Tải bản đầy đủ (.pdf) (44 trang)

chuyên đề nghiên cứu khảo sát về hiện trạng và xu hướng ứng dụng các công nghệ mới trong ngành cơ khí chế tạo việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (550.54 KB, 44 trang )

1


Đề tài:

Nghiên cứu chiến lược phát triển khoa học công nghệ lĩnh vực cơ
khí chế tạo giai đoạn 2001 – 2020
Chuyên đề 28:
Nghiên cứu khảo sát về hiện trạng và xu hướng ứng dụng các công
nghệ mới trong ngành cơ khí chế tạo Việt Nam






2
Đề tài:

Nghiên cứu chiến lược phát triển khoa học công nghệ lĩnh vực cơ
khí chế tạo giai đoạn 2001 – 2020
Chuyên đề 28
Nghiên cứu khảo sát về hiện trạng và xu hướng ứng dụng các công
nghệ mới trong ngành cơ khí chế tạo Việt Nam

28.0 Mở đầu về công nghệ mới trong ngành Cơ khí chế tạo







3
ĐỀ TÀI KC.05.10/06-10

BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ SỐ 28.0

“Mở đầu về công nghệ mới trong ngành Cơ khí chế tạo”


NHỮNG NGƯỜI THAM GIA

TT
Họ và tên
Đơn vị công tác
Ghi chú
1
PGS. TS. Phạm Ngọc Tuấn
Trường Đại học Bách khoa,
Đại học Quốc gia TP.HCM

2
PGS.TS. Đặng Vũ Ngoạn
Trường Đại học Bách khoa,
Đại học Quốc gia TP.HCM

3
TS. Hồ Thị Thu Nga
Đại học Công nghiệp
TPHCM


4
KS. Hoàng Trần Trung Tín
Phòng thí nghiệm Điều
khiển số và Kỹ thuật hệ
thống

5
ThS. Huỳnh Minh Phú
Đại học Sư phạm Kỹ thuật
TPHCM

6
KS. Nguyễn Thị Mai Trang
Trung tâm Phát triển Công
nghệ và Thiết bị Công
nghiệp Sài Gòn















4
MỤC LỤC

28.0.1. Mở đầu 6
28.0.2. Những vấn đề về công nghệ 8
28.0.2.1. Định nghĩa về công nghệ 8
28.0.2.2. Các bộ phận cấu thành một công nghệ 10
28.0.2.3. Mối quan hệ giữa các thành phần công nghệ 11
28.0.2.4. Phân loại công nghệ 11
28.0.2.5. Vai trò của công nghệ 15
28.0.2.6. Các nhân tố ảnh hưởng đến công nghệ: 16
28.0.2.7. Đánh giá công nghệ 18
28.0.2.8. Dự báo công nghệ 20
28.0.2.9. Đổi mới công nghệ 22
28.0.2.10. Đánh giá năng lực cạnh tranh về công nghệ của Việt Nam 23
28.0.3. Hiện tại và tương lai của ngành cơ khí chế tạo thế giới 24
28.0.3.1. Bối cảnh của ngành chế tạo hiện tại 25
28.0.3.2. Các tiền đề để xây dựng tầm nhìn, sứ mệnh, chiến lược 25
28.0.3.3. Tầm nhìn, sứ mệnh, chiến lược cho ngành chế tạo 25
28.0.3.4. Các động lực quan trọng nhất: 26
28.0.3.5. Các thách thức lớn đối với ngành chế tạo 27
28.0.3.6. Các công nghệ then chốt để đáp ứng các thách thức lớn 28
28.0.3.7. Các bí quyết công nghệ: 29
28.0.4. Hiện trạng và tương lai của ngành cơ khí chế tạo Việt Nam 30
28.0.4.1. Hiện trạng 30
28.0.4.2. Chiến lược phát triển ngành Cơ khí Việt Nam giai đoạn 2005 -
2010 31

5
28.0.5. Lịch sử phát triển công nghệ chế tạo 38

28.0.6. Công nghệ mới trong ngành cơ khí chế tạo 39
28.0.7. Điều tra về hiện trạng ứng dụng công nghệ mới tại một số doanh
nghiệp cơ khí chế tạo Việt Nam 40
Tài liệu tham khảo …………………………………………………………… 42























6
28.0.1. Mở đầu
Chuyên đề 28 được thực hiện trên cơ sở một số quan điểm sau:

Quan điểm 1: Tư duy hòa nhập và toàn cầu hóa.
Ngành cơ khí chế tạo Việt Nam và những công nghệ mới được đề cập trong
chuyên đề này không tách khỏi bối cảnh của thế giới và những thành tựu về công
nghệ hiện có và dự báo cần có. Vì vậy dù có một số vấn đề mới, nội dung mới,
thuật ngữ mới hoặc còn xa lạ, chúng vẫn được đưa vào trong chuyên đề này với
mong muốn chúng sẽ được tiếp cận và tiếp thu, ứng dụng trong ngành cơ khí Việt
nam trong tương lai. Một số thuật ngữ torng chuyên đề này sẽ được ghi kèm tiếng
Anh để dễ đối chiếu và hiểu như nhau trong khi chưa có thuật ngữ tiếng Việt được
chính thức công nhận.
Thuật ngữ công nghệ mới trong chuyên đề 28 này được hiểu như ở các nước
là công nghệ chế tạo mới (New Manufacturing Technology) hoặc công nghệ chế
tạo tiên tiến (Advanced Manufacturing Technology, được dùng nhiều hơn và được
viết tắt là AMT).
Quan điểm 2: Tư duy năng suất.
Năng suất ở đây được hiểu theo quan điểm hiện đại, là tỉ số giữa đầu ra chia
cho đầu vào, cộng với hiệu quả và hiệu suất.
Đầu ra có thể là doanh thu, lợi nhuận, sản lượng (tấn, cái, …), giá trị gia tăng,
v.v…
Đầu vào có thể là thời gian, nhân lực, thiết bị, mặt bằng, tiền bạc, các loại chi
phí, các loại lãng phí chưa nhận ra, v.v…
Hiệu quả thể hiện mức độ thỏa mãn khách hàng (nội bộ hoặc bên ngoài), đáp
ứng nhu cầu của người sử dụng, thân thiện với môi trường và được xã hội chấp
nhận.
Hiệu suất thể hiện mức độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp.
- Có 5 phương án tăng năng suất:
 Một là tăng đầu ra và giảm đầu vào.
 Hai là tăng đầu ra và tăng đầu vào, nhưng đầu ra tăng nhiều hơn.

