình đó, thực
dân Pháp phải rút đại bộ phận quân khỏi Đà
Nẵng, tháng 2 năm 1859 thực dân Pháp chuyển
hướng đánh sang Gia Định. Tại mặt trận Gia
Định, nhận tin Gia Định bị chiếm ngày 17 tháng
2 năm 1859, triều đình Huế đã cử Thượng thư
bộ hộ Tôn Thất Cáp và Bố chính nam ngai Phan
Tĩnh điều quân các tỉnh Bình Định, Khánh Hòa…
cùng với đạo quân ứng nghĩa được thành lập để
chống Pháp và kêu gọi nhân dân thực hiện
“vườn không nhà trống”, không hợp tác với địch.
Triều đình thực hiện chính sách “thủ” để “công”
từ tháng 9 năm 1858 đến tháng 2 năm 1859.
Phan Thanh Giản
Sau khi không đạt được mục tiêu đề ra ở mặt trận Đà Nẵng,
thực dân Pháp gặp nhiều khó khăn, vướng vào cuộc chiến
tranh Áo trên đất nước Ý, nên phải dồn lực lượng vào chiến
trường Châu Âu, không thể tiếp viện cho quân đội ở Việt Nam.
Trong lúc này mâu thuẩn Anh- Pháp gay gắt, chiến trong có
thể bùng nổ. Trước tình khó khăn như vậy, chính phủ Pháp
phải ra lệnh cho Giơnuilly nghị hòa với triều đình nhà Nguyễn.

Ngày 20 tháng 6 năm 1859 Giơnuilly chính thức đề nghị đình
chiến với triều đình nhà Nguyễn. Ngay lập tức, triều đình nhà
Nguyễn đã có sự phân hóa không thống nhất về đường lối
chính sách, chủ trương. Người bàn chiến, kẻ bàn hòa lại có kẻ
không hòa không chiến . Sự phân hóa chủ yếu ở 4 luồng tư
tưởng sau:
- Tiêu biểu cho phe chủ hoà có Trương Đăng Quế, Phan
Thanh Giản, Lưu Lượng, Võ Xuân Hãn… chủ trương cho
rằng:
“Chiến không bằng hoà, nhưng phải cố thủ rồi sau mới bàn.
Kẻ địch vốn cậy quyền bền súng mạnh làm sở trường, họ ở
ngoài sóng gió mặt bể, thế ta khó thắng với họ. Thượng kế bây
giờ nên lấy giữ (thủ) làm chính, giữ vững rồi sau mới có thể nói
đánh, cũng có thể nói đến hoà. Bằng không trước lo việc giữ
thì đánh cũng không được mà hoà cũng không xong” .
“Dương sự thủy mạt”
Đây là tư tưởng được Tự Đức cho là hợp lẽ phải.
Sở dĩ phe chủ hoà chủ trương như vậy là bởi họ lý
giải là nên nuôi sức chọn thời châm chước đối phó.
Mặt khác Tự Đức và những người trong phe chủ
hoà cho rằng mục đích tấn công vào thực dân Pháp
chỉ là truyền đạo và buôn bán, chứ không làm gì tổn
hại đến ta. Cái nhìn đó của vua quan nhà Nguyễn là
thiển cận, bó hẹp trong phạm vi một quốc gia đang
cố duy trì nền tảng của chế độ phong kiến, không
mở rộng ra thế giới nên thiếu hiểu biết về bản chất
của đế quốc nói chung và thực dân Pháp nói
riêng.Cái chủ trương thủ để hòa hay là “ trì cửu để
đợi cho họ mỏi” của triều đình thật là tai hại; địch
không bị tấn công mạnh, không mất sinh lực nhiều,

không ê răng gẫy vuốt gay từ lúc đầu, thái độ của
triều đình có thể làm cho quân dân nản chí vì mất
lòng tin. Hơn nữa, không ít người trong số vua quan
nhà Nguyễn vốn sớm mang tư tưởng hoang mang lo
sợ giặc khi chúng ngấp nghé ngoài cửa ngõ nên dao
động sinh ra chủ hoà nhằm bảo vệ quyền lợi ích kỉ
của giai cấp mình. Lập trường của phe này tỏ ra
phản động và không hợp lòng dân.
-Còn có kẻ lại chủ trương chủ hòa trắng trợn, hèn nhát, sợ giặc, gồm có Lê Chí
Tín, Đoàn Thọ, Tôn Thất Thường, Tôn Thất Giao, Nguyễn Hào. Đại lược họ
nói:
“ Đạo dùng binh lấy thư nhàn đợi kẻ nhọc… Công thủ là việc khó; hòa
tuy là hạ sách, nhưng ngày nay chính là lúc nên để cho dân nghĩ ngơi, bằng
ngược lại thì sợ rằng có cái lo ngoài ý nghĩ. Nay kẻ kia cầu hòa, quyền nghi
cũng có thể cứu lại”.
“ Dương sự thủy mạt”
- Các quan Tô Trân, Phan Hữu Nghị, Trần Văn Vi, Lê Hiểu Hữu, Nguyễn Đăng
Điều, Hồ Sỹ Thuần cho rằng:
“Quảng Nam, Gia Định địa thế, địch tính đại đồng mà tiểu dị, địch ở
ngoài xa khơi thì khó đánh, địch vào nội địa càng dễ đánh, dễ bị tiêu diệt. Phải
giữ và đánh, thủ để công, công để thủ, quét sạch địch, bằng nay hoà với họ thì
sẽ bắt ta bỏ tấn và thông thương, xây nhà thờ, mở phố xá, rồi trăm sự xảo
quyệt đều do một chữ hoà mà ra cả”.
“Dương sự thủy mạt”
-Các quan Trần Văn Trung, Lâm duy Hiệp cho rằng:
“ Pháp ở xa đến chỉ cần mấy khoảng như họ đưa, chứ không có ý thôn
tính nước ta”. Họ chủ trương “chỉ có phòng giữ là đắc sách, nay muốn quyết
chiến với họ chưa thấy cái cứ”
“Dương sự thủy mạt”
Ý kiến được nhiều người tán thành là hòa hảo thương thuyết. Chủ hòa

khẳng định ngay từ đầu đại bộ phận thuộc hàng ngũ triều đình đã mang
nặng tư tưởng thất bại chủ nghĩa, tư tưởng sợ giặc, tư tưởng đớn hèn,
làm cho quan quân triều đình nhà Nguyễn bỏ lỡ nhiều cơ hội đánh thắng
quân thù.
Ở mặt trận Gia Định, trong trận Kỳ Hòa ta chủ trương chiến, nhưng đã
thất bại làm cho triều đình hoang mang lo sợ, trong khi đó nội bộ triều
đình ngày càng phân hóa mạnh mẽ. Phe chủ hòa đã lấn áp phe chủ
chiến. Quan điểm của triều đình Huế ở mặt trận Gia Định và Kỳ Hòa là
quan điểm “thủ” để giữ lại thành.
Khi Pháp chiếm được 3 tỉnh miền Đông Nam Kỳ, Định Tường
(12/4/1861), Biên Hòa (18/12/1861), Vĩnh Long (23/3/1862), Gia Định
(17/2/1859), xu hướng hòa nghị thắng thế và đi đến hiệp ước Nhâm Tuất
ngày 5 tháng 6 năm 1862 đánh dấu sự thất bại của hai phe chủ chiến và
chủ hòa, qua đó hai phe chủ chiến và chủ hòa điều có mặt tích cực và
tiêu cực.

×