Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

GIẢI QUYẾT NỢ XẤU ĐỪNG CHỈ TRÔNG CHỜ VÀO MỘT BÊN pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (106.46 KB, 4 trang )

GIẢI QUYẾT NỢ XẤU ĐỪNG CHỈ TRÔNG
CHỜ VÀO MỘT BÊN
Xử lý nợ xấu phải đi đôi với việc ngăn nợ xấu tiếp tục phát sinh. Nếu chỉ
dừng ở việc giải quyết mà không nâng cao chất lượng hoạt động thì nợ
xấu sẽ quay trở lại với quy mô lớn hơn nhiều.

Từ năm 2001, các ngân hàng đã được phép tạo lập nguồn tài chính để xử lý
nợ xấu. Các biện pháp được triển khai bao gồm giãn nợ, cơ cấu lại nợ hoặc
xóa nợ; dùng dự phòng rủi ro; xử lý tài sản đảm bảo, đòi nợ người bảo lãnh;
hoặc bán khoản nợ thông qua việc thành lập các công ty quản lý nợ và khai
thác tài sản (AMC) trực thuộc NHTM để xử lý nợ xấu.

Về phía Chính phủ, Thủ tướng cho thành lập công ty mua bán nợ và tài sản
tồn đọng doanh nghiệp (DATC) để giải quyết.

Trong số các biện pháp được các tổ chức tín dụng sử dụng như trên thì việc
dùng dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu và cơ cấu lại nợ được sử dụng phổ
biến nhất. Còn việc mua bán nợ của DATC và các AMC chỉ đạt kết quả ở
mức độ khiêm tốn do hạn chế về vốn và quản trị cùng kinh nghiệm của các
công ty này.

Trong bối cảnh hiện nay, với con số 202.000 tỷ đồng nợ xấu tương đương
8,6% tổng dư nợ tính đến thời điểm cuối quý 1/2012 do Cơ quan giám sát
của NHNN công bố, hay 270.000 tỷ với tỷ lệ nợ xấu 11,8% ở thời điểm cuối
năm 2011 do Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia đưa ra, thì việc giải quyết
nợ xấu là một bài toán vô cùng hóc búa. Dù chưa đến mức đe dọa đến thanh
khoản và sự an toàn của hệ thống, nhưng giải quyết nợ xấu đang là vấn đề
cấp bách nhằm ngăn chặn sự suy sụp của hoạt động sản xuất và sự đổ vỡ
niềm tin.

Xử lý nợ xấu phải đi đôi với các biện pháp ngăn nợ xấu tiếp tục phát sinh.


Nếu chỉ dừng ở việc giải quyết mà không nâng cao chất lượng hoạt động,
giảm thiểu rủi ro của hệ thống ngân hàng, thì nợ xấu sẽ nhanh chóng quay
trở lại với quy mô lớn hơn nhiều.

Chính vì vậy, nhiều ý kiến cho rằng, việc giải quyết nợ xấu hiện nay không
chỉ trông chờ vào một bên là Chính phủ, NHNN hay tổ chức tín dụng, mà
cần phải có sự phối hợp chặt chẽ. Tất nhiên, trách nhiệm của tổ chức tín
dụng phải đặt lên hàng đầu và phải thực hiện theo nguyên tắc thị trường, với
sự giám sát của NHNN. Giải pháp hỗ trợ của Nhà nước chỉ là đối với phần
nợ xấu còn lại sau khi tổ chức tín dụng đã xử lý và theo nguyên tắc đảm bảo
hài hòa về hiệu quả kinh tế, xã hội.

Về phía NHNN, các chuyên gia cho rằng, NHNN phải đưa ra phương án xử
lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng và trình Chính phủ. Tiếp đến là yêu cầu
các tổ chức tín dụng tiến hành phân loại nợ theo đúng quy định và trích lập
dự phòng rủi ro đầy đủ. Một khi tín dụng được phản ánh đúng chất lượng thì
giải pháp về giải quyết nợ xấu mới có thể được thực hiện một cách triệt để.




NHNN nên yêu cầu các tổ chức tín dụng giảm tỷ lệ nợ xấu xuống một mức
nhất định (có thể là dưới 4%) trong một khoảng thời gian nhất định, nếu
không sẽ bị kiểm soát đặc biệt. Công tác thanh tra, kiểm tra và có chế tài xử
lý nghiêm khắc với các trường hợp phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự
phòng rủi ro không đúng quy định cũng là đòi hỏi từ phía cơ quan quản lý.

Về phía các tổ chức tín dụng, phải tích cực thu nợ, có thể là thu trực tiếp
hoặc bán tài sản thế chấp; sử dụng dự phòng rủi ro để xử lý các khoản nợ
không có khả năng thu hồi.


Tổ chức tín dụng cũng nên tìm kiếm đối tác để bán nợ hoặc xem xét chuyển
một phần nợ xấu thành vốn góp với các trường hợp bên nợ được đánh giá là
có khả năng hồi phục.

Phía cơ quan quản lý Nhà nước, ở đây là Bộ Tài chính, cần đưa ra những
chính sách thuế phù hợp, chẳng hạn như giảm thuế thu nhập cho hoạt động
mua bán nợ diễn ra trong từng năm; giảm thuế thu nhập cho một số đối
tượng doanh nghiệp hay miễn giảm thuế VAT khi bán tài sản đảm bảo để
thu hồi nợ…

Về phía Nhà nước, trong trường hợp các tổ chức tín dụng không thể xử lý
dứt điểm nợ xấu thì Nhà nước cần can thiệp bằng cách lập một công ty mua
bán nợ quốc gia hoặc nâng cao năng lực cho DATC.

Nhà nước nên vừa khuyến khích các tổ chức tín dụng tự thực hiện tái cơ cấu,
sáp nhập theo nguyên tắc tự nguyện nhằm tự chấn chỉnh về tổ chức và hoạt
động.

Nhà nước cũng nên thông qua NHNN bơm vốn cho các tổ chức tín dụng có
quy mô lớn, tỷ lệ nợ xấu sau khi tự xử lý vẫn cao và có khả năng tác động
tới hệ thống, có khả năng hồi phục nhanh.

Ở biện pháp này, Nhà nước cần đưa ra các quy định ràng buộc với tổ chức
tín dụng như chịu sự giám sát chặt chẽ của NHNN trong hoạt động; không
chia cổ tức trong một thời gian nhất định, cắt giảm tiền lương, thưởng của bộ
máy lãnh đạo…Việc bơm vốn nên thông qua hình thức mua cổ phần ưu đãi
của các tổ chức đó và được hưởng cổ tức kể cả trong trường hợp tổ chức tín
dụng bị lỗ và có quyền mua cổ phiếu phổ thông. Nói cách khách, khoản đầu
tư này vừa có tính chất một khoản vay và có tính chất sở hữu vốn.

×