7
 Ba là tăng đầu ra và giữ nguyên đầu vào.

 Bốn là giảm đầu ra và giảm đầu vào, nhưng đầu vào giảm nhiều hơn.
 Năm là giữ nguyên đầu ra và giảm đầu vào.
Như vậy, bất kỳ một công nghệ nào có thể làm tăng năng suất cho doanh
nghiệp cơ khí chế tạo thì đều có thể xem là công nghệ mới, công nghệ tiên tiến, và
là đối tượng được giới thiệu trong chuyên đề này.
Quan điểm 3: Tiếp cận hệ thống và tích hợp.
Ứng dụng công nghệ mới trong ngành cơ khí, thực chất là ứng dụng cho
doanh nghiệp cơ khí chế tạo. Doanh nghiệp được xem là một hệ thống bao gồm tất
cả các hoạt động (chứ không phải chỉ có quá trình gia công, chế tạo) của các bộ
phận, phòng ban được tích hợp một cách thông suốt (chứ không phải độc lập, riêng
rẻ, cách biệt) về các nguồn lực và thông tin. Vì vậy bất kỳ công nghệ mới nào đều
có thể là cần thiết và có thể ứng dụng cho toàn bộ hệ thống sản xuất hoặc cho từng
hoạt động, từng quá trình, từng bộ phận trong doanh nghiệp, chứ không chỉ cho
quá trình gia công, chế tạo.
Quan điểm 4: Mở rộng nội dung của cơ khí chế tạo.
Ngày nay ở nhiều nước người ta dùng các cụm từ ngành Kỹ thuật chế tạo
(Manufacturing Engineering) trong trường đại học và ngành (công nghiệp) chế tạo
(Manufacturing) thay vì chế tạo máy (machine building – tiếng Anh,
machnostroenie – tiếng Nga, maschinenbau – tiếng Đức). Trong các giáo trình kỹ
thuật chế tạo, chế tạo được định nghĩa là quá trình biến nguyên vật liệu đầu vào
thành bán thành phẩm hoặc sản phẩm đầu ra. Như vậy khái niệm “chế tạo” rộng
hơn nhiều so với khái niệm “chế tạo máy” vẫn đang dùng phổ biến ở các trường
đại học Việt Nam. Trong nhiều trường hợp ở các nước, sản phẩm của ngành chế
tạo có thể không liên quan gì đến máy móc, thiết bị mà lại có thể là một sản phẩm
sinh học, y tế, nhựa, v.v…
Một ví dụ khác, ngành chế tạo ở một số nước tiên tiến có thể sản xuất 1 gram
than ống nano với giá trị là 1.000 USD, còn ở một số nước đang phát triển 1 tấn
thép được sản xuất có giá trị 1.000 USD. Như vậy cùng một trọng lượng bán thành
phẩm, ngành chế tạo có thể tạo ra giá trị gấp 1 triệu đồng.


8
Nếu ngành cơ khí chế tạo Việt Nam tiếp cận với khái niệm chế tạo như các nước
tiên tiến thì sẽ có nhiều cơ hội hơn nữa để mở rộng phạm vi hoạt động, sản phẩm
và nâng cao giá trị gia tăng của ngành.
Ngoài ra trong phần mở đầu này, để xác định các công nghệ mới trong ngành cơ
khí chế tạo, chúng ta sẽ tìm hiểu về công nghệ, rồi tiếp cận với cách xác định các
công nghệ mới của một số nước tiên tiến để từ đó xác định những công nghệ mới
sẽ được đề cập trong chuyên đề 28.
28.0.2. Những vấn đề về công nghệ
28.0.2.1. Định nghĩa về công nghệ
- Quan niệm cũ về công nghệ: Công nghệ là tập hợp các phương pháp gia
công, chế tạo làm thay đổi tính chất, hình dạng, trạng thái, của nguyên vật liệu và
bán thành phẩm để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh [1].
Ví dụ: Công nghệ chế tạo máy, công nghệ sản xuất linh kiện điện tử.
Như vậy theo quan điểm cũ, công nghệ chỉ liên quan tới sản xuất vật chất mà
chúng ta có thể nhìn thấy được và cảm nhận được.
- Định nghĩa của ESCAP (Uỷ ban kinh tế và xã hội khu vực Châu Á Thái
Bình Dương): Công nghệ là kiến thức có hệ thống về qui trình kỹ thuật để chế biến
vật liệu và thông tin. Công nghệ bao gồm kỹ năng, kiến thức, thiết bị, phương pháp
và các hệ thống dùng trong việc tạo ra hàng hoá và cung cấp dịch vụ.
Ví dụ: Công nghệ du lịch, công nghệ giáo dục,v.v
Như vậy, công nghệ dùng chỉ mọi hoạt động trong tất cả các lĩnh vực hoạt
động xã hội có sử dụng kiến thức khoa học nhờ đó mà công việc có hiệu quả hơn.
Các khía cạnh trong quan điểm về công nghệ:
- Công nghệ là “Máy biến đổi”: Đề cập tới khả năng làm ra sản phẩm đáp
ứng và thoả mãn được yêu cầu về kinh tế, đây là khác biệt giữa khoa học và công
nghệ: Công nghệ không tồn tại mãi mãi vì một công nghệ muốn xuất hiện thì phải
hiệu quả hơn công nghệ cũ, còn khoa học là những phát minh, khám phá mang tính
bền vững.


9
- Khía cạnh này đã nhấn mạnh không chỉ tầm quan trọng của công nghệ
trong việc giải quyết các vấn đề thực tế, mà còn nhấn mạnh sự phù hợp của mục
đích kinh tế trong việc áp dụng công nghệ.
- Công nghệ là “Một công cụ”: Đề cập tới công nghệ là sản phẩm của con
người vì thế mà con người có thể làm chủ được nó.
- Công nghệ là “Kiến thức”: Đề cập tới công nghệ không nhất thiết phải
nhìn thấy được và nhấn mạnh rằng các công nghệ giống nhau thì chưa chắc đã cho
kết quả như nhau. Vì thế muốn sử dụng công nghệ có hiệu quả thì nhất thiết con
người phải được đào tạo về kỹ năng, kiến thức và được cập nhật thông tin thường
xuyên liên tục.
- Công nghệ là “Hàm chứa trong các dạng hiện thân của nó”: Đề cập tới
công nghệ dù là kiến thức những vẫn được mua, bán. Đó là công nghệ hàm chứa
trong các vật thể tạo ra nó, nó bao gồm 4 thành phần: Kỹ thuật, con người, thông
tin và tổ chức.
- Công nghệ là ứng dụng các tiến bộ khoa học để mang lại lợi ích cho con
người [2].
- Công nghệ là việc ứng dụng tri thức để đáp ứng nhu cầu của con người [3].
- Công nghệ là bí quyết về các phương pháp và phương tiện sản xuất hàng
hóa và dịch vụ [4].
- Công nghệ (tiếng Hy Lạp là technologia) là việc ứng dụng những phát triển
về khoa học và kỹ thuật để mang lại lợi ích cho con người, là những giải pháp cho
những vấn đề của con người được thực hiện bằng cách phát triển và ứng dụng các
dụng cụ, máy móc, vật liệu, hàng hóa, thông tin dưới dạng các kỹ năng, tri thức,
các quá trình, kế hoạch, sơ đồ, mô hình, công thức, bảng biểu, thiết kế kỹ thuật, sổ
tay, chỉ dẫn [5].
Nhận xét các quan điểm về công nghệ:
Định nghĩa của ESCAP được nhiều người thừa nhận nhất vì nó đề cập tới hai
bản chất của công nghệ, đó là: Đề cập đến công nghệ là đề cập tới việc áp dụng
kiến thức khoa học và đề cập đến khoa học là đề cập tới tính hiệu quả.


10
Ưu điểm: Định nghĩa của ESCAP tạo điều kiện cho rất nhiều hoạt động trở
thành công nghệ như: Công nghệ thông tin, công nghệ văn phòng, công nghệ ngân
hàng, công nghệ tiệc cưới, vv.
Nhược điểm: Lạm dụng thuật ngữ công nghệ và làm tăng thêm tính bất bình
đẳng giữa lý luận và thực hành.
Trên thực tế, tuỳ theo mục đích mà chúng ta sử dụng các quan điểm về công
nghệ khác nhau. Như trong lý thuyết tổ chức, người ta coi “Công nghệ là khoa học
và nghệ thuật dùng trong sản xuất, phân phối hàng hoá và dịch vụ” hay trong Luật
khoa học và công nghệ Việt Nam, quan niệm: “Công nghệ là tập hợp các phương
pháp, qui trình, kỹ năng, bí quyết, công cụ, phương tiện dùng để biến đổi các
nguồn lực thành sản phẩm”.
28.0.2.2. Các bộ phận cấu thành một công nghệ
- Theo quan điểm cũ: công nghệ bao gồm hai thành phần đó là máy móc và
con người vận hành máy móc đó.
- Theo Atlat về công nghệ của Liên Hợp Quốc: bất kỳ công nghệ nào cũng
bao gồm 4 thành phần: phần kỹ thuật, phần con người, phần thông tin và phần tổ
chức.
 Phần kỹ thuật (Technoware, ký hiệu là T): công nghệ hàm chứa trong
các vật thể như máy móc, thiết bị, phương tiện và cấu trúc hạ tầng.
Trong công nghệ sản xuất các vật thể này làm thành một dây truyền để
thực hiện một quá trình biến đổi, ứng với một qui trình công nghệ nhất
định, đảm bảo tính liên tục của quá trình công nghệ.
 Phần con người (Humanware, ký hiệu là H): công nghệ hàm chứa trong
các kỹ năng của con người, bao gồm: Kiến thức, kinh nghiệm, kỹ năng
học hỏi, tích luỹ được trong quá trình hoạt động, nó được coi là các tố
chất của con người trong đó tính sáng tạo được coi là quan trọng nhất.
 Phần thông tin (Inforware, ký hiệu là I): công nghệ hàm chứa trong các
dữ liệu đã được tư liệu hoá sử dụng trong công nghệ, nó bao gồm các

các lý thuyết, các phương pháp, các công thức, các thông số và các bí
quyết công nghệ.

11
 Phần tổ chức (Orgaware, ký hiệu là O): công nghệ hàm chứa trong
khung thể chế để xây dựng cấu trúc tổ chức, những qui định về quyền
hạn, trách nhiệm, mối quan hệ giữa các bộ phận trong công nghệ.
28.0.2.3. Mối quan hệ giữa các thành phần công nghệ
Bốn thành phần công nghệ (T, H, I, và O) có quan hệ hữu cơ với nhau, bổ
sung cho nhau, không thể thiếu bất kỳ thành phần nào. Nếu không hiểu rõ mối
tương hỗ này thì có thể dẫn đến lãng phí trong việc đầu tư trang thiết bị do các
thành phần công nghệ không đồng bộ khiến trang thiết bị hoạt động không phát
huy hết các tính năng của nó.
- Phần kỹ thuật (T): là cốt lõi của công nghệ, nhờ máy móc, thiết bị, phương
tiện mà con người tăng được sức mạnh cơ bắp và trí tuệ nhưng để một dây truyền
công nghệ hoạt động được, cần có sự liên kết giữa phần kỹ thuật phần con người
và phần thông tin, do có mối quan hệ này nên khi phần kỹ thuật được nâng cấp thì
phần con người và phần thông tin cũng phải nâng cấp tương ứng.
- Phần con người (H): đóng vai trò chủ động trong công nghệ, mở rộng các
tính năng của công nghệ đồng thời quyết định mức độ hiệu quả của phần kỹ thuật,
điều này lại liên quan tới thông tin mà con người được trang bị và thái độ của họ
dưới sự điều hành của tổ chức.
- Phần thông tin (I): là sức mạnh của một công nghệ và được biểu hiện dưới
dạng các tri thức được tích luỹ trong công nghệ, nhờ đó mà các sản phẩm tạo ra có
các đặc trưng mà các sản phẩm cùng loại của các công nghệ khác làm ra không thể
có được. Tuy nhiên sức mạnh của công nghệ lại phụ thuộc vào con người vì trong
quá trình vận hành con người sẽ bổ sung, cập nhật thông tin của công nghệ đáp
ứng được sự tiến bộ không ngừng của khoa học.
- Phần tổ chức (O): là động lực của công nghệ đồng thời đóng vai trò điều
hoà, phối hợp giữa ba thàh phần công nghệ trên để thực hiện hoạt động biến đổi

hiệu quả được biểu hiện trong việc lập kế hoạch, tổ chức bộ máy, bố trí nhận sự,
động viên thúc đẩy và kiểm soát mọi hoạt động trong công nghệ.
28.0.2.4. Phân loại công nghệ

12
Hiện nay số lượng loại công nghệ nhiều đến mức không thể xác định chính
xác, do đó việc phân loại chính xác, chi tiết các loại công nghệ là điều khó thực
hiện. Tùy theo mục đích, có thể phân loại công nghệ như sau:
a. Theo tính chất:
Có các loại công nghệ sản xuất; công nghệ dịch vụ; côngnghệ thông tin; công
nghệ giáo dục - đào tạo.
Theo ISO 8004.2, dịch vụ có bốn loại:
- Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, tư vấn.
- Tham quan, du lịch, vận chuyển.
- Tư liệu, thông tin.
- Huấn luyện, đào tạo.
b. Theo ngành nghề:
Có các loại công nghệ công nghiệp, nông nghiệp, công nghệ sản xuất hàng
tiêu dùng, công nghệ vật liệu.
c. Theo sản phẩm:
Tùy thuộc vào loại sản phẩm có các loại công nghệ tương ứng như công nghệ
thép, công nghệ xi măng, công nghệ ôtô,
d. Theo đặc tính công nghệ:
Công nghệ đơn chiếc, công nghệ hàng loạt, công nghệ liên tục.
e. Theo trình độ công nghệ:
Căn cứ mức độ phức tạp, hiện đại của các thành phần công nghệ, có các công
nghệ truyền thống, công nghệ tiên tiến, công nghệ trung gian.
Các công nghệ truyền thống thường là thủ công, có tính độc đáo, độ tinh xảo
cao, song năng suất không cao và chất lượng không đồng điều. Các công nghệ
truyền thống có ba đặc trưng cơ bản: tính cộng đồng, tính ổn định và tính lưu

truyền.
Các công nghệ tiên tiến là thành quả khoa học hiện đại, những công nghệ này
có năng suất cao, chất lượng tốt và đồng đều, giá thành sản phẩm của chúng hạ.

13
Công nghệ trung gian nằm giữa công nghệ tiên tiến và truyền thống xét về trình độ
công nghệ.
f. Theo mục tiêu phát triển công nghệ:
Có công nghệ phát triển, công nghệ dẫn dắt, công nghệ thúc đẩy.
- Các công nghệ phát triển bao gồm các công nghệ bảo đảm cung cấp các
nhu cầu thiết yếu cho xã hội như: ăn, ở, mặc, đi lại
- Các công nghệ thúc đẩy bao gồm các công nghệ tạo nên sự tăng trưởng
kinh tế trong quốc gia.
- Các công nghệ dẫn dắt là các công nghệ có khả năng cạnh tranh trên thị
trường thế giới.
g. Theo góc độ môi trường:
Có công nghệ ô nhiễm và công nghệ sạch.
- Công nghệ sạch là công nghệ mà quá trình sản xuất tuân theo điều kiện
giảm ảnh hưởng ô nhiễm đến môi trường, sử dụng các nguồn nguyên liệu thô và
năng lượng với chi phí hợp lý và kinh tế.
h. Theo đặc thù của công nghệ:
Có thể chia công nghệ thành hai loại: công nghệ cứng và công nghệ phần
mềm. Cách phân loại này xuất phát từ quan niệm công nghệ gồm bốn thành phần
trong đó phần kỹ thuật được coi là phần cứng, ba phần còn lại được coi là phần
mềm của công nghệ. Một công nghệ mà phần cứng của nó được đánh giá là đóng
vai trò chủ yếu thì công nghệ đó được coi là công nghệ cứng và ngược lại.
Cũng có quan niệm coi công nghệ cứng là công nghệ khó thay đổi; còn công nghệ
mềm là công nghệ có chu trình sống ngắn, phát triển nhanh.
i. Theo đầu ra của công nghệ:
Có công nghệ sản phẩm và công nghệ quá trình.

- Công nghệ sản phẩm liên quan đến thiết kế sản phẩm (thường bao gồm các
phần mềm thiết kế sản phẩm) và việc sử dụng, bảo trì sản phẩm (thường bao gồm
các phần mềm sử dụng sản phẩm).

14
- Công nghệ quá trình liên quan đến chế tạo các sản phẩm đã được thiết kế
(liên quan đến bốn thành phần công nghệ).
Cuối cùng một loại công nghệ mới xuất hiện làm đảo lộn căn bản cách phân
loại công nghệ truyền thống, đó là các công nghệ cao (Hightech-Advanced
Technology).
Theo quan niệm một số tổ chức quốc tế, ngành công nghệ cao phải có đặc
điểm như sau:
- Chứa đựng nỗ lực quan trọng về nghiên cứu triển khai.
- Có giá trị chiến lược đối với quốc gia.
- Sản phẩm được đổi mới nhanh chóng.
- Đầu tư lớn cùng rủi ro cao .
- Thúc đẩy được sức cạnh tranh và hợp tác quốc tế trong nghiên cứu - triển
khai, sản xuất và tìm kiếm thị trường trên qui mô toàn quốc.
Như vậy, công nghệ cao là công nghệ có khả năng mở rộng phạm vi, hiệu quả
của các công nghệ hiện có nhờ tích hợp các thành tựu khoa học - công nghệ tiên
tiến.
Tiêu chuẩn quan trọng nhất của một công nghệ cao là hàm lượng nghiên cứu -
triển khai cao và tỷ lệ chi phí nghiên cứu - triển khai phải cao hơn mức chi phí
trung bình cho nghiên cứu - triển khai trong giá bán sản phẩm (ví dụ hiện nay là
11,4% so với mức trung bình là 4%).
Các nước phát triển thuộc tổ chức OECD xác định 6 ngành công nghệ cao
như sau:
- Công nghệ hàng không vũ trụ.
- Tin học và thiết bị văn phòng.
- Điện tử và linh kiện điện tử.

- Dược phẩm.
- Chế tạo thiết bị đo lường.
- Chế tạo thiết bị điện.

15
28.0.2.5. Vai trò của công nghệ
Công nghệ và tăng trưởng kinh tế [6]:
Một trong những nghiên cứu đầu tiên do R.Solow thực hiện cho thấy chỉ có
10 - 13% sự tăng năng suất ở Hoa kỳ từ năm 1909 đến năm 1949 là do tích tụ tư
bản, phần còn lại chủ yếu do tiến bộ công nghệ. Một nghiên cứu về tăng trưởng
kinh tế của Anh do Denison thực hiện (1968) cho thấy trong giai đoạn 1950 - 1962
chỉ có 10% sự tăng sản lượng/đầu người là do gia tăng về nhân lực và vật liệu,
45% do gia tăng về kiến thức, 45% do nâng cao trình độ cho lực lượng lao động và
do kinh tế theo qui mô (Economies of Scale). Sự đóng góp của công nghệ vào tăng
trưởng kinh tế nhờ vào đầu tư nhà máy và thiết bị mới, sử dụng nhân lực có kỹ
năng và kiến thức cao hơn, hoặc do cải tiến và đổi mới công nghệ. Theo R.Solow,
sự phát triển công nghệ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Báo cáo
"Technology in the National Interest" (1996) của Hội đồng khoa học và công nghệ
quốc gia Hoa kỳ nhấn mạnh công nghệ là động lực của tăng trưởng kinh tế và
thành quả của các công ty - góp phần vào tăng trưởng kinh tế, có liên quan chặt
chẽ với việc sử dụng công nghệ. Do vậy, chính phủ đã thực hiện các biện pháp
nhằm hổ trợ cho phát triển công nghệ:
- Hỗ trợ trực tiếp cho R&D và thương mại hoá công nghệ.
- Thực hiện các chính sách tài chánh, đầu tư để khuyến khích các hoạt động
R&D.
- Chính sách công nghệ phải hỗ trợ cho các mục tiêu giáo dục và đào tạo.
Một số nhà kinh tế cho rằng có thể xác định được các chu kỳ tăng trưởng kinh
tế dài hạn được thúc đẩy bởi sự thay đổi công nghệ. Theo họ, trong thời kỳ cách
mạng công nghiệp, chính sự phát triển của năng lượng hơi nước đã làm các nền
kinh tế ở châu Âu và Hoa kỳ phát triển. Điện lực và động cơ đốt trong đã đóng góp

phần lớn cho sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ trong giai đoạn giữa thế kỷ 20. Và
đến nay, các công nghệ mới như công nghệ thông tin đang tạo nên một làn sóng
tăng trưởng kinh tế mới.
- Sự phát triển của công nghệ thông tin còn kéo theo một tác động quan
trọng khác là phổ biến một mô hình tổ chức sản xuất mới. Vai trò quan trọng của

16
việc sử dụng công nghệ thông tin thể hiện ở một tỷ lệ đầu tư của các doanh nghiệp.
Nghiên cứu cho thấy việc đầu tư vào công nghệ thông tin làm tăng hiệu quả hoạt
động của các doanh nghiệp được tổ chức lại lao động, nhưng lại làm giảm năng
suất chung của các yếu tố sản xuất của những doanh nghiệp không tổ chức lại lao
động. Như vậy, nếu đầu tư vào công nghệ thông tin được đi kèm với các biện pháp
tổ chức lại lao động thì đó sẽ là một công cụ tốt để doanh nghiệp phát huy tối đa
năng lực của mình. Nếu không, người ta sẽ nhìn thấy máy vi tính khắp nơi, nhưng
chỉ có một số trong đó phát huy được hiệu quả. Đây chính là biểu hiện của nghịch
lý Solow.
- Công nghệ và cạnh tranh: M.Porter, khi phân tích chiến lược cạnh tranh đã
tóm tắt tầm quan trọng của công nghệ đối với cạnh tranh: "Sự thay đổi công nghệ
là một trong những yếu tố chính thúc đẩy cạnh tranh. Nó giữ vai trò quan trọng
trong sự thay đổi cơ cấu công nghiệp và trong việc tạo ra những ngành công
nghiệp mới”.
28.0.2.6. Các nhân tố ảnh hưởng đến công nghệ:
1) Tác động của khoa học kỹ thuật chúng ta hiểu rằng mục đích của khoa học
và công nghệ là phát triển tối ưu các nguồn lực nhằm phục vụ xã hội con người
nhưng ta cần phân biệt khoa học chủ yếu là khám phá và nhận thức các quy luật tự
nhiên và xã hội. Còn công nghiệp chủ yếu là ứng dụng các thành quả của khoa học
để giải quyết các mục tiêu sinh lời cho kinh tế - xã hội nói như vậy khoa học luôn
là cái có trước là tiền đề cho công nghệ phát triển đây là cơ sở cho công nghệ thể
hiện sản xuất thương mại , dịch vụ khoa học mở cánh cửa cho công nghệ yếu tố
quan trọng trong việc phát triển nền công nghiệp hiện đại là thêm những công cụ

đã được khoa học phát triển ra . Lý thuyết giúp cho thực hành tôt hơn . Khoa học
cung cấp môi trường để các ý đồ công nghệ triển khai khi công nghệ phát triển rồi
thì lại quay lại tạo điều kiện làm cho nền tảng khoa học phát triển nên bước tiếp
theo .
2) Tác động của khoa học - Tổ chức công nghệ bao gồm các tổ chức xã hội
của sản xuất và quá trình lao đông. Vậy một sự thay đổi trong tổ chức xã hội và sản
xuất lao động là thay đổi công nghệ .

17
Thành tựu đạt được, kinh nghiệm đúc kết qua thực tiễn của các khoa học thuộc các
chuyên ngành quản lý kinh tế, quản lý kinh doanh, quản trị kinh doanh.
Cũng như kiến thức các ngành kế toán, tài chính lao động đều là các yêu ttó quyết
định đén thay đổi và phát triển công nghệ.
Ví dụ: Phân công lại lao động hợp lý trong một công nghệ cũ để làm thay đổi công
nghệ mặc dù về mặt vật chất hay các phần khác không thay đổi.
3) Các giai đoạn biến đổi. Một nhân tố quan trọng ảnh hưởng côngnghệ đó là
quá trình biến đổi các tài nguyên thiên nhiên và các nguồn lực được sản xuất thành
các sản phẩm tiêu dùng và trung gian cũng như các tư liệu sản xuất, để hiểu rõ quá
trình này có thể chia thành các giai đoạn như sau:
+ Nuôi trồng + Thu nhặt + Sơ chế + Chế biến + Xây dựng + Chế tạo + Lắp ráp +
Đóng gói + Phân phối + Hỗ trợ
4) Trình độ và năng lực : Thể hiện trong công nghệ đó là năng lực công nghệ
để tiện phân tích người ta chia thành
 Năng lực công nghệ cơ sở
 Năng lực công nghệ chuyên ngành.
 Năng lực công nghệ quốc gia.
- Năng lực công nghệ cơ sở khi phân tích người ta chủ yếu vào căn cứ vào
năng lực đầu tư, năng lực, năng lực sản xuất, năng lực liên kết
- Khi nói đến năng lực công nghệ ngành hay quốc gia thường căn cứ tổng
hợp vào năng lực công nghệ cơ sở cộng thêm sự ứng phó của cấp cơ sở với chính

sách thị trường và thể chế.
- Năng lực quốc gia dựa vào: Đầu tư vật chất, vốn con người, nỗ lực công
nghệ.
5) Tác động của thị trường: Công nghệ thực chất là quá trình biến đổi nguyên
liệu tự nhiên để giải quyết và đáp ứng nhu cầu của thị trường là nơi yêu cầu và lựa
chọn công nghiệp những công nghệ nào đáp ứng được nhu cầu của thị trường thị
tăng trưởng ngược lại bị diệt vong. Vậy thực chất thị trường là nơi lựa chọn công
nghệ, những công nghệ nào đáp ứng được nhu cầu thị trường tồn tại và phát triển
mới luôn gắn chặt với thị trường.

18
6) Tác động của môi trường quốc gia là điều kiện quan trọng trong hoạt động
công nghệ. Thực tế cho thấy rằng cùng một công nghệ thực ở hai quốc gia khác
nhau thì khác nhau , đó là vì môi trường quốc gia ở những nước này khác nhau .
Thực tế cho thấy những điều kiện mâu thuẫn bằng những chính sách phát triển
kinh tế của các quốc gia với nhauhướng đi khác nhau, do đó chính sách đó ảnh
hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát triển công nghệ.
28.0.2.7. Đánh giá công nghệ
Năng lực công nghệ là kết hợp của những quan hệ, tương tác giữa các tổ
chức, khả năng về nguồn lực và các nhóm lợi ích, thể hiện sự đa dạng của các yếu
tố : khả năng điều hành quá trình sản xuất, khả năng của cơ sở hạ tầng phục vụ cho
phát triển công nghệ, khả năng đóng góp của các nguồn lực, khả năng liên kết giữa
các tác nhân thúc đẩy sự phát triển của các thành phần công nghệ, lực lượng lao
động lành nghề, hàm lượng công nghệ của các sản phẩm.
Như vậy, đánh giá năng lực công nghệ rất phức tạp và cần phài đánh giá được
các yếu tố cơ bản của năng lực công nghệ: năng lực hấp thụ, thích nghi, cải tiến
công nghệ và năng lực đổi mới công nghệ. Cho đến nay chưa có một định nghĩa
thống nhất về đánh giá công nghệ. Dưới đây là một số định nghĩa về đánh giá công
nghệ.
- Đánh giá công nghệ là một dạng nghiên cứu chính sách nhằm cung cấp sự

hiểu biết toàn diện về một công nghệ hay một hệ thống công nghệ cho đầu vào của
quá trình ra quyết định.
- Đánh giá công nghệ là quá trình tổng hợp xem xét tác động giữa công nghệ
với môi trường xung quanh nhằm đưa ra các kết luận về khả năng thực tế và tiềm
năng của một công nghệ hay một hệ thống công nghệ.
- Đánh giá công nghệ là việc phân tích định lượng hay định tính các tác động
của một công nghệ hay một hệ thống công nghệ đối với các yếu tố của môi trường
xung quanh.

19
Việc đánh giá này có thể tiến hành ở cấp quốc gia, ngành hay doanh nghiệp.
Khi đánh giá công nghệ phải xem xét một loạt các yếu tố, chúng có thể được phân
thành bảy nhóm như sau:
- Các yếu tố công nghệ: các chỉ tiêu liên quan đến khía cạnh kỹ thuật như
năng lực, độ tin cậy và hiệu quả; các phương án lựa chọn công nghệ như độ linh
hoạt và qui mô; mức độ phát triển của hạ tầng như sự hỗ trợ và dịch vụ.
- Các yếu tố kinh tế: các chỉ tiêu phản ánh yếu tố này có thể là tính khả thi về
kinh tế (chi phí - lợi ích); cải thiện năng suất (vốn và các nguồn lực khác); tiềm
năng thị trường (qui mô, độ co giãn); tốc độ tăng trưởng và độ chuyển dịch cơ cấu
kinh tế.
- Các yếu tố đầu vào : một công nghệ có thể tác động đến mức độ dồi dào
của nguyên vật liệu và năng lượng, tài chính và nguồn nhân lực có tay nghề.
- Các yếu tố môi trường: các chỉ tiêu phản ánh yếu tố này bao gồm môi
trường vật chất (không khí, nước và đất đai); điều kiện sống (mức độ thuận tiện và
tiếng ồn); cuộc sống (độ an toàn và sức khỏe) và môi sinh.
- Các yếu tố dân số: một công nghệ có thể tác động đến tốc độ tăng trưởng
dân số, tuổi thọ, cơ cấu dân số theo các chỉ tiêu khác nhau, trình độ học vấn và các
đặc điểm về lao động (mức thất nghiệp và cơ cấu lao động).
- Các yếu tố văn hóa - xã hội: Thuộc nhóm yếu tố này có chỉ tiêu như sự tác
động đến cá nhân (chất lượng cuộc sống), tác động đến xã hội (các giá trị về mặt

xã hội) và sự tương thích với nền văn hóa hiện hành.
- Các yếu tố chính trị - pháp lý: Một công nghệ có thể được chấp nhận về
mặt chính trị hoặc là không, có thể đáp ứng được đại đa số nhu cầu của dân chúng
hoặc là không, và có thể phù hợp hoặc không phù hợp với thể chế chính sách.
Sự cần thiết của việc đánh giá công nghệ
Ở các nước đang phát triển, đánh giá công nghệ gồm các mục đích sau:
- Đánh giá công nghệ để chuyển giao hay áp dụng một công nghệ. Để đạt
được mục đích này, đánh giá công nghệ phải xác định được tính thích hợp của
công nghệ đối với môi trường nơi áp dụng nó.

20
- Đánh giá công nghệ để điều chỉnh và kiểm soát công nghệ. Thông qua đánh
giá công nghệ để nhận biết các lợi ích của một công nghệ, trên cơ sở đó phát huy,
tận dụng các lợi ích này, đồng thời tìm ra các bất lợi tiềm tàng của công nghệ để có
biện pháp ngăn ngừa, hạn chế, khắc phục.
- Đánh giá công nghệ cung cấp một trong những đầu vào cho quá trình ra
quyết định:
 Xác định chiến lược công nghệ khi có thay đổi lớn trong chính sách
kinh tế - xã hội quốc gia.
 Khi quyết định chấp nhận các dự án tài trợ công nghệ của nước ngoài.
 Quyết định triển khai một công nghệ mới hay mở rộng một công nghệ
đang hoạt động.
 Xác định thứ tự ưu tiên phát triển công nghệ của quốc gia trong từng
giai đoạn.
28.0.2.8. Dự báo công nghệ
Dự báo công nghệ (Technology Forecasting - TF) là việc xem xét một cách có
hệ thống toàn cảnh công nghệ có thể xảy ra trong tương lai, giúp dự đoán được tốc
độ tiến bộ của công nghệ. TF bao gồm:
- Theo dõi môi trường công nghệ.
- Dự đoán những thay đổi của các công nghệ.

- Xác định công nghệ bằng việc đánh giá các khả năng lựa chọn.
Vì dự báo công nghệ hỗ trợ cho việc ra quyết định nên kết quả dự báo phải là
những kết luận định lượng và phải thể hiện một độ tin cậy cần thiết.
TF nhằm đưa ra những kết luận định lượng về các thuộc tính và thông số công
nghệ cũng như những thuộc tính kinh tế - kỹ thuật.
Sự cần thiết của dự báo công nghệ
Những lý do sau đây nói lên sự cần thiết của TF:
- Trong tương lai, doanh nghiệp muốn tồn tại thì phải thay đổi (vì mọi thứ
đều thay đổi) và sự thay đổi này phải đúng lúc và đáp ứng được nhu cầu. TF giúp
cho việc dự đoán các nhu cầu này.

21
- TF cần cho hoạch định công nghệ.
- TF giúp cho ban quản trị cấp cao trong việc xây dựng chiến lược công ty.
Khi xây dựng chiến lược phải phân tích môi trường. Công nghệ là một yếu tố của
môi trường vĩ mô nên cần phải dự báo công nghệ để biết được xu hướng phát triển
của nó. Khi công nghệ thay đổi có thể ảnh hưởng đến hoạt động của doanh nghiệp,
thậm chí có trường hợp doanh nghiệp phải hoạch định lại chiến lược kinh doanh.
- TF cần cho việc đánh giá nguy cơ cạnh tranh. Nguy cơ cạnh tranh thường
xảy ra khi có sự xuất hiện của công nghệ mới. Để đánh giá nguy cơ này, không chỉ
dự báo khả năng của công nghệ để phát triển sản phẩm mà còn dự đoán xem sản
phẩm mới có được thị trường chấp nhận hay không.
Phương pháp dự báo công nghệ
Có 2 phương pháp dự báo công nghệ: dự báo thăm dò (Exploratory TF - ETF)
và dự báo chuẩn (Normative TF - NTF).
ETF nhằm cung cấp khả năng thăm dò hướng đến tương lai. Dự báo này đáp
ứng những thông tin định hướng công nghệ và khả năng phát triển những công
nghệ mới. Theo Worlton, ETF là "xuất phát từ hiện tại và dần dần hướng về tương
lai".
NTF nhằm định hướng theo mục tiêu đã được xác định cũng như mục tiêu

tương lai để giúp lựa chọn được các yêu cầu tương ứng. Theo Worlton, NTF là "
vạch ra tương lai và xác định những hoạt động cần thiết để biến tương lai thành
hiện thực".
Thực tế, người ta cần phải sử dụng tổng hợp các phương pháp, cả ETF và
NTF.
Một số sai lầm trong dự báo công nghệ:
- Sử dụng các dữ liệu không thích hợp.
- Sai lầm trong việc lựa chọn phương pháp và kỹ thuật dự báo.
- Thiếu sáng suốt.
- Thiếu kinh nghiệm.
- Thiếu khách quan.

22
28.0.2.9. Đổi mới công nghệ
a. Đổi mới công nghệ
Đổi mới công nghệ là việc chủ động thay thế phần quan trọng (cơ bản, cốt lỏi)
hay toàn bộ công nghệ đang sử dụng bằng một công nghệ khác tiến tiến hơn, hiệu
quả hơn.
Đổi mới công nghệ có thể chỉ nhằm giải quyết các bài toán tối ưu các thông
số sản xuất như năng suất, chất lượng, hiệu quả (đổi mới quá trình) hoặc có thể
nhằm tạo ra một sản phẩm, dịch vụ mới phục vụ thị trường (đổi mới sản phẩm).
Đổi mới công nghệ có thể là đưa ra hoặc ứng dụng những công nghệ hoàn
toàn mới (ví dụ sáng chế công nghệ mới) chưa có trên thị trường công nghệ hoặc là
mới ở nơi sử dụng nó lần đầu và trong một hoàn cảnh hoàn toàn mới (ví dụ đổi
mới công nghệ nhờ chuyển giao công nghệ theo chiều ngang).
Theo J.Schumpeter có 5 trường hợp đổi mới :
- Đưa ra sản phẩm mới.
- Đưa ra PPSX và thương mại hóa mới.
- Chinh phục thị trường mới.
- Sử dụng nguồn nguyên liệu mới.

- Tổ chức mới đơn vị sản xuất.
b. Các hình thức đổi mới công nghệ
Đổi mới công nghệ theo tính sáng tạo:
Gồm đổi mới gián đoạn (Discontinuous Innovation) và đổi mới liên tục
(Continuous Innovation).
- Đổi mới gián đoạn còn gọi là đổi mới căn bản (Radical Innovation), thể
hiện sự đột phá về sản phẩm và quá trình, tạo ra những ngành mới hoặc làm thay
đổi những ngành đã chín muồi. Đổi mới này tạo nên lợi thế cạnh tranh cho doanh
nghiệp trên thị trường mới.
- Đổi mới liên tục còn gọi là đổi mới tăng dần (Incremental Innovation),
nhằm cải tiến sản phẩm và quá trình để duy trì vị thế cạnh tranh của doanh nghiệp
trên thị trường hiện có.

23
Đổi mới liên tục ở doanh nghiệp đóng góp đáng kể cho sản xuất. Thí dụ như
trong ngành lọc dầu ở Hoa Kỳ, đổi mới liên tục trong thời gian 30 năm đã cho
phép giảm đi 98% lao động, 80% vốn, tiết kiệm 50% năng lượng cho mỗi đơn vị
sản phẩm. Ở Argentina, tại nhà máy thép Acindar, các kỹ sư địa phương đã có thể
tăng sản lượng từ 66 đến 130% chủ yếu nhờ vào đổi mới liên tục, mặc dù công
nghệ ở đây đã lạc hậu.
Đổi mới công nghệ theo sự áp dụng
Nếu xem công nghệ gồm công nghệ sản phẩm (product technology) và công
nghệ quá trình (process technology) thì đổi mới công nghệ bao gồm đổi mới sản
phẩm (sản phẩn gồm hàng hoá và dịch vụ) và đổi mới quá trình.
- Đổi mới sản phẩm: Đưa ra thị trường một loại sản phẩm mới (mới về mặt
công nghệ).
- Đổi mới quá trình: Đưa vào doanh nghiệp hoặc đưa ra thị trường một quá
trình sản xuất mới (mới về mặt công nghệ).
Đổi mới sản phẩm và quá trình có thể là đổi mới gián đoạn hay liên tục.
Tác động cuả đổi mới: đối với năng suất, chất lượng sản phẩm, chu kỳ sống

của sản phẩm, chiến lược cạnh tranh, việc làm.
28.0.2.10. Đánh giá năng lực cạnh tranh về công nghệ của Việt Nam
Diễn đàn kinh tế thế giới xuất bản hàng năm Báo cáo cạnh tranh toàn cầu, kể
từ năm 1979. Báo cáo cạnh tranh toàn cầu 2008 – 2009 được thực hiện cho 134
nước và nền kinh tế. Chỉ số cạnh tranh chung của Việt Nam được xếp thứ 70/134
[7].
Còn “Nhóm chỉ tiêu thứ 9: Tính sẵn sàng về công nghệ” thì như sau:
- Khả năng sẵn sàng của các công nghệ mới nhất: xếp thứ 71/134.
- Mức độ hấp thu công nghệ cấp công ty: 54/134.
- Các luật lệ liên quan đến CNTT và TT: 72/134.
- Vốn FDI và chuyển giao công nghệ: 57/70.
- Số người đăng ký điện thoại di động: 114/134.

24
- Số người sử dụng Internet: 70/134.
- Số máy tính cá nhân: 63/134.
- Số người đăng ký Internet băng thông rộng: 79/134.
28.0.3. Hiện tại và tương lai của ngành cơ khí chế tạo thế giới
Để xác định những công nghệ cho hiện tại và tương lai của ngành cơ khí chế
tạo, ở nhiều nước người ta thường làm như sau:
- Các cơ quan chính phủ về khoa học, kỹ thuật, công nghệ và công nghiệp
cùng với các hiệp hội ngành nghề, các chuyên gia hàng đầu về chế tạo trong nước
và nước ngoài tham gia báo cáo, thảo luận và biên soạn “Tầm nhìn” hoặc “Tương
lai” của ngành chế tạo (manufacturing) năm 2020.
- Xác định bối cảnh hoạt động của ngành chế tạo hiện tại.
- Xác định các tiền đề để xây dựng tầm nhìn, sứ mệnh, chiến lược.
- Xây dựng tầm nhìn, sứ mệnh, chiến lược cho ngành chế tạo và các doanh
nghiệp chế tạo vào năm 2020.
- Xác định các động lực quan trọng nhất về kỹ thuật, chính trị và kinh tế tác
động đến sự phát triển của ngành chế tạo

- Xác định những thách thức lớn đối với ngành chế tạo để đạt được tầm nhìn.
- Nhận dạng các công nghệ then chốt nhằm đáp ứng các thách thức này.
- Xác định các bí quyết công nghệ để các doanh nghiệp chế tạo phát triển
bền vững trong giai đoạn 2020 và sau đó.
- Đề nghị các chiến lược để đo lường sự tiến bộ. Năm 2020 đã được lựa chọn
để khuyến khích suy nghĩ về các thay đổi mang tính cách mạng, hơn là sự tiến bộ
từng bước dựa vào những khả năng hiện tại.
Tìm hiểu các nội dung trên đây sẽ giúp chúng ta nhận dạng các công nghệ
mới và đưa vào xu hướng ứng dụng công nghệ mới trong ngành cơ khí chế tạo
Việt Nam đến năm 2020 trong kịch bản ngành này hòa nhập hoàn toàn với thế
giới.
Các tài liệu tham khảo những nội dung nêu trên bao gồm [8] đến [30]:

25
Sau đây là tổng hợp và tóm tắt những thu hoạch từ các tài liệu nêu trên:
28.0.3.1. Bối cảnh của ngành chế tạo hiện tại
Bối cảnh hoạt động của ngành chế tạo hiện nay trên thế giới có những đặc
điểm sau:
- Thị trường và cạnh tranh toàn cầu hóa.
- Lực lượng lao động ngày càng đa dạng hơn và chi phí lao động ngày càng
tăng.
- Hàm lượng tri thức trong sản phẩm, công nghệ và lực lượng lao động ngày
càng tăng.
- Công nghệ thay đổi nhanh chóng và liên tục.
- Thông tin (trong đó có thông tin khoa học công nghệ) được cung cấp và
phân phối ngày càng nhanh chóng, rộng rãi và đa dạng hơn.
- Chi phí sản xuất sản phẩm ngày càng tăng.
- Khách hàng ngày càng mong đợi, đòi hỏi nhiều hơn và phức tạp hơn.
- Nhiều vấn đề xã hội phức tạp phát sinh trong thị trường toàn cầu hoá.
28.0.3.2. Các tiền đề để xây dựng tầm nhìn, sứ mệnh, chiến lược

 Môi trường chế tạo sẽ liên tục thay đổi nhanh chóng.
 Cạnh tranh sẽ rất khốc liệt.
 Những sản phẩm, quá trình và công nghệ mới sẽ xuất hiện.
 Những hệ thống quản lý mới sẽ xuất hiện.
 Ngành chế tạo sẽ vẫn là một trong những phương tiện chủ yếu tạo ra
của cải vật chất, sự thịnh vương và sự giàu có cho xã hội.
28.0.3.3. Tầm nhìn, sứ mệnh, chiến lược cho ngành chế tạo
a. Sứ mệnh của ngành chế tạo:
Công nghệ phục vụ con người.
Để hoàn thành sứ mệnh này ngành chế tạo sẽ phát triển các giải pháp kỹ thuật
để đạt mục tiêu một thế giới sạch hơn, mạnh khỏe hơn, an toàn hơn và bền vững.
b. Những vấn đề chiến lược của ngành chế tạo:

